Công ty tài chính và công ty bảo hiểm

Tuy các ngân hàng là tổ chức tài chính mà chúng ta thường giao dịch nhất, nhưng không phải tất cả các tổ chức tài chính đều chỉ là các ngân hàng. Giả sử bạn mua bảo hiểm của một công ty bảo hiểm, vay một món nợ trả dần của một công ty tài chính để mua một xe hơi mới, hoặc mua một số cổ phiếu qua sự giúp đỡ của một người môi giới. Trong mỗi vụ giao dịch này bạn đang giao tiếp với một tổ chức tài chính phi ngân hàng. Trong nền kinh tế của chúng ta, các tổ chức tài chính phi ngân hàng đóng một vai trò quan trọng trong việc khơi các nguồn vốn từ những người cho vay - từ người tiết kiệm tới người vay - những người chi tiêu y như một ngân hàng. Hơn thế, quá trình đổi mới tài chính đã tăng tính quan trọng của các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Qua đổi mới, các tổ chức tài chính phi ngân hàng cạnh tranh trực tiếp hơn với các ngân hàng qua các dịch vụ tương tự như hoạt động ngân hàng.

docx31 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 1575 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Công ty tài chính và công ty bảo hiểm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CÔNG TY TÀI CHÍNH VÀ CÔNG TY BẢO HIỂM Nhóm Wall Street Lớp K09402B Giáo viên hướng dẫn: Hoàng Thọ Phú MỤC LỤC Mục lục 02 Phần mở đầu 03 Phần nội dung 04 Chương I: Trung gian tài chính 04 I.Khái niệm 04 II. Chức năng, vai trò 04 III. Vai trò 04 Chương II: Công ty tài chính 06 I.Khái niệm 06 II. Đặc điểm, tính chất 06 III.Phân loại 07 IV. Hoạt động của công ty tài chính 10 Chương III: Công ty bảo hiểm 15 I. Khái niệm 15 II. Vai trò 15 III. Phân loại 16 Chương IV: Phân biệt ngân hàng thương mại với các tổ chức phi ngân hàng (Công ty tài chính và công ty bảo hiểm) 19 I. So sánh giữa tổ chức ngân hàng và phi ngân hàng 19 II. So sánh giữa công ty tài chính và ngân hàng thương mại 22 Chương V: Vai trò của công ty tài chính và công ty bảo hiểm trong việc giải quyết các rào cản trong kênh tài chính trực tiếp 24 KẾT LUẬN 28 PHẦN MỞ ĐẦU Tuy các ngân hàng là tổ chức tài chính mà chúng ta thường giao dịch nhất, nhưng không phải tất cả các tổ chức tài chính đều chỉ là các ngân hàng. Giả sử bạn mua bảo hiểm của một công ty bảo hiểm, vay một món nợ trả dần của một công ty tài chính để mua một xe hơi mới, hoặc mua một số cổ phiếu qua sự giúp đỡ của một người môi giới. Trong mỗi vụ giao dịch này bạn đang giao tiếp với một tổ chức tài chính phi ngân hàng. Trong nền kinh tế của chúng ta, các tổ chức tài chính phi ngân hàng đóng một vai trò quan trọng trong việc khơi các nguồn vốn từ những người cho vay - từ người tiết kiệm tới người vay - những người chi tiêu y như một ngân hàng. Hơn thế, quá trình đổi mới tài chính đã tăng tính quan trọng của các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Qua đổi mới, các tổ chức tài chính phi ngân hàng cạnh tranh trực tiếp hơn với các ngân hàng qua các dịch vụ tương tự như hoạt động ngân hàng. Trong số đó không thể không kể đến hoạt động của các công ty tài chính và công ty bảo hiểm. Các tổ chức tài chính phi ngân hàng nói chung và hai loại hình công ty bảo hiểm, công ty tài chính nói riêng chủ yếu hoạt động như thế nào và thể hiện vai trò là trung gian tài chính ra sao sẽ được phân tích cụ thể trong đề tài thuyết trình của nhóm chúng tôi. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I: TRUNG GIAN TÀI CHÍNH Khái niệm: Các tổ chức tài chính trung gian là các tổ chức tài chính thực hiện chức năng dẫn vốn từ người có vốn tới người cần vốn. Tuy nhiên không như dạng tài chính trực tiếp, người cần vốn và người có vốn trao đổi trực tiếp với nhau ở thị trường tài chính, các trung gian tài chính thực hiện sự dẫn vốn thông qua một cầu nối, nghĩa là người cần vốn muốn có được vốn phải thông qua người thứ ba, đó chính là các tổ chức tài chính gián tiếp hay các tổ chức tài chính trung gian. Các tổ chức tài chính trung gian có thể là các ngân hàng, các hiệp hội cho vay, các liên hiệp tín dụng, các công ty bảo hiểm, công ty tài chính. Chức năng, vai trò: Chuyển đổi thời gian đáo hạn giữa các công cụ tài chính. Giảm thiểu rủi ro bằng cách đa dạng hóa đầu tư. Giảm thiểu chi phí hợp đồng và chi phí xử lý thông tin. Cung cấp một cơ chế thanh toán. Phân loại: Các tổ chức trung gian tài chính có thể phân loại thành các nhóm sau: Các tổ chức tín dụng ngân hàng: Ngân hàng thương mại Các liên hiệp, hiệp hội tiết kiệm và cho vay Các quỹ tín dụng Các tổ chức tiết kiệm theo hợp đồng Công ty bảo hiểm Các quỹ hưu trí Các tổ chức trung gian đầu tư Công ty tài chính Các quỹ hỗ tương Các quỹ tài chính của thị trường tiền tệ. CHƯƠNG II: CÔNG TY TÀI CHÍNH Khái niệm: Công ty tài chính là loại hình tổ chức tín dụng phi ngân hàng với chức năng sử dụng vốn tự có, vốn huy động và các nguồn vốn khác để cho vay, đầu tư, cung ứng các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật, nhưng không được làm dịch vụ thanh toán, không được nhận tiền gửi dưới 1 năm. Đặc điểm, tính chất: 1. Phạm vi hoạt động: Công ty Tài chính được mở chi nhánh, văn phòng đại diện trong nước, ngoài nước sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản. Công ty Tài chính được thành lập công ty trực thuộc, có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập để hoạt động dịch vụ tài chính, tiền tệ, môi giới, bảo hiểm, chứng khoán và tư vấn theo quy định của pháp luật. 2. Mức vốn pháp định: Công ty tài chính có vốn pháp định, song vốn pháp định của công ty tài chính thấp hơn ngân hàng. Theo Nghị định 141/2006/NĐ-CP, ngày 22/11/2006 của Chính phủ, công ty tài chính được cấp giấy phép thành lập và hoạt động sau ngày Nghị định 141/2006/NĐ- CP của Chính phủ có hiệu lực và trước ngày 31/12/2008 thì phải có mức vốn pháp định là 300 tỷ đồng; công ty tài chính được cấp giấy phép thành lập và hoạt động sau ngày 31/12/2008 thì phải có mức vốn pháp định là 500 tỷ đồng. Phần vốn pháp định góp bằng tiền phải được gửi vào tài khoản phong toả không được hưởng lãi mở tại Ngân hàng Nhà nước trước khi hoạt động tối thiểu 30 ngày. Số vốn này chỉ được giải tỏa sau khi Công ty Tài chính khai trương hoạt động. 3. Thời hạn hoạt động: Thời hạn hoạt động của công ty tài chính tối đa là 50 năm. Trường hợp cần gia hạn thời hạn hoạt động, phải được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chấp thuận, nhưng mỗi lần gia hạn không quá 50. 4. Cơ hội cạnh tranh và lợi ích mang lại: Xét ở khía cạnh nào đó, các công ty tài chính sẽ chịu áp lực cạnh tranh ở mức độ thấp. Theo cam kết WTO, chỉ có ngân hàng thương mại nước ngoài và công ty tài chính nước ngoài mới được thành lập công ty tài chính liên doanh và công ty tài chính 100% vốn đầu tư nước ngoài. Tổ chức tín dụng nước ngoài chỉ được thành lập công ty tài chính liên doanh hoặc 100% vốn đầu tư nước ngoài nhưng phải có tổng tài sản trên 10 tỷ USD vào cuối năm trước thời điểm nộp đơn. Công ty tài chính huy động vốn chủ yếu từ nội bộ tập đoàn và nhóm công ty. Vì thế, rủi ro xảy ra đối với các công ty tài chính chủ yếu là do nội bộ tập đoàn hay nhóm công ty gánh chịu, rất ít ảnh hưởng tới cộng đồng. Khi các quan hệ kinh tế trong tập đoàn là minh bạch và tuân thủ đúng pháp luật thì khả năng xảy ra rủi ro là không lớn. III. Phân loại: có 3 dạng công ty tài chính Công ty tài chính bán hàng Công ty tài chính tiêu dùng Công ty tài chính doanh nghiệp Công ty tài chính bán hàng (Sale finance company) Do các công ty sản xuất và bán hàng làm chủ sở hữu và thực hiện các khoản cho vay tài trợ cho khách hàng mua các sản phẩm, hàng hóa dịch vụ của chính công ty. Công ty tài chính bán hàng cạnh tranh trực tiếp với ngân hàng về các khoản cho vay tiêu dùng và có được khá nhiều khách hàng vì các khoản cho vay này thường đựoc thực hiện nhanh hơn và tiện lợi hơn tại các địa điểm mua hàng. Các công ty tài chính này gián tiếp cấp tín dụng cho người tiêu dùng để mua các món hàng từ một nhà bán lẻ hoặc từ một nhà sản xuất nào đó. Tín dụng được cấp dưới hình thức: các doanh nghiệp bán hàng trả góp cho khách hàng theo hợp đồng mẫu do công ty tài chính loại này cung cấp, sau đó hợp đồng được bán lại cho công ty tài chính. Như vậy khoản nợ của khách hàng với nhà sản xuất hoặc nhà bán lẻ đã chuyển thành khoản nợ của khách hàng đối với công ty tài chính. Các công ty tài chính loại này thường do các công ty sản xuất hay các nhà phân phối bán lẻ (retailling or manufacturing company) thành lập nên nhằm hỗ trợ cho hoạt động tiêu thụ hàng hoá của mình. Ví dụ tại Mỹ, General Motors Acceptance Corporation chuyên tài trợ cho khách hàng mua ô tô của hãng GM. Công ty tài chính tiêu dùng (Consumer finance company) Thực hiện các khoản cho vay cho khách hàng mua các loại hàng hóa cụ thể hay giúp đỡ chi trả các khoản nợ nhỏ. Các công ty tài chính tiêu dùng này là các doanh nghiệp riêng biệt hay do các ngân hàng là chủ sở hữu. các công ty này thường cho khách hàng không có khả năng vay từ các nguồn khác và định lãi suất cao hơn . Công ty tài chính loại này cung ứng phần lớn nguồn vốn của mình cho các gia đình và cá nhân vay vào mục đích mua sắm hàng hoá tiêu dùng như các đồ đạc nội thất (giường, tủ…) và các đồ gia dụng (tủ lạnh, máy giặt…) hoặc sửa chữa nhà cửa. Hầu hết các khoản cho vay đều được trả góp định kỳ. Một cách cho vay khác là cấp thẻ tín dụng cho khách hàng để họ mua sắm ở hệ thống cửa hàng bán lẻ. Do các khoản vay của loại công ty tài chính này khá rủi ro nên công ty thường chỉ cho vay những khoản tiền nhỏ và với lãi suất cao hơn lãi suất thị trường. Khách hàng của các công ty tài chính tiêu dùng vì vậy cũng thường là những người không thể tìm được khoản tín dụng từ những nguồn khác và do vậy họ thường phải chịu lãi suất cao hơn thông thường. Các công ty tài chính loại này có thể do các ngân hàng thành lập nên hoạt động độc lập dưới hình thức các công ty cổ phần. Công ty tài chính doanh nghiệp (Business finance company) Cung cấp các hình thức ứng dụng chuyên biệt cho các doanh nghiệp bằng cách thực hiện các khoản cho vay và tài khoản mua bán với chiết khấu: dạng tín dụng này được gọi là factoring. Ngoài ra công ty tài chính doanh nghiệp chuyên môn hóa vào cho thuê trang thiết bị máy móc mà họ mua về và cho các doanh nghiệp vay trong một khoản thời gian nào đó. Công ty tài chính loại này cấp tín dụng cho các doanh nghiệp dưới các hình thức như: Bao thanh toán (Nghiệp vụ Factoring và Forfating) - Công ty cấp tín dụng dưới hình thức mua lại (chiết khấu) các khoản phải thu của doanh nghiệp; Cho thuê tài chính (Nghiệp vụ Leasing) - Công ty cấp tín dụng dưới hình thức mua các máy móc thiết bị mà khách hàng yêu cầu rồi cho khách hàng thuê, … IV. Hoạt động của công ty tài chính: Huy động vốn Nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của tổ chức, cá nhân theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có giá khác để huy động vốn của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật hiện hành. Vay các tổ chức tài chính, tín dụng trong nước, ngoài nước và các tổ chức tài chính quốc tế. Tiếp nhận vốn uỷ thác của Chính phủ, các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước. Huy động tín dụng Công ty Tài chính được cho vay dưới các hình thức: Cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Cho vay theo uỷ thác của Chính phủ, của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định hiện hành của Luật Các tổ chức tín dụng và hợp đồng uỷ thác. Cho vay tiêu dùng bằng hình thức cho vay mua trả góp. Chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá khác Công ty Tài chính được cấp tín dụng dưới hình thức chiết khấu, cầm cố thương phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác đối với các tổ chức và cá nhân. Công ty Tài chính và các tổ chức tín dụng khác được tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác cho nhau. Bảo lãnh Công ty Tài chính được bảo lãnh bằng uy tín và khả năng tài chính của mình đối với người nhận bảo lãnh. Việc bảo lãnh của Công ty Tài chính phải được thực hiện theo quy định tại Điều 58, Điều 59, Điều 60 Luật Các tổ chức tín dụng và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước. Mở tài khoản và ngân quỹ Mở tài khoản. Công ty Tài chính được mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước nơi Công ty Tài chính đặt trụ sở chính và các ngân hàng hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Việc mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng ngoài lãnh thổ Việt Nam phải được Ngân hàng Nhà nước cho phép. Công ty Tài chính có nhận tiền gửi phải mở tài khoản tại Ngân hàng Nhà nước và duy trì tại đó số dư bình quân không thấp hơn mức quy định của Ngân hàng Nhà nước Dịch vụ ngân quỹ. Công ty Tài chính được thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng. Các hoạt động khác Các nghiệp vụ khác được phép thực hiện theo đúng quy định của pháp luật hiện hành, gồm: Góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khác. Đầu tư cho các dự án theo hợp đồng. Tham gia thị trường tiền tệ. Thực hiện các dịch vụ kiều hối, kinh doanh vàng. Làm đại lý phát hành trái phiếu, cổ phiếu và các loại giấy tờ có giá cho các doanh nghiệp. Được quyền nhận uỷ thác, làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến tài chính, ngân hàng, bảo hiểm và đầu tư, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của các tổ chức, cá nhân theo hợp đồng. Cung ứng các dịch vụ tư vấn về ngân hàng, tài chính, tiền tệ, đầu tư cho khách hàng. Cung ứng dịch vụ bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê tủ két, cầm đồ và các dịch vụ khác. Các nghiệp vụ được các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền cho phép Hoạt động ngoại hối: Ngân hàng Nhà nước xem xét, cấp giấy phép cho Công ty Tài chính được thực hiện một số hoạt động ngoại hối theo quy định hiện hành về quản lý ngoại hối. Hoạt động bao thanh toán: Ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm ban hành quy định hướng dẫn việc thực hiện hoạt động bao thanh toán và xem xét cho phép Công ty Tài chính có đủ điều kiện thực hiện hoạt động này. Các hạn chế để đảm bảo an toàn trong hoạt động của công ty tài chính: Việc trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro Công ty Tài chính phải dự phòng rủi ro và hạch toán khoản dự phòng rủi ro này vào chi phí hoạt động. Việc trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro được thực hiện theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Trường hợp không được cấp tín dụng Công ty Tài chính không được cấp tín dụng đối với những đối tượng được quy định tại khoản 1 Điều 77 Luật Các tổ chức tín dụng, không được chấp nhận bảo lãnh của các đối tượng theo quy định trên để làm cơ sở cho việc cấp tín dụng đối với khách hàng. Trường hợp hạn chế tín dụng Công ty Tài chính không được cấp tín dụng không có bảo đảm, cấp tín dụng với những điều kiện ưu đãi cho những đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 78 Luật Các tổ chức tín dụng. Tổng dư nợ cho vay đối với các đối tượng quy định tại khoản 1 Điều này không được vượt quá 5% vốn tự có của Công ty Tài chính. Mức bảo lãnh đối với một khách hàng và tổng mức bảo lãnh của Công ty Tài chính không được vượt quá tỷ lệ so với vốn tự có của Công ty Tài chính theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Giới hạn góp vốn mua cổ phần Mức góp vốn, mua cổ phần của Công ty Tài chính trong một doanh nghiệp; tổng mức góp vốn, mua cổ phần của Công ty Tài chính trong tất cả các doanh nghiệp không được vượt quá mức tối đa do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy định. Tổng số vốn của Công ty Tài chính đầu tư vào tổ chức tín dụng khác dưới hình thức góp vốn, mua cổ phần phải trừ khỏi vốn tự có của Công ty Tài chính khi tính các tỷ lệ an toàn. Các quy định bảo đảm an toàn Công ty Tài chính phải tuân thủ các quy định bảo đảm an toàn sau: Duy trì tỷ lệ bảo đảm an toàn được quy định tại Điều 81 Luật Các tổ chức tín dụng và các văn bản hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước. Mua và đầu tư vào tài sản cố định của mình không quá 50% vốn tự có của Công ty Tài chính. Giới hạn cho vay đối với một khách hàng được quy định như sau: + Tổng dư nợ cho vay một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của Công ty Tài chính, trừ trường hợp đối với những khoản cho vay từ các nguồn vốn uỷ thác của Chính phủ, của các tổ chức, cá nhân hoặc trường hợp khách hàng vay là tổ chức tín dụng khác; + Trường hợp nhu cầu vốn của một khách hàng vượt quá 15% vốn tự có của Công ty Tài chính hoặc khách hàng có nhu cầu huy động vốn từ nhiều nguồn thì Công ty Tài chính được tiến hành cho vay hợp vốn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. CHƯƠNG III: CÔNG TY BẢO HIỂM I. Khái niệm: Công ty bảo hiểm là trung gian tài chính thực hiện nhiệm vụ chi trả cho các sự kiện không mong đợi xảy ra. Là tổ chức huy động vốn bằng cách bán chứng nhận bảo hiểm cho công chúng và sử dụng nguồn vốn huy động được để đầu tư trên thị trường chứng khoán. Vai trò: Khía cạnh kinh tế - xã hội: Quỹ dự trữ bảo hiểm được thành lập để khắc phục hậu quả rủi ro tổn thất phát sinh làm thiệt hại đến con người và xã hội, bằng cách bù đắp các tổn thất phát sinh nhằm tái lập và đảm bảo tính thường xuyên liên tục của quá trình XH. Trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế xã hội, bảo hiểm đóng vai trò như 1 công cụ an toàn và dự phòng đảm bảo khả năng hoạt động lâu dài của mọi chủ thể dân cư và kinh tế. Thúc đẩy ý thức đề phòng - hạn chế tổn thất cho mọi thành viên trong xã hội. Công ty bảo hiểm tạo ra nhiều giá trị gia tăng cho cả nền kinh tế góp phần đáng kể vào GDP của quốc gia, làm giảm thiệt hại về mặt kinh tế. Khía cạnh tài chính: Đối với người tham gia bảo hiểm: Khi tham gia bảo hiểm, sẽ giúp cho bản thân và tài sản của người tham gia được bảo đảm bằng một khoản tiền xác định nào đó. Và nếu như có điều rủi ro xảy ra đối với người tham gia bảo hiểm thì họ sẽ được các công ty bảo hiểm chia sẻ một phần nào đó khó khăn, giúp họ có khả năng tài chính để có thể vượt qua được khó khăn trước mắt. Đối với các công ty bảo hiểm: Bảo hiểm chính là một kênh tập trung vốn của các công ty bảo hiểm. Với số tiền mà khách hàng đóng vào, sẽ giúp các công ty bảo hiểm đầu tư vào các ngành kinh doanh khác, mang lại lợi nhuận nhiều hơn, qua đó, giúp gia tăng khả năng tài chính của công ty, đồng thời bảo đảm nguồn tiền mặt đối với các hoạt động thường ngày của 1 công ty. Đối với xã hội: Bảo hiểm là một kênh luân chuyển tiền tệ của nền kinh tế. Nó tạo ra sự an tâm của các nhà đầu tư cũng như của dân chúng, thúc đẩy cho các hoạt động tài chính diễn ra một cách suông sẻ hơn. Bảo hiểm có thể coi là một trong những nhân tố giúp ổn định nền tài chính tiền tệ của một quốc gia. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, nếu các hoạt động kinh doanh bảo hiểm không rõ ràng và minh bạch, có thể tạo ra những tác động xấu, ảnh hưởng không tốt đến nền kinh tế Sau ngân hàng thương mại thì các công ty bảo hiểm cũng được nhắc tới như những trung gian tài chính có khả năng huy động lượng vốn nhàn rỗi khổng lồ từ dân cư từ đó cung cấp vốn cho nền kinh tế. Các công ty bảo hiểm cũng có thể được coi như những tổ chức đầu tư chuyên nghiệp, thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn, giúp thị trường tài chính tiền tệ hoạt động ổn định và có hiệu quả. Phân loại: Có 2 dạng công ty bảo hiểm: Công ty bảo hiểm nhân thọ Công ty bảo hiểm tài sản và tai nạn Công ty bảo hiểm nhân thọ Phát hành bảo hiểm chủ yếu liên quan đến sinh mạng, cuộc sống và tuổi thọ con người. Công ty bảo hiểm tài sản và tai nạn Bảo hiểm cho một loạt các sự kiện không định trước khác nhau liên quan đến tài sản như: Mất mát, hư hỏng tài sản. Mất hay thiệt hại khả năng tạo thu nhập của tài sản. Thiệt hại hay thương tật gây ra cho chủ thể thứ ba. Thiệt hại hay thương tật do tai nạn nghề nghiệp. Trong thực tế, phần lớn các công ty bảo hiểm lớn thường bán cả 2 loại sản phẩm dịch vụ bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm tài sản. Hoạt động: Các công ty bảo hiểm thu phí bảo hiểm để thành lập nên quỹ bảo hiểm phục vụ cho mục đích bồi thường. Do hầu hết các khoản phí bảo hiểm đều được thu hết trước khi bồi thường nên công ty bảo hiểm có một khoảng thời gian từ dưới 1 năm cho tới hàng chục năm để sử dụng quỹ bảo hiểm. Tiền trong quỹ bảo hiểm khi chưa dùng để bồi thường sẽ được đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu, bất động sản hoặc thực hiện các hoạt động đầu tư tài chính khác như góp vốn liên doanh, thành lập công ty chứng khoán, cung cấp các khoản tín dụng trực tiếp... J Điểm khác biệt giữa công ty bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm tài sản - Đối với công ty bảo hiểm nhân thọ và sinh mạng, mức độ tử vong của công chúng nói chung là có thể dự báo được với độ chắc chắn cao. Do đó công ty bảo hiểm có thể dự đóan chính xác số tiền thanh tóan trong tương lai. Từ đó các công ty bảo hiểm nhân thọ thường giữ các tài sản tài chính dài hạn có tính thanh khỏan không cao lắm (trái phiếu, cổ phiếu công ty, các món cho vay thương mại có thế chấp) - Đối với công ty bảo hiểm tài sản và tai nạn thì chính sách đầu tư bị tác động bởi các yếu tố tính ngẫu nhiên thất thường của các sự kiện rủi ro, thiên tai và phụ thuộc vào tính không chắc chắn của từng trường hợp bán bảo hiểm. Do vậy các tài sản đầu tư của công ty phần lớn là các trái phiếu địa phương hay chính phủ không chịu thuế và có tính thanh khỏan cao để có khả năng đáp ưng kịp thời với các khỏn thanh toán không dự tính trước. Đôi khi với các khỏan bảo hiểm tài sản quá lớn, các công ty thường hợp tác liên kết với nhau để phân chia rủi ro. CHƯƠ
Tài liệu liên quan