Các nguồn lực của doanh nghiệp thương mại

Các nguồn lực của doanh nghiệp thương mại bao gồm tất cả các yếu tố thuộc hệ thống bên trong của doanh nghiệp . Các doanh nghiệp cần cố gắng đánh giá một cách cặn kẽ các yếu tố nội bộ nhằm xác định rõ ưu điểm và nhược điểm của mình . Trên cơ sở đó đưa ra các biện pháp nhằm giảm bớt nhược điểm , phát huy các ưu điểm để đạt được lợi thế tối đa trong từng chu kỳ kinh doanh. Chỉ xem xét về nguồn lực nội bộ của doanh nghiệp cũng cho thấy rằng , sự sống còn của doanh nghiệp suy cho cùng phụ thuộc vào khả năng donah nghiệp có nhận được nguồn lực từ môi trường bên ngoài hay ko . Các nguồn lực chủ yếu đẻ doanh nghiệp tồn tại bao gồm : Tiền vốn , con người và vật tư hàng hóa Mỗi bộ phận chức năng của doanh nghiệp có nhiệm vụ tìm kiếm , bảo toàn một hoặc nhiều nguồn lực trên .Vì các nguồn lực mà doanh nghiệp cần lại nằm trong tay các doanh nghiệp khác cho nên thường mỗi bộ phận chuyên môn giao dịch với một hoặc nhiều doanh nghiệp bên ngoài đó và là móc xích lien kết giữa doanh nghiệp với các doanh nghiệp bạn. Ví dụ bộ phận kinh doanh lien kết chặt chẽ với người cung ứng tạo cho doanh nghiệp nguồn vốn từ hoạt động mua chịu

doc13 trang | Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 1977 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các nguồn lực của doanh nghiệp thương mại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương V : Các nguồn lực của doanh nghiệp thương mại Các nguồn lực của doanh nghiệp thương mại bao gồm tất cả các yếu tố thuộc hệ thống bên trong của doanh nghiệp . Các doanh nghiệp cần cố gắng đánh giá một cách cặn kẽ các yếu tố nội bộ nhằm xác định rõ ưu điểm và nhược điểm của mình . Trên cơ sở đó đưa ra các biện pháp nhằm giảm bớt nhược điểm , phát huy các ưu điểm để đạt được lợi thế tối đa trong từng chu kỳ kinh doanh. Chỉ xem xét về nguồn lực nội bộ của doanh nghiệp cũng cho thấy rằng , sự sống còn của doanh nghiệp suy cho cùng phụ thuộc vào khả năng donah nghiệp có nhận được nguồn lực từ môi trường bên ngoài hay ko . Các nguồn lực chủ yếu đẻ doanh nghiệp tồn tại bao gồm : Tiền vốn , con người và vật tư hàng hóa … Mỗi bộ phận chức năng của doanh nghiệp có nhiệm vụ tìm kiếm , bảo toàn một hoặc nhiều nguồn lực trên .Vì các nguồn lực mà doanh nghiệp cần lại nằm trong tay các doanh nghiệp khác cho nên thường mỗi bộ phận chuyên môn giao dịch với một hoặc nhiều doanh nghiệp bên ngoài đó và là móc xích lien kết giữa doanh nghiệp với các doanh nghiệp bạn. Ví dụ bộ phận kinh doanh lien kết chặt chẽ với người cung ứng tạo cho doanh nghiệp nguồn vốn từ hoạt động mua chịu… Dưới đây chúng ta sẽ lần lượt nghiên cứu một số nguồn lực cơ bản của doanh nghiệp. Nguồn lực lao động: 1.1Lao động trong doanh nghiệp thương mại: 1.1.1 Đặc điểm của lao động thương mại : Lao động trong các doanh nghiệp thương mại là bộ phận lao động xã hội cần thiết được phân công thực hiện quá trình lưu thông hàn hóa . Boa gồm lao động thực hiện quá trìh mua bán , vận chuyển , đóng gói,chọn lọc, bỏa quản và quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp . Mục đích lao động của họ là nhằm đưa hàng hóa từ lĩnh vực sản xuất đến lĩnh vực tiêu dung. Lao động thương mại nó chung và lao động trong các doanh nghiệp thương mại nói riêng tồn tại như một tất yếu khách quan cùng với sự tồn tại của sản xuất , lưu thông hàn hóa và thương mại , đó là do sự phân công lao động xã hội quyết định. Nguồn lao động của các doanh nghiệp thương mại cuãng được tiếp nhận từ thị trường lao động như các doanh nghiệp khác. Song doanh nghiệp thương mại cho chức năng lưu thông hàng hóa nên lao động trong các doanh nghiệp thương mại có những đặc thù riêng của nó: Cũng như trong các doanh nghiệp khác của nền kinh tế quốc dan , quá trình lao động trong các doanh nghiệp thương mại là quá trình kết hợp giữa sức lao động với công cụ lao dộng để tác đọng vào đối twowngfjlao đọng. Song đối tượng lao đông của lao động thượng mại là các sản phẩm đã hoàn chỉnh , mục đích lao động của nhân viên thương mại ko phải là tác động vào sản vật tự nhiên để biến nó thành sản phẩm phù hợp với nhu cậu của tiêu dung mà là tác động vào vật phẩm tiêu dung để đưa nó đến người tiêu dung nhàm thỏa mãn nhu cầu cá nhân của họ , để cho sản phẩm thực sự trở thành sản phẩm , nghĩa là được đem đi tiêu dung , thực hiện giá trị và giá trị sử dụng của nó.Bởi vậy lao động thương mại vừa mang tính chất lao động sản xuát vừa mang tính chất lao động phi sản xuất. Theo quan điểm của C.Mác lao động trong thương mại bao gồm 2 bộ phận: Bộ phận thứ nhất là lao động tiếp tục quá trình sản xuất trong lưu thông , bao gồm nhưng hoạt động lao động gắn liền với giá trị sử dụng của hàng hóa nhằm giữ gìn và hoàn thiện giá trụ sử dụng của hàng hóa , biens mặt hàng của sản xuất thành mặt hàng kinh doanh của thương miaijcugnx tức là mặt hàng của tiêu dùng . Đó là bộ phận lao động vân chuyển ,bảo quản, phân loại, chia nhỏ, chọn lọc chỉnh lý hàng hóa . Bộ phận lao đọng này tuy không làm tăng giá trị sử dụng nhưng nó sáng tạo ra giá trị mới , sáng tạo ra thu nhập quốc dân . Nhuwcngxhao phái của bộ phận lao động này được bù đắp bằng chính bộ phận thu nhập quốc dân mới được sáng tạo ra. Bộ phận thứ hai của lao đong thương mại mang tính chất lưu thông thuần túy . Bộ phận này chỉ lien quan đến giá trị và nhằm thực hiện giá trị của hàng hóa , thu tiền , kiểm ngân, kế toán và các hoạt động quản lý khác . Bộ phận lao động này không sáng tạo ra giá trị ,không sáng tạo ra thu nhập quốc dân . Những hao phí lao động của bộ phận này được bù đắp bằng thu nhập thuần túy của xã hội. Về mặt lý thuyết chúng ta dễ nhận thấy hai bộ phận lao động này , nhưng trong thực tế khó có thể tách bạch được rõ ràng nếu xét trong từng hành vi lao động cụ thể. Ví dụ hàng vi bán hàng của nhân viên bán hàng tại cá cửa hàng bán lẻ chẳng hạn .Nếu chỉ xét bán hàng để thu tiền về thì đó là lao đọng lưu thông thuần túy , song trong hành vi đưa hàng cho khách hàng có chứa đựng việc chuyển hàng từ lĩnh vực sản xuất đến lĩnh vực tiêu dùng mặt khác để có hàng hóa bán nhân viên này phải bảo quản , bao gói hàng hóa… Hơn nữa khi ta đề cập đến đặc ddiiemr này không nhằm mục đích để tách bạch rõ ràng hai bộ phận lao động này , mà điều quan trọng hơn là để thấy được bản chất của lao động thương mại và sự khác biệt của nó so với lao dộng trong các ngành sản xuất vật chất và các ngành dịch vụ khác Lao động thương mại là loại hình lao động phức tạp , đòi hỏi trình độ chuyên môn tổng hợp . Lao động thương mại là chiếc cầu nói liền giữa người sản xuất với người tiêu dùng . Một mặt họ đại diện cho người tiêu dùng để tác động vào sản xuất , lam cho sản phẩm được sản xuất ra ngày càng phù hợp với người tiêu dùng ,mặt khác họ lại đại diện cho sản xuất để hướng dân tiêu dùng làm cho tiêu dùng phù hợp với điều kiện của sản xuất trong từng thời kỳ của đất nước . Để giải quyết các mối quan hệ này đòi hỏi nhân viên thương mại vừa có trình đọ kỹ thuận nhất định , hiểu biết quy trình công nghẹ , tính năng tác dụng của hàng , vừa phải có trình độ giác ngộ chính trị xã hội phải có kien thức cuộc sống , hiểu biết về tâm lý của người tiêu dùng , phải biết lập các mối quan hệ xã hội và xo khả năng chi phối được các mối quan hệ này. Tỷ lệ lao động nữ cao trong lao động thương mại . Xuất phát từ tính chất và đặc điểm hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại , nhất là tính chất xã hội của các hoạt động này ,lao dộng thương mại rất phù hợp với sở trường của phụ nữ. Lao động thương mại mang tính chất xã hội thời vụ rất cao . Tính chất thời vụ này không những thể hiện rõ giữa các mùa trong năm mà còn thể hiện rõ giữa các ngày trong tháng , thậm chí giữa các gờ lao động trong này . Đặc điểm này ảnh hưởng đến số lượng và cơ cấu lao động, đến ván đề bố trí thời gian bán hàng , ca kíp làm việc trong doanh nghiệp . Để sử dugnj lao động tốt ,các doanh nghiệp phải kết hợp hài hòa giữa lao động thường xuyên với lao động tam thời , giữa lao động tuyển dụng suốt đời với lao động hợp đồng , giữa lao động trong danh sách với lao động công nhật , giữa số lượng lao động và thời gian lao động của người lao động trong từng ngày , từng mùa vụ .Trong doanh nghiệp thương mại cùng lúc có 3 loại lao động : Một là , lao đọng trong biên chế : Đây là bộ phận lao đọng cứng , chr yếu của doanh nghiệp ,là những người lao động có trình độ chuyên môn cao và được đào tạo mộ cách có hệ thống . Đội ngũ này sẽ nắm những khâu chủ chốt của kinh doanh và quản lý của doanh nghiệp .Hai là , một số lớn lao động của doanh nghiệp có thể tiếp nhận làm việc trong một số thời gian nhất định . Những người này phần đông là nữ giới vì một số lý do nào đó mà không thể làm trọn thời gian như những người bình thường khác . Họ thường được doanh nghiệp gọi đi làm vào những mùa vụ có nhu cầu lao động cao , hoặc có thể thay phiên nhau làm việc một số ngày trong tuần , một số giờ tỏng ngày. Đây là bộ phận lao động mềm có tính linh hoạt của doanh nghiệp trong quá trình quản lý kinh doanh. Ba là , lao đọng công nhật : Số lao động này không nằm trong dnah sách lao động của doanh nghiệp , mà được doanh nghiệp tuyển dụng theo nhu cầu lao động từng ngày một. Đương nhiên khi tính toán chỉ tiêu lao động bình quân phải tính một lao động bình quân là một người làm đủ số ngày công theo chế độ theo phương pháp quy đổi. 1.1.2 Phân loại lao động trong doanh nghiệp thương mại : Muốn có các thông tin về số lượng và cơ cấu lao động chính xác , phải tiến hành phân loại lao động .Việc phân loại lao động trong các doanh nghiệp thương mại nhằm mục đích phục vụ cho nhu cầu quản lý ,tính toán chi phí sản xuất kinh doanh , theo dõi các nhu cầu về hoạt động kinh doanh , về trả lương và kích thích lao động . Chúng ta có thể phân loại lao động theo nhiều tiêu thức khác nhau tùy theo mục đích nghiên cứu . 1Phân theo vai trò và tác dụng của lao động đến quá trình kinh doanh , ta có thể chia lao đọng trong doanh nghiệp thương mại ra làm 2 loại: Lao động tiếp kinh doanh thương mại gồm có nhân viên mua hàng , nhân viên bán hàng , nhân viên kho , vận chuyển, nhân viên thu hóa , bao gói , chọn lọc chỉnh lý hàng hóa. Trong nền kinh tế thị trường bộ phận này còn bao gồm cả các nhân viên tiếp thị , nhân viên quản trị kinh doanh . Bộ phận lao động này chiếm tỷ trọng lớn trong các doanh nghiệp thương mại và giữ vị trí chủ chốt trong việc thực hiện các chức năng nhiệm vụ và các mục tiêu đã xác định của doanh nghiệp . Bộ phận lao động gián tiếp kinh doanh thương mại : Bao gồm các nhân viên hành chính , nhân viên kinh tế , kế toán , thống kê, nhân viên bảo vệ của doanh nghiệp . 1.Phân theo nhiệp vụ chuyên môn của người lao động có : Nhân viên bán hàng. Nhân viên mua hàng. Nhân viên nghiệp vụ kho Nhân viên vận chuyển Nhân viên tiếp thị Nhân vien kế toán Mục đích của phương pháp phân loại này là để tính toán sắp xếp và bố trí lao động trong từng nghiệp vụ chuyên môn, xác định cơ cấu lao động hợp lý từ đó có phương pháp trả lương và kích thích lao động đối với từng loại lao dọng của doanh nghiệp . 2.Phân theo trình độ chuyên môn: Thông thường nhân viên trực tiếp kinh doanh thương mại có 7 bậc: Bậc 1 và bậc 2 phần lớn gồm lao động phổ thông , chưa qua đào tạo ở một trường lớp nào Bậc 3 và bậc 4 bao gồm những nhân viên dã qua mọt quá trình đào tạo Bậc 5 trở lên là những lao động lành nghề của doanh nghiệp , có trình độ kinh doanh cao. Lao động gián tiếp kinh doanh thương mại cũng được chia thành : nhân viên , chuyên viên, chuyên viên chính , chuyên viên cao cấp . Tóm lại , việc phân loại lao dodngj trong các doanh nghiệp thương mại có ý nghĩa quan trọng trong quá trình tuyển chọn , bố trí sắp xếp lao đọng một cách khoa học nhằm phát huy đầy đủ mọi khả năng lao đọng của người lao động , nhằm không ngừng tăng năng suất lao đọng ,tạo tiền đề vật chất để nâng cao thu nhập cho người lao động. Năng suất lao động trong các doanh nghiệp thương mại : Khái niệm năng suất lao động trong thương mại: Năng suất lao động thể hiện sức sản xuất của lao động và được đo lường bằng số lượng sản phẩm được sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc là lượng thời gin cần thiết để sản xuất một đơn vị sản phẩm. Khác với các ngành sản xuất vật chất , đối tượng lao động của lao động thương mại là sản phảm hàng hóa đã hoàn chỉnh. Mục đích lao động của nhân viên thương mại là đưa hàng hóa từ lĩnh vực sản xuất đến lĩnh vực tiêu dùng một cách nhanh nhất và với chi phí ít nhất. Bởi vậy sức sản xuất của lao động thương mại được biểu hiện thông qua khối lượng hàng hóa tiêu thụ được trong một thời gian nhất định hoặc là thời gian lao động cần thiết thực hiện một đơn vị giá trị hàng hóa tiêu thụ. Cũng như trong các ngành sản xuất , năng suất lao động trong thương mại được biểu hiện bằng hiên vật hoặc bằng giá trị , nhưng vì hàng hóa kinh doanh bao gồm nhiều chủng loại , kiểu cỡ khác nhau nên phần lớn phải dùng giá trị mới khái quát được tiêu chí này . Từ đó ta cso khái niệm : Năng suất lao động trong doanh nghiệp thương mại là mức tiêu thụ hàng hóa bình quân của một nhân viên bán hàng trong một đơn vị thời gian. Tăng năng suất lao động trong thương mại là tăng mức tiêu thụ hàng hóa bình quân của một nhân viên bán hàng trong một đơn vị thời gian , hoặc giảm thời gian lao động cần thiết để thực hiện một đơn vị giá trị hàng hóa tiêu thụ. Đơn vị giá trị hàng hóa tiêu thụ ở đây có thể là 1000 đồng hoặc 100.000 đồng . Như vậy tăng năng suất lao động luôn luôn gắn liền với giảm giá thành sản xuất kinh doanh. Đó chính là sự khác biệt giữa tăng năng suất lao động với tăng cường độ lao động. Ý nghĩa của việc tăng năng suất lao động trong các doanh nghiệp thương mại: Tăng năng suất lao động trong các doanh nghiệp thương mại có ý nghĩa kinh tế rất quan trọng. Tăng năng suất lao động trong doanh nghiệp thương mại là yếu tố đẻ không ngừng mở rộng tiêu thụ hàng hóa vủa doanh nghiệp , tạo điểu kiện phục vụ tốt khách hàng. Góp phần tiết kiệm lao động đầu tư cho lưu thông hàng hóa tạo điều kiện tăng năng suất lao động cho các ngành sản xuất vật chất của nền kinh tế quốc dân Rút ngắn thời gian hàng hóa dừng lại trong khâu lưu thông , thúc đẩy nhanh quá trình tái sản xuất xã hội Tăng năng suất lao động là điều kiện để các doanh nghiệp tiết kiệm hao phí lao động , tiết kiệm chi phí ,tăng tích lũy cho người lao động trong doanh nghiệp. Những nhân tố ảnh hưởng đến năng suất lao động trong doanh nghiệp thương mại: Tăng năng suất lao động có ý nghĩa kinh té cực kỳ to lớn , nó là chỉ tiêu chất lượng phản ảnh hiệu quả kinh tế nói chung và hiệu quả sử dụng lao đọng nói riêng của các doanh nghiệp thương mại.Song như ta đã đề cập ở trên năng suất lao động của nhân viên thương mại có ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lao động xã hội , bởi vậy để có những biện pháp thúc đẩy năng suất lao động hợp lý cho mỗi doanh nghiệp chúng ta phải nghiên cứu những nhân tố ảnh hưởng đến năng suất lao động. Nhóm nhân tố liên quan đến người lao động: Trình độ giác ngộ về chính trị tư tưởng , trình độ chuyên môn : cũng như trong mọi ngành của nền kinh tế quốc dân , muốn thúc đẩy nâng cao năng suất lao động trong thương mại trước hết phải dựa trên cơ sở sự giác ngộ của người lao động .Con người là nhân tố có tính chất quyết định đến quá trình kinh doanh ,tư tưởng con người quyết định hành động của họ .Sự giác ngộ chính trị ,sự hiểu biets về xã hội ,tinh thần thái độ lao động , đạo đức kinh doanh của người lao động càng cao ,càng phù hợp với tế thì năng suất lao động càng cao và ngược lại. Sự giác ngộ ở đây trước hết phải nói đến sự giác ngộ về nghề nghiệp , yêu nghề làm việc hết mình vì nghề ngiệp ,coi doanh nghiệp là nhà .Mặt khác công tác kinh doanh thương mại mang tính chất tổng hợp cả về mặt kinh tế và kỹ thuật nên với sự giác ngộ về nghề nghiệp kết hợp với nâng cao năng suất lao động . Trình độ tổ chức lao động của các doanh nghiệp thương mại : Phân công việc phù hợp với trình độ chuyên môn của họ mới phát huy được năng lực sở trường của người lao động , đảm bảo hiệu suất công tác. Phân công phải gắn liền với hợp tác và vận dụng tốt các biện pháp quản lý người lao động sẽ thúc đẩy nâng cao năng suất lao động. Tiền lương tiền thưởng và các kich thích kinh tế khác là nhân tố vô cùng quan trọng . Xét cho cùng người lao động làm việc vì lợi ích bản than và gia đình họ thông qua thu nhập mà họ được hưởng. Do vậy sự kết hợp hài hòa các lợi ích trong doanh nghiệp thông qua phân phối thu nhập là yếu tố vô cùng quan trọng. Phải làm sao để cho người lao động vì lợi ích bản than và gia đình mình mà quan tâm đến lao động với năng suất , chất lượng và hiệu quả cao . Làm cho người lao động thấy muốn có thu nhập cao , doanh nghiệp phải đạt kết quả cao .Mặt khác doanh nghiệp muốn phát triển phải có sự đóng góp của người lao động trên cơ sở thưởng phạt thích đáng. Nhóm các nhân tố liên quan đến công vụ lao động: Quy mô, cơ cấu , chất lượng và sự phân bố mạng lưới các cửa hàng , quầy hàng và ki ốt bán hàng của doanh nghiệp , mạng lưới kho hàng và sự phối hợp chặt chẽ giữa kho hàng , cửa hàng và phương tiện vận chuyển. Số lượng , chất lượng và cơ cấu của trang thiết bị kinh doanh . Sự bố trí và sắp xếp các phương tiện lao động trong các cửa hàng , kho hàng. Quy trình công nghệ , tổ chức lao động phù hợp với tư liệu lao động. Nhóm các nhân tố liên quan đến đối tượng lao động: Kết cấu hàng hóa kinh doanh ảnh hưởng đến năng suất lao động của nhân viên thương mại được biểu hiện ở hai phương diện trái ngược nhau . Một mặt nếu hàng hóa có chất lượng cao , kết cấu hàng hóa kinh doanh phù hợp với kết cấu của tiêu dùng thì các doanh nghiệp có điều kiện để tăng khôi lượng hàng hóa tiêu thụ do đó tăng năng suất lao động .Mặt khác , khi kết cấu hàng hóa kinh doanh thay dổi làm cho năng suất lao động biểu hiện bằng tiền của người lao động thay đổi. Như ta đã biết hàng hóa kinh doanh của thương mại cso nhiều chủng loại . Có mặt hàng , nhóm hàng giá trị thấp nhưng trong kinh doanh đòi hỏi hao phí lao động cao , ngược lại có mặt hàng , nhóm hàng có giá trị rất cao nhưng hoa phí lao động lại thấp . Bởi vậy khi những mặt hàng có giá trị thấp , hao phí lao động cao tăng lên thì năng suất lao động tăng lên nhưng sự biểu hiện bằng tiền của nó lại giảm xuống và ngược lại .Để đánh giá đúng thực chất năng suất lao động của nhân viên thương mại , đặc biệt là của nhân viên bán hàng ta phải loại trừ ảnh hưởng của nhân tố này . Điều kiện cung ứng hàng hóa : Hàng hóa được cung ứng đều đặn , đảm bảo thường xuyên có hàng bán , khắc phục tình trạng gián đoạn trongkinh doanh do không có hàng bán. Các phương thức và hình thức kinh doanh , tiêu thụ hàng hóa , phục vụ người tiêu dùng. Từ sự phân tích trên đây ta thấy để thúc đẩy tăng năng suất lao động trong thương mại đòi hỏi phải áp dụng hàng loạt các biện pháp quan trọng như tổ chức lao động một cách hợp lý và khoa học , nâng cao trình độ lành nghề của người lao động , xác định đúng đắn phương hướng sản xuất kinh doanh ,cải tiến công tác quản lý kinh tế , tăng cường công tác tư tưởng và công tác tổ chức đời sống cho người lao động nhằm động viên mọi người hăng say lao động. Tiền lương trong doanh nghiệp thương mại: Khái niệm và bản chất của tiền lương trong thương mại: Tiền lương là một phạm trù gắn liền với phạm trù lao động . Song lao động là một phạm trù vĩnh viễn ,còn tiền lương là một phạm trù lịch sử , nó ra đời tồn tại và phát triển trong nền kinh tế hàng hóa. Tiền lương là một hình thức trả công lao động .Để đo lường hao phí lao động trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm người ta chỉ lao động trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm người ta chỉ cso thể sử dụng thước đo giá trị thông qua tiền tệ , vì vậy khi trả công cho người lao động người ta sử dụng hình thức tiền lương . Trong điểu kiện còn sản xuất và lưu thông hàng hóa , tiền lương chính là giá cả sức lao động và người sử dụng lao động , do quan hệ cung cầu về lao động trên thị trường quyết định và được trả theo năng suất lao động , chất lượng và hiệu quả công việc . Song khác với trao đổi hàng hóa bình thường, tiền lương là một phạm trù thuộc lĩnh vực phân phối do đó nó phải xuất phát từ yêu cầu của xã hội và do các quy luật xã hội quyết định. Bởi vậy nguyên tắc trả lương , mức lương cụ thể của ngưởi lao động cao hay thấp trước hết phụ thuộc vào trình độ phát triển của nền kinh tế của đất nước trong thời kỳ lịch sử nhất định . Khi xác định chính sách tiền lương phải xuất phát từ các yêu cầu sau đây : Một là tiền lương phải được giải quyết trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dan cho tất cả các thành phần kinh tế theo yều cầu của cơ chế thị trường. Hai là trong sản xuất kinh doanh phải xem xét tiền lương ở hai phương diện : tiền lương là sự biểu hiện bằng tiền của chi phí snar xuất kinh doanh do đó phải tính đúng , tính đủ các yếu tố hợp thành tiền lương , có như vậy mới cugnr cố chế độ hạch toán kinh doanh . Mặt khác tiền lương là một bộ phận thu nhập của doanh nghiệp phân phối cho người lao động ,bởi vậy nguồn tiền lương phải do chính các doanh nghiệp tự tạo ra từ kết quả hoạt động kinh doanh . Trả lương phải kết hợp hài hòa 3 lợi ích: Đảm bảo cho doanh nghiệp hoàn thành các nghĩa vụ với nhà Nước. Đảm bảo duy trì và phát triển doanh nghiệp : bảo toàn được vốn , tái tạo tài sản cố định. Đảm bảo đời sống của người lao động. Chức năng của tiền lương: Trong các doanh nghiệp thương mại cũng như trong các doanh nghiệp khác của nền kinh tế quốc dân , tiền lương thực hiện 2 chức năng: Về phương diện xã hội tiền lương là phương tiện đẻ tái sản xuất sức lao động cho xã hội.Để tái sản xuất sức lao động tiền lương phải đảm bảo tiêu dugnf cá nhân vủa ngườ
Tài liệu liên quan