Chế định miễn hình phạt trong pháp luật hình sự Việt Nam

Hình phạt là một phạm trù pháp lý – xã hội rất phức tạp, mang tính chất khách quan, gắn liền với sự xuất hiện của Nhà nước và pháp luật. Đây là chế định đã được ghi nhận từ rất sớm trong pháp luật hình sự của các quốc gia trên thế giới. Theo tiếng Latin, hình phạt có tên gọi là “poena”, tiếng Pháp là “peine”, tiếng Anh là “punishment”, tiếng Đức là “strafe”.

doc29 trang | Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2202 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chế định miễn hình phạt trong pháp luật hình sự Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chế định miễn hình phạt trong pháp luật hình sự Việt Nam KẾT CẤU ĐỀ TÀI CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HÌNH PHẠT I.          KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA HÌNH PHẠT: 1. KHÁI NIỆM HÌNH PHẠT: 2. ĐẶC ĐIỂM CỦA HÌNH PHẠT: 2.1. Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước 2.2. Hình phạt chỉ có thể áp dụng với người có hành vi phạm tội: 2.3. Hình phạt được quy định trong Bộ Luật Hình sự, do Tòa án quyết định: II.          MỤC ĐÍCH CỦA HÌNH PHẠT: 1. Mục đích phòng ngừa riêng: 2. Mục đích phòng ngừa chung: CHƯƠNG II: CHẾ ĐỊNH MIỄN HÌNH PHẠT TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM I.  SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA QUY ĐỊNH VỀ MIỄN HÌNH PHẠT TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM: 1.  Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng 8 tới trước Bộ luật hình sự năm 1985: 2.  Giai đoạn từ Bộ luật hình sự năm 1985 đến nay: II. QUY ĐỊNH VỀ MIỄN HÌNH PHẠT TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 (SỬA ĐỔI, BỔ SUNG NĂM 2009): 1. Khái niệm, bản chất pháp lý, đặc điểm cơ bản của MHP: 1.1. Khái niệm, bản chất pháp lý của MHP: 1.2. Đặc điểm cơ bản của MHP: 2. Ý nghĩa của quy định MHP: 3. Các trường hợp MHP trong BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009): 4. Phân biệt MHP với Miễn trách nhiệm hình sự, hình phạt Cảnh cáo: 5. Đánh giá quy định về MHP trong BLHS 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009): CHƯƠNG III: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH VỀ MIỄN HÌNH PHẠT Ở VIỆT NAM I.  THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH VỀ MIỄN HÌNH PHẠT: II. NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG TỒN TẠI TRONG THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH VỀ MIỄN HÌNH PHẠT: CHƯƠNG IV: HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH VỀ MIỄN HÌNH PHẠT Ở VIỆT NAM CHƯƠNG I HÌNH PHẠT TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA HÌNH PHẠT: 1. KHÁI NIỆM HÌNH PHẠT: Hình phạt là một phạm trù pháp lý – xã hội rất phức tạp, mang tính chất khách quan, gắn liền với sự xuất hiện của Nhà nước và pháp luật. Đây là chế định đã được ghi nhận từ rất sớm trong pháp luật hình sự của các quốc gia trên thế giới. Theo tiếng Latin, hình phạt có tên gọi là “poena”, tiếng Pháp là “peine”, tiếng Anh là “punishment”, tiếng Đức là “strafe”. Trong pháp luật hình sự thực định của Việt Nam thời kì từ sau Cách mạng tháng tám đến trước khi pháp điển hóa lần thứ hai (1945 – 1999), định nghĩa pháp lí của khái niệm hình phạt chưa bao giờ được ghi nhận về mặt lập pháp. Chỉ đến khi pháp điển hóa lần thứ hai với việc thông qua Bộ luật Hình sự năm 1999 thì định nghĩa pháp lí về hình phạt lần đầu tiên được nhà làm luật chính thức ghi nhận trong PLHS Việt Nam hiện hành với nội dung: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong Bộ luật Hình sự và do Tòa án quyết định” (điều 26 BLHS). Trong khoa học luật hình sự của Việt Nam, cũng đã có nhiều tác giả nghiên cứu và đề cập tới khái niệm hình phạt với nhiều quan điểm như: - Hình phạt là biện pháp cưỡng chế do Tòa án quyết định trong bản án đối với người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm và được thể hiện ở việc tước đoạt hoặc hạn chế các quyền và lợi ích do pháp luật quy định đối với người bị kết án (PGS. TS Võ Khánh Vinh) [1]. - Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nhà nước được luật hình sự quy định và do tòa án áp dụng có nội dung tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội nhằm trừng trị, giáo dục họ, cũng như nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm” (PGS.TS Nguyễn Ngọc Hòa) [2]. - Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà Nước được quyết định trong các bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tòa án để tước bỏ hay hạn chế quyền, tự do của người bị kết án theo các quy định của  PLHS (PGS. TSKH. Lê Cảm) [3]. Các ý kiến đều đã tập trung khẳng định bản chất của hình phạt: đó là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước, được Tòa án áp dụng đối với người bị kết án nhằm tước bỏ hoặc hạn chế một số quyền lợi nhất định của họ theo quy định của pháp luật hình sự. Lịch sử của quá trình thi hành pháp luật đã khẳng định vai trò đặc biệt cần thiết và không thể thay thế của hình phạt trong công cuộc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm. Bởi hình phạt là biện pháp cưỡng chế mang tính đặc thù của Luật hình sự, mang những đặc trưng hoàn toàn khác biệt với các biện pháp cưỡng chế khác của Nhà nước, đã thể hiện khả năng cưỡng chế cao độ nhất của Nhà nước với hành vi mang tính nguy hiểm nhất cho xã hội. 2. ĐẶC ĐIỂM CỦA HÌNH PHẠT: Cũng là một biện pháp cưỡng chế của Nhà nước đối với các hành vi có tính nguy hiểm cho xã hội nhưng hình phạt mang những đặc trưng cơ bản nhằm phân biệt hình phạt với các biện pháp cưỡng chế khác của Nhà nước, cụ thể: 2.1.   Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước: Đây được xem như là đặc trưng cơ bản nhất của hình phạt so với bất cứ biện pháp cưỡng chế nào khác. Bởi, mặc dù trong công cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, Nhà nước sử dụng phối hợp nhiều biện pháp kinh tế, chính trị, xã hội… nhưng hình phạt vẫn được xem là công cụ hữu hiệu nhất bởi tính cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nó. Tính cưỡng chế nghiêm khắc này được thể hiện ở: - Người bị áp dụng hình phạt sẽ bị tước bỏ hoặc hạn chế quyền tự do (hình phạt tù, cấm cư trú, quản chế, trục xuất), quyền về tài sản (tịch thu tài sản, phạt tiền), quyền chính trị (cấm đảm nhiệm chức vụ, hành nghề hoặc làm công việc nhất định) nhất định trong thời gian theo luật định. Hình phạt tù là hình phạt đặc thù hạn chế quyền tự do nhiều nhất của công dân mà biện pháp cưỡng chế khác không thể đạt được. Và đặc biệt, người bị áp dụng có thể bị tước đi quyền sống – một quyền cơ bản của con người mà bất cứ một biện pháp cưỡng chế nào khác ngoài hình phạt (tử hình) đều không thể tước bỏ. - Mặc dù người bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế khác như biện pháp xử lý hành chính, biện pháp bồi thường dân sự… cũng có thể bị tước bỏ một số quyền về tài sản, quyền chính trị hay bị quản chế về tự do nhưng có thể thấy, mức độ nghiêm khắc vẫn thấp hơn hình phạt bởi người chịu hình phạt còn có thể phải chịu án tích trong một thời gian nhất định theo luật định. Án tích là hậu quả pháp lý của việc phạm tội bất lợi hơn nhiều lần so với hậu quả của các hành vi vi phạm pháp luật khác như vi phạm hành chính. Bởi vì, nếu như chỉ sau thời hạn 1 năm người có hành vi vi phạm hành chính và bị xử phạt sẽ được xóa án và coi như chưa bị xử phạt vi phạm hành chính thì thời hạn để xóa án tích tối thiểu là 1 năm (áp dụng với hình phạt tiền, cảnh cáo, hoặc cải tạo không giam giữ hoặc được hưởng án treo) và có thể tối đa là 7 năm (điều 64 BLHS). Án tích cũng được coi là căn cứ để xác định xem hành vi phạm tội có tính chất tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm hay không nhằm xác định căn cứ để định tội và quyết định hình phạt[1]. - Điều 28 BLHS quy định hệ thống hình phạt bao gồm cả hình phạt chính và hình phạt bổ sung với mức độ, nội dung cưỡng chế nặng nhẹ khác nhau. Khi áp dụng hình phạt, Tòa án được quyền áp dụng cả hình phạt chính và hình phạt bổ sung để hỗ trợ. Đồng thời, còn có thể áp dụng kèm theo hình phạt là các biện pháp tư pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả của hình phạt như tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan tới tội phạm, bắt buộc chữa bệnh, bồi thường thiệt hại… Trong khi đó, không thể áp dụng hình phạt với tính chất hỗ trợ hiệu quả cho các hình thức cưỡng chế khác như xử phạt hành chính… Như vậy, với việc có thể áp dụng một hệ thống bao gồm cả hình phạt chính, hình phạt bổ sung và biện pháp tư pháp cho cùng một hành vi phạm tội cũng cho thấy mức độ cưỡng chế tối đa nghiêm khắc của hình phạt so với các biện pháp cưỡng chế khác. - Tính cưỡng chế nghiêm khắc nhất của hình phạt còn thể hiện ở cơ chế đảm bảo thi hành hình phạt với những thủ tục phức tạp hơn so với cơ chế đảm bảo biện pháp cưỡng chế khác. Thủ tục này đã được ghi nhận trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau như Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Pháp lệnh Thi hành án phạt tù năm 1993 (sửa đổi, bổ sung năm 2007)…. Điển hình là cơ chế đảm bảo thi hành hình phạt tù có thời hạn hoặc hình phạt tử hình (Chương XXVI – Thi hành hình phạt tử hình, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003) đặc biệt phức tạp nhằm đảm bảo tối đa quyền con người của người phạm tội. Như vậy, nói đến hình phạt là nói đến sự cưỡng chế cao độ nhất của Nhà nước đối với hành vi nguy hiểm nhất cho xã hội – là tội phạm. Có sự cưỡng chế tối đa như vậy mới đảm bảo sự trừng phạt cần thiết của Nhà nước với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Tuy vậy, tính cưỡng chế nghiêm khắc nhất của hình phạt không có nghĩa là loại bỏ hoàn toàn khả năng giáo dục, cải tạo của hình phạt, bởi Tòa án phải căn cứ, xem xét trên toàn diện hành vi phạm tội để đưa ra hình phạt thích hợp nhất với mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cũng như yếu tố nhân thân, hoàn cảnh… của người phạm tội nhằm đảm bảo khả năng không chỉ trừng trị mà còn giáo dục và cải tạo người phạm tội. 2.2.   Hình phạt chỉ có thể áp dụng với người có hành vi phạm tội: Hình phạt với ý nghĩa là biện pháp cưỡng chế Nhà nước nhằm thực hiện quan hệ pháp luật hình sự nảy sinh giữa người có hành vi phạm tội và Nhà nước. Do đó, hình phạt chỉ có thể được áp dụng đối với chính người có hành vi phạm tội và bị kết án. Hơn nữa, dựa trên nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự được ghi nhận trong pháp luật hình sự nói chung, luật hình sự Việt Nam nói riêng (trách nhiệm hình sự chỉ bị truy cứu đối với chính cá nhân người phạm tội) thì hình phạt – với tư cách là công cụ để thực hiện TNHS – chỉ được áp dụng với chính người phạm tội đó. Điều này có nghĩa là hình phạt không thể bị áp dụng đối với tập thể hoặc những người thân thích hoặc có liên quan tới người phạm tội, kể cả trong trường hợp người phạm tội trốn tránh sự trừng phạt của pháp luật. Hơn nữa, nếu như trong các biện pháp cưỡng chế khác cho phép sự chấp hành biện pháp cưỡng chế thay (như biện pháp phạt tiền trong xử phạt vi phạm hành chính, bồi thường thiệt hại…) thì pháp luật hình sự Việt Nam không cho phép bất kì sự chấp hành hình phạt nào thay cho người phạm tội dù trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện. Đặc điểm này nói lên tính chất cá nhân của hình phạt nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người phạm tội cũng như cá nhân khác. Đây là đặc điểm hoàn toàn khác biệt đối với hệ thống hình phạt trong thời kì phong kiến trước kia, khi mà pháp luật cho phép áp dụng một số hình phạt đối với người phạm tội và người thân thích của người phạm tội (ví dụ: chu di tam tộc, chu di cửu tộc…). 2.3.   Hình phạt được quy định trong Bộ Luật Hình sự và do Tòa án quyết định: Hình phạt chỉ được quy định duy nhất trong Bộ luật hình sự – văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất sau Hiến pháp. Bởi khác một số quốc gia trên thế giới [5], các quy định về tội phạm của Việt Nam hiện nay chỉ được ghi nhận duy nhất trong Bộ luật hình sự (“chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật Hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự” – điều 2 BLHS). Như vậy, hình phạt cũng chỉ được quy định trong Bộ luật hình sự và chỉ có hình phạt được quy định trong Bộ luật hình sự mới được áp dụng đối với người bị kết án. Điều này thể hiện rõ nét nguyên tắc pháp chế về hình phạt trong Luật hình sự của Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Hình phạt được quy định trong phần chung của BLHS, tại Chương V, về khái niệm hình phạt, hệ thống hình phạt, đặc điểm từng loại hình phạt cụ thể cũng như việc quyết định hình phạt, miễn hình phạt… Đồng thời hình phạt cũng được quy định cụ thể kèm với từng tội phạm với tính chất, mức độ khác nhau, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm cũng như yếu tố nhân thân, hoàn cảnh… người phạm tội. Nếu như cơ quan có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế khác ngoài Tòa án có thể có các cơ quan hành pháp như Ủy ban nhân dân, Công an… thì Tòa án là cơ quan duy nhất được Nhà nước trao thẩm quyền được phép áp dụng hình phạt với người phạm tội. Điều này xuất phát từ chức năng của Tòa án – là “cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (điều 127 Hiến pháp năm 1992) – là cơ quan duy nhất có thẩm quyền phán xét một hành vi có phải là tội phạm hay không và áp dụng chế tài đối với hành vi phạm tội đó. Tòa án căn cứ một cách toàn diện tình tiết thể hiện tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân, hoàn cảnh người phạm tội… để quyết định áp dụng hình phạt hay không, áp dụng hình phạt nào và thể hiện quyết định đó dưới hình thức một bản án có hiệu lực pháp luật. Tuy vậy, Tòa án chỉ có thể quyết định những hình phạt được quy định trong BLHS mà không có quyền được thiết lập bất cứ hình phạt nào khác. Đồng thời, mức độ hình phạt được Tòa án áp dụng phải trong khuôn khổ khung hình phạt nhất định do pháp luật quy định. Việc áp dụng dưới mức khung hình phạt luật định chỉ được thực hiện khi có đủ căn cứ luật định (điều 47, điều 58 BLHS). Như vậy, hình phạt có những đặc trưng nhất định về tính chất cưỡng chế, về chủ thể áp dụng cũng như đối tượng áp dụng, nhằm phân biệt hình phạt với các biện pháp cưỡng chế khác của pháp luật. MỤC ĐÍCH CỦA HÌNH PHẠT: Mục đích của hình phạt được ghi nhận trong điều 27 BLHS: “Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm”. 1. Mục đích phòng ngừa riêng: Đây là mục đích quan trọng trước nhất của hình phạt: đó là mục đích trừng trị người phạm tội cũng như giáo dục, cải tạo họ, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt trước hết là sự trừng phạt, sự lên án của Nhà nước, xã hội đối với người phạm tội bởi hành vi nguy hiểm của họ đã xâm phạm tới lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Hình phạt với tính chất là biện pháp trừng trị người phạm tội là công cụ để Nhà nước có thể “tự bảo vệ mình, chống lại sự vi phạm các điều kiện tồn tại của nó”. Nội dung cơ bản của mục đích trừng trị này thể hiện ở việc tước bỏ hoặc hạn chế quyền lợi nhất định đối với người phạm tội. Trên thế giới có không ít quan điểm cho rằng trừng trị là mục đích duy nhất của hình phạt. Quan điểm này xuất phát từ nguyên tắc trừng trị, coi hình phạt là “sự trả thù của Nhà nước” đối với người phạm tội, gây ra sự đau đớn về tinh thần và thể xác cho người phạm tội, nhằm khôi phục lại các quyền đã bị xâm phạm. Đề xướng quan điểm “hình phạt tuyệt đối” này chính là Immanuel Kant (1724 – 1804), sau đó là Georg Wilhelm Friedrich Hegel (1770- 1831)…) [6]. Tuy nhiên, có thể thấy, nếu như hình phạt chỉ có mục đích là trừng phạt người phạm tội thì hình phạt đó chỉ đáp ứng được nhu cầu trước mắt là xác lập lại trật tự xã hội ngay tại thời điểm đó mà không có ý nghĩa cho việc duy trì và củng cố trật tự xã hội. Bởi không có cơ sở nào có thể đảm bảo rằng không có sự tái phạm của người phạm tội sau khi chấp hành xong hình phạt. Trong khi đó, một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn tới tội phạm là sự lệch lạc trong nhân cách và nhận thức của người phạm tội. Vì vậy, chỉ khi hình phạt đưa ra đảm bảo mục đích “giáo dục, cải tạo người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa”, từ đó, ngăn ngừa người phạm tội phạm tội mới thì hình phạt mới thực sự hiệu quả và có ý nghĩa. Chính vì thế, mục đích giáo dục cải tạo và ngăn ngừa phạm tội mới được xem là mục đích “cuối cùng và chủ yếu” của hình phạt trong pháp luật hình sự của Việt Nam. Pháp luật hình sự Liên bang Nga cũng khẳng định: “Hình phạt có mục đích lập lại sự công bằng xã hội cũng như cải tạo người bị kết án và phòng ngừa phạm tội mới” (khoản 2 điều 44 BLHS Nga). Nội dung của sự giáo dục và cải tạo được thể hiện ở việc tạo điều kiện cơ hội và thời gian cho người phạm tội thay đổi nhận thức cũng như hành vi, có hoạt động đào tạo, giáo dục và rèn luyện tinh thần thể chất cho người phạm tội. Có thể thấy, hình phạt “không phải là sự lên án, sự phạt đơn thuần mà là biện pháp đặc biệt để răn đe (răn đe bằng biện pháp cưỡng chế nhà nước) để giáo dục, cải tạo (giáo dục cải tạo bằng biện pháp cưỡng chế nhà nước) và hạn chế (có thể đến loại trừ) điều kiện phạm tội lại của người bị kết án”. Như vậy, trong mục đích phòng ngừa riêng, trừng trị và giáo dục, cải tạo, phòng ngừa tội phạm là hai mục đích song song tồn tại và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. “Trừng trị là mục đích nhưng đồng thời cũng là phương tiện để đạt mục đích cuối cùng và chủ yếu của hình phạt đối với người phạm tội là giáo dục và cải tạo họ” [7]. Việc trừng trị một cách đúng đắn, công minh là cơ sở quan trọng cho việc giáo dục và cải tạo ý thức pháp luật của người phạm tội, ngược lại, việc giáo dục và cải tạo người bị kết án có ý nghĩa phát huy tính tích cực của nội dung trừng trị. Muốn đảm bảo mục đích phòng ngừa riêng này của hình phạt phải đảm bảo việc quyết định hình phạt được xem xét đúng đắn toàn diện trên cơ sở mức độ, tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS cũng như yếu tố nhân thân, hoàn cảnh người phạm tội để đưa ra hình phạt “tương xứng” với tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm. 2. Mục đích phòng ngừa chung: Hình phạt không chỉ có tác dụng trực tiếp với bản thân người phạm tội bị áp dụng hình phạt đó mà còn có ảnh hưởng lớn tới những thành viên khác trong xã hội. Việc tuyên hình phạt đúng đắn sẽ có tác dụng giúp những thành viên khác trong xã hội nhận thấy trước hậu quả pháp lý mà họ tất yếu phải gánh chịu nếu họ thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được coi là tội phạm. Từ đó, tác động tới tâm lý của những thành viên “không vững vàng” làm họ từ bỏ ý định phạm tội, lựa chọn hành vi xử sự phù hợp để tránh hành vi xử sự của họ trở thành hành vi phạm tội. Đồng thời, việc đưa ra bản án với quyết định về hình phạt hợp lý, hợp tình, thể hiện nguyên tắc pháp chế sẽ giúp nâng cao tinh thần tôn trọng và tuân thủ pháp luật cho người dân cũng như đẩy mạnh tinh thần, khuyến khích người dân tham gia vào công cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm. Để đạt được mục đích này, Nhà nước cần phối hợp thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp kinh tế, xã hội, chính trị… đặc biệt, cần đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên truyền pháp luật nhằm nâng cao hiểu biết pháp luật cũng như ý thức tuân thủ pháp luật của người dân. Như vậy, có thể thấy, mục đích phòng ngừa chung cũng như mục đích phòng ngừa riêng có mối quan hệ chặt chẽ, luôn song song tồn tại, là cơ sở quan trọng để đánh giá sự đúng đắn của hình phạt được áp dụng. CHƯƠNG II CHẾ ĐỊNH MIỄN HÌNH PHẠT TRONG LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM I – SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA QUY ĐỊNH VỀ MIỄN HÌNH PHẠT TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM: Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám tới trước Bộ luật hình sự năm 1985: Trong pháp luật hình sự giai đoạn này, miễn hình phạt chưa được ghi nhận như một chế định độc lập. Tuy nhiên, trên thực tiễn xét xử cũng như trong một số văn bản pháp lý đã thừa nhận và áp dụng nó với ý nghĩa là một trong những biện pháp khoan hồng đặc biệt (như xử nhẹ, miễn trách nhiệm hình sự, giảm nhẹ hình phạt…). Tên gọi “miễn hình phạt” lần đầu tiên được đề cập tới trong “Bản tổng kết và hướng dẫn số 329 – HS2” (ngày 11/5/1967) của Tòa án nhân dân tối cao về đường lối xử lý tội hiếp dâm và các tội phạm khác về mặt tình dục với nội dung: “Khi tập trung nhiều tình tiết giảm nhẹ hoặc có những tình tiết giảm nhẹ đặc biệt có thể xử dưới các mức tối thiểu trên đây, có thể cho hưởng án treo hoặc đặc biệt có thể tha miễn hình phạt”. Sau đó, “miễn hình phạt” được quy định rời lẻ trong một số văn bản pháp lý chuyên ngành về một loại tội phạm như Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng ngày 30/10/1967 (điều 20), Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa ngày 21/10/1970 (điều 23), Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân ngày 21/10/1970 (điều 19), Thông tư số 03- BTP/TT tháng 4/1976 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành Sắc luật quy định về các tội phạm và hình phạt… Có thể thấy, biện pháp MHP chỉ được áp dụng đối với một số tội phạm nhất định với những trường hợp cụ thể như: - “Người phạm tội lần đầu và không ng