Cuộc đại khủng hoảng và giải pháp của Keynes

Tình hình suy thoái nghiêm trọng vào những năm 1930 là thời kỳ có những thay đổi lớn cả về nền kinh tế lẫn lý thuyết kinh tế. Trong suốt thời gian đó, những cơ chế cũ vốn điều hoà nền kinh tế, đặc biệt là chu kỳ kinh tế, nhưng nay chúng lại phải chịu sức ép lớn từ những thuyết kinh tế mới và những phương pháp điều hành mới, và sau cùng bị thay thế bởi những thuyết và phương pháp mới này. Kinh tế học cổ điển với quan điểm để mặc tư nhân kinh doanh (theo họ thị trường sẽ tự điều tiết nếu thấy cần thiết) và kinh tế học tân cổ điển với quan điểm là một vài loại thị trường đặc biệt sẽ tự động điều tiết, cả hai đều đã không còn phù hợp với tình hình xã hội hiện tại nữa và phải nhường lại cho kinh tế học vĩ mô "Keynes" với trọng tâm chính là nêu bật vai trò tăng trưởng tiền lương (để tăng tổng cầu) và vai trò của nhà nước trong việc quản lý nền kinh tế. Chu kỳ kinh tế hay cơ chế quản lý cũ chưa hoàn toàn mất đi vào những năm 1930. Nhưng nền kinh tế suy kém do giai đoạn suy sụp tài chính lớn vào năm 1929 bắt nguồn từ cơn khủng hoảng kinh tế, chu kỳ này đã đi xuống và không phát triển lên được nữa. Và nó vẫn giữ nguyên như thế. Suy sụp tài chính này đã làm cho nền kinh tế suy thoái, và vẫn chưa có biện pháp nào phục hồi.

pdf16 trang | Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2380 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Cuộc đại khủng hoảng và giải pháp của Keynes, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Cuộc Đại Khủng Hoảng và Giải Pháp của Keynes Harry M. Cleaver, Jr. Dịch Viên: Nhân Thụy Tình hình suy thoái nghiêm trọng vào những năm 1930 là thời kỳ có những thay đổi lớn cả về nền kinh tế lẫn lý thuyết kinh tế. Trong suốt thời gian đó, những cơ chế cũ vốn điều hoà nền kinh tế, đặc biệt là chu kỳ kinh tế, nhưng nay chúng lại phải chịu sức ép lớn từ những thuyết kinh tế mới và những phương pháp điều hành mới, và sau cùng bị thay thế bởi những thuyết và phương pháp mới này. Kinh tế học cổ điển với quan điểm để mặc tư nhân kinh doanh (theo họ thị trường sẽ tự điều tiết nếu thấy cần thiết) và kinh tế học tân cổ điển với quan điểm là một vài loại thị trường đặc biệt sẽ tự động điều tiết, cả hai đều đã không còn phù hợp với tình hình xã hội hiện tại nữa và phải nhường lại cho kinh tế học vĩ mô "Keynes" với trọng tâm chính là nêu bật vai trò tăng trưởng tiền lương (để tăng tổng cầu) và vai trò của nhà nước trong việc quản lý nền kinh tế. Chu kỳ kinh tế hay cơ chế quản lý cũ chưa hoàn toàn mất đi vào những năm 1930. Nhưng nền kinh tế suy kém do giai đoạn suy sụp tài chính lớn vào năm 1929 bắt nguồn từ cơn khủng hoảng kinh tế, chu kỳ này đã đi xuống và không phát triển lên được nữa. Và nó vẫn giữ nguyên như thế. Suy sụp tài chính này đã làm cho nền kinh tế suy thoái, và vẫn chưa có biện pháp nào phục hồi. Những nhà kinh tế cổ điển thời đó chỉ có thể đưa ra những giải pháp lỗi thời không hiệu quả. Những nhà kinh tế như Lionel Robbins tiếp tục kiến nghị giải pháp giảm lương khi lao động gia tăng. Nhưng những cơ chế thị trường - bao gồm cả những cơ chế của thị trường lao động - mà những nhà kinh tế rất tin tưởng nay đã không còn hoạt động nữa. Họ thi hành biện pháp giảm lương, nhưng thay vì nền kinh tế phục hồi và phát triển thì nó càng bị khủng hoảng trầm trọng hơn. Điều này không chỉ đúng với nền kinh tế của Mỹ mà còn đối với nhiều nước khác nữa, nó cũng đúng với các mối quan hệ kinh tế giữa chúng với nhau. Sự sụp đổ của các cơ chế tăng trưởng nội tại là bắt nguồn từ sự sụp đổ của các cơ chế điều chỉnh kinh tế thế giới. Thay vì có thể giúp giải quyết được những vấn đề suy thoái thì chế độ kim bảng vị lại làm cho tình trạng suy thoái từ nước này sang nước khác diễn ra nhanh hơn. Tình trạng thâm hụt mậu dịch đã làm nổi bật lên mối quan hệ mâu thuẫn giữa một bên là việc phát hành tiền (mức cung tiền) (do phải xuất vàng trả cho phần nhập siêu) và một bên là áp lực hạ giá (bao gồm cả tiền lương), từ đó mâu thuẫn này càng làm cho nhà sản xuất cắt giảm sản lượng và công nhân. Nạn thất nghiệp gia tăng vùn vụt. Trong tình hình khủng hoảng trầm trọng này, bởi không một ai muốn chấp nhận quy tắc của chế độ kim bảng vị nên cơ chế này đã bị bãi bỏ. Kết quả là để bảo vệ nền kinh tế nước mình khỏi cuộc đại khủng hoảng, các nước nhanh chóng ban hành chính sách cấm vận mậu dịch tự do, chính sách thuế quan, hạn ngạch, nhằm bảo vệ quyền lợi sản xuất cũng như lao động trong nước. Giai cấp tư sản các nước đều muốn bảo vệ thị trường của họ khỏi sự cạnh tranh của nước ngoài và họ thiết lập nên hàng rào ngăn nhập khẩu và công nhân của họ cho đây là một giải pháp hữu hiệu có thể giúp họ bảo vệ được việc làm của mình. Kết quả là dấy lên hàng loạt biện pháp bảo hộ mang tính cạnh tranh với nhau giữa các quốc gia bằng cách thiết lập ngày càng nhiều vành đai chắn hàng nhập khẩu. Hậu quả là ngành mậu dịch quốc tế bị suy giảm nghiêm trọng, làm đóng băng thị trường hàng xuất, làm cho thị trường lao động và đầu ra sản phẩm ngày càng tệ hại hơn. Đối với nước Mỹ là một nước có thị trường nội địa rất rộng lớn thì vấn đề này cũng đủ nghiêm trọng rồi. Còn đối với các nước Đông Âu, giai cấp tư bản lại càng lệ thuộc vào thị trường ngoài nước, cho nên tình hình này thật sự tệ hại đối với họ. Sự suy sụp ngành mậu dịch quốc tế là nhân tố chính gây ra cuộc đại suy thoái -- một hiện tượng mang tính toàn cầu và cũng là nguyên nhân làm kéo dài cuộc khủng hoảng và khiến nó trở nên nghiêm trọng hơn. Nó dẫn đến việc bãi bỏ chế độ kim bảng vị. Để hiểu vì sao mà sau suy thoái, kinh tế lại không phục hồi và tăng trưởng, ta có thể bắt đầu xét đến mối quan hệ giữa tiền lương và lợi nhuận, giữa tiêu thụ và thặng dư sẵn có. Vào thời kỳ trước đó, khi chu kỳ kinh tế giảm và nhiều người bị thất nghiệp, trong tình hình như vậy thì hầu như những ai đang có việc đều chấp nhận mức lương thấp, từ mức lương thấp này, giai cấp tư sản có thể hạ chi phí, tăng cao lợi nhuận, cũng như giúp họ có nhiều kỳ vọng lạc quan hơn và mở rộng đầu tư. Thế trong cuộc đại suy thoái này tỷ lệ thất nghiệp cũng rất cao, mức lương lại giảm - nhưng điều này lại không đủ kích thích mở rộng đầu tư. Tại sao như vậy? Nếu bạn trở lại lịch sử thực tiễn một tí, thì bạn sẽ hiểu ngay. Đây chính là giai đoạn mà công nhân huởng ứng thành lập công đoàn theo mô hình của Taylor-Ford. Họ đấu tranh từ nhận thức công nhân, từ sự đồng lòng tập thể, đòi tăng lương và phúc lợi xã hội từ nhà nước - còn gọi là thù lao thất nghiệp. Frederick Taylor chịu trách nhiệm phân chia công việc của người công nhân thành những loại công việc đơn giản và không đòi hỏi kỹ năng tay nghề, còn Henry Ford thì chịu trách nhiệm tổ chức những công việc đó thành một dây chuyền sản xuất, những công này thường làm cho công nhân thấy nhàm chán, bị hạn chế, cảm thấy đây là một công việc đơn điệu và chỉ là một phần nhỏ trong tổng thể cả dây chuyền (có một bộ phim nói về loại công việc thế này ảnh hưởng đến công nhân - bộ Modern Time do Charlie Chapline thủ diễn, bạn không nên bỏ qua) Khi áp dụng loại hình công việc này đã dẫn đến cả lực lượng lao động suy giảm tay nghề và tạo lợi thế cho những công đoàn thủ công lớp già - những công đoàn chủ yếu dựa vào tay nghề là chính. Điều này có nghĩa là những công đoàn thủ công thuộc Liên Đoàn Lao Động của Mỹ này (AFL - American Federation of Labor) không còn thích hợp với thế hệ công nhân sản xuất mới nữa. "Những người công nhân sản xuất hàng loạt" - người ta vẫn thường gọi họ như thế - đã phát triển thành công đoàn công nghiệp rộng lớn, đây là những công đoàn được tổ chức theo nhóm những ai có cùng ngành sản xuất. Do đó, vào thập kỷ 30, chúng ta thấy nhiều công đoàn được hình thành như Liên Hiệp Công Nhân Ngành Ôtô (UAW - United Automobile Workers), Liên Hiệp Công Nhân Ngành Mỏ (UMW - United Mine Workers), và vân vân… -- đây là những công đoàn này liên kết lại thành Hội Công Đoàn (CIO - Congress of Industrial Unions). Những cuộc đấu tranh dẫn đến sự hình thành các tổ chức công đoàn này đã vướng phải sự đối kháng mạnh mẽ từ những nhà kinh doanh. Công nhân họ đã chống trả lại, thế là bạo động đối chọi với bạo động, và làn sóng chống đối vào thập kỷ 30 đã làm hạn chế tình trạng giảm lương trong giai đoạn thất nghiệp xảy ra. (Những bộ phim nói về sự ra đời của những kẻ đánh thuê (the Teamsters) như bộ Fist - do Sylvester Stallone thủ diễn và gần đây là bộ Hoffa của Jack Nickolson, những bộ phim này khá hay một phần do có nói về vấn đề dùng vũ lực trong kinh doanh và cách làm đó đã khiến cho công nhân phải chống trả lại, và đôi khi công nhân cũng dùng bạo lực chống lại, họ làm giống như những gì mà chủ của họ làm với họ, cũng có nghĩa là phía người chủ lợi dụng sức mạnh của Pinkertons, còn phía công nhân dựa vào lợi thế đám đông của mình. Do vậy, điều này cho ta một cái nhìn sơ lượt về lịch sử và hiểu rõ hơn về mối liên hệ đáng tiếc giữa một số công đoàn và những tổ chức tội phạm. Trong bộ phim Matewan gần đây của John Sayles cũng có đề cặp đến tình trạng bạo động mà công nhân gặp phải trong suốt thời kỳ này, đây là trường hợp của những mỏ than Appalachia.) Những xung đột này đã làm cho mức lương giảm trầm trọng. Nói cách khác, mức lương cũng có thể gia tăng nhưng thậm chí trong trường hợp tỷ lệ thất nghiệp rất cao, thì mức lương này cho dù có giảm tới đâu cũng không thể khôi phục lại lợi nhuận. Do đó ta không thể dùng những chiến lượt kinh tế lỗi thời trong tình trạng kinh tế suy sụp như thế này để giải quyết các vấn đề giữa kinh doanh và công nhân cũng như để đạt được mức tiêu thụ thặng dư. Nhắc lại một lần nữa , đây là một thời kỳ lịch sử có ý nghĩa. Đây chính là lúc viễn cảnh cả hệ thống kinh tế xã hội tương lai vẫn còn là một ẩn số. Những giải pháp cổ hủ không thể áp dụng được nữa và do đó phải tìm những giải pháp mới nếu không nền kinh tế-xã hội có thể suy sụp hoặc có thể xãy ra một cuộc cách mạng. Đây là giai đoạn khủng hoảng tại Mỹ và tình trạng này cũng diễn ra tương tự ở nhiều khu vực khác trên thế giới. Giai đoạn khủng hoảng này đã bắt đầu từ một thập kỷ trước đó. Ở Liên Xô (cũ) vào năm 1917 sau cuộc nội chiến cũng như những biến động kinh tế-xã hội trầm trọng thì đã nổ ra một cuộc cách mạng. Ở Đông Âu cũng đã có một thời kỳ khủng hoảng có lẽ là nghiêm trọng nhất, mà những biến động của cuộc khủng hoảng này có liên đới với Cách Mạng Đức năm 1918-1919. Tuỳ vào tình hình chính trị kinh tế, lịch sử của mỗi nước mà các nhà lãnh đạo của các nước đã có những giải pháp khác nhau để đối phó với thử thách này. Stalin cố gắng giải quyết vấn đề gia tăng thặng dư thông qua lực lượng lao động bị ép buộc của Gulag, dùng lực lượng quân đội đàn áp, thi hành chính sách tập thể hoá nông dân (thu gom hoa màu của họ). Vào khoảng giữa cuộc khủng hoảng nổ ra tại nước Cộng Hoà Weimar, thì Hitler đã lên nắm quyền và giải quyết các vấn đề như cuộc nổi loạn của công nhân và vấn đề tích luỹ tư bản bằng cách thành lập nên Đế Chế Phát Xít, Chủ Nghĩa Nghiệp Đoàn, và những lực lượng lao động. Ở Mỹ và những nước phương tây khác, thì giải pháp của họ xuất hiện khá chậm, đó là chính sách kinh tế-xã hội mới của Franklin Roosevelt mà ngày nay chúng ta gọi là chủ nghĩa Keynes - John Maynard Keynes (1883-1946) ông là một kinh tế gia người Anh, ông đã đưa ra những lý thuyết cũng như lập luận của mình về những vấn đề phân tích và chính sách hoàn toàn mới. Đây là một giải pháp mang lại hiệu quả cao nhất. Năm 1945, chiến tranh đã dẹp trừ Đức Quốc Xã. Năm 1953, Stalin mất, Liên Xô lại bắt đầu một quá trình kéo dài và không hiệu quả khi cải sửa lại giải pháp của họ -- một giải pháp thất bại do Gorbachev kết thúc. Joseph Schumpeter: Phát Triển Kinh Tế và Khủng Hoảng Kinh Tế Joseph Schumpeter (1883-1950) là người đưa ra giải pháp cho thời thế này. Dù được đào tạo bài bản theo Carl Menger và học trò của ông Eugen von Bohm-Bawerk, Schumpeter vẫn đi theo hướng riêng của mình, làm việc cho cả chính phủ và trong học viện. Hệ Thống Thể Chế: Kỹ Thuật và Thể Chế Thorstein Veblen (1857-1929) là một kinh tế gia gốc nông dân, là người NaUy-Mỹ, là một trong những nhà phê phán chủ nghĩa tư bản, phê bình kinh tế, bình luận thời cuộc (thời của ông) rất uyên bác và sắc sảo. Những bài viết của ông vào đầu thế kỷ này cũng như trước đó một thập kỷ và cả hai thập kỷ sau đó đều là những bài phê bình rất sắc sảo nhắm vào vấn đề tham vọng và quyền lực và làm sáng tỏ những vấn đề mà các giáo sư kinh tế lớn đã lờ đi. Hơn thế nữa, ông đặc biệt tinh thông tiếng bản xứ của mình, có thể hiểu và sử dụng ngôn từ một cách chính xác. Tài năng của ông có được không chỉ bằng trí thông minh của bản thân mà còn bắt đầu từ cả một kho kiến thức lịch sử nhân loại rộng lớn và những tri thức về nhiều nền văn hoá đa dạng của các quốc gia, chúng đã cung cấp cho ông một cái nhìn tổng thể về chủ nghĩa tư bản hiện đại. Giữa Veblen và Marx có nhiều điểm tương đồng, nhưng giữa họ cũng có một số khác biệt đáng kể; Veblen không phải là người theo chủ nghĩa Marx. Chúng ta có thể thấy cả sự giống và khác giữa họ trong chính những tác phẩm của họ. Như chúng ta đã biết, Marx phân biệt giữa đặc tính xa lánh[1] công việc của công nhân dưới chế độ tư bản và năng lực làm việc của họ khi xã hội thoát khỏi sự thống trị của tư bản - ngay cả trong quá khứ hay tương lai. Trong quyển "Tay Nghề Công Nhân Và Sự Chán Ghét Công Việc Của Họ" (1899), Veblen bắt đầu nói từ mối ác cảm đối với công việc vốn rất phổ biến trong những người công nhân mà ông cho rằng nó đã xãy ra vào đầu thế kỷ này ở Mỹ. Công nhân chán ghét công việc của họ và những giai cấp bề trên thì tự cho mình là những người thống trị và ép buộc họ phải làm việc - dù cho có sự mâu thuẫn giữa họ như thế nào đi nửa. Nhưng trong khi Marx nhận thấy rằng sự chán ghét đó bắt nguồn từ đặc tính xa lánh công việc thì Veblen cho rằng theo cảm nhận của ông, thì chính "bản năng tay nghề" của công nhân xuyên suốt trong lịch sử nhân loại đã bị thay thế bởi tính thực dụng nhằm giúp họ có thể bình ổn cuộc sống. Trong thời tư bản đầy tính cạnh tranh nhau thì bằng chứng cho tính thực dụng đó được thể hiện bằng tiền bạc thay vì như ngày xưa là những chiến lợi phẩm, xương sọ hay cờ chiếm được từ kẻ địch bại trận, nhưng những gì đáng tự hào là những gì đạt được chứ không phải là năng xuất. Trong khi chúng ta có thể thấy sự tương đồng giữa đặc tính "ham muốn lao động của công nhân" của Marx và đặc tính "bản năng tay nghề" theo như Veblen định nghĩa, thì Veblen quan tâm hơn về những tính cách không tốt khi đạt được quyền lực và làm thế nào mà những người công nhân cố tranh đua để có được quyền lực, hơn là quan tâm về những tính cách quý báu như biết nhịn nhục khi bị bốc lột. Đối Veblen, thông qua kích thích sự ganh đua với nhau, thì chìa khoá để ổn định hệ thống xã hội chính là quyền lực kinh tế đối với những công nhân làm việc với đồng lương thấp, từ đó họ có khuynh hướng chống lại bốc lột.Veblen cho rằng, qua sự tiêu thụ phô trương và đưa ra những mặt thuận lợi của việc không chịu làm việc, "giai cấp nhàn hạ" càng kích thích nhu cầu hơn là sự giận dữ. Trong chương 4 quyển Lý thuyết về Giai Cấp Nhàn Hạ, Veblen có giải thích quan điểm của mình về cái mà ông gọi là "sự tiêu thụ gây chú ý"[2]. Hãy nhìn lại thực tiễn từ lịch sử -- từ thời tiền tư sản, ông cho rằng sự khoa trương cũng như những nổ lực cạnh tranh nhau diễn ra xuyên suốt trong hệ thống giữa các giai cấp xã hội: "Trong một xã hội hiện đại thì giới tuyến giữa các giai cấp của nó phát triển khá mơ hồ và ngắn ngủi, và dù bất cứ nơi nào tồn tại điều này, định chuẩn về danh vọng do tầng lớp quý tộc đưa ra có khuynh hướng mở rộng những ảnh hưởng mang tính cưỡng ép nhưng không đáng kể lắm của nó đối với những giai cấp thấp nhất thông qua hệ thống cấu trúc xã hội. Kết quả là những thành viên của từng giai cấp đều thừa nhận tư tưởng này của họ, một tư tưởng quy định ra những nguyên tắc cho đời sống của xã hội hiện hành của giai cấp thấp đối với giai cấp cao hơn, và hướng họ sống theo cái tư tưởng đó. Nhưng trong truờng hợp họ thất bại, họ đã phải đau khổ vì mất đi cái danh vọng của họ và cả lòng tự trọng của mình, họ phải thay đổi sao cho phù hợp với những quy tắc xã hội, ít nhất cũng là về mặt hình thức. Cơ sở tạo ra danh vọng trong bất kỳ một xã hội công nghiệp có tổ chức cao nào đi chăng nữa chính là sức mạnh về tiền tài; và những phương tiện để phô bày sức mạnh ấy, và qua đó đạt được danh vọng, chính là sự nhàn rỗi và tiêu thụ hàng hoá đáng gây chú ý." Mặc dù Veblen nhạo báng kinh miệt tầng lớp tư sản (và những ai cố tranh đua với họ), nhưng sau cùng ông cũng cảm thương cho họ. Bởi do ông xem họ như những kẽ ăn bám chỉ được cái vẻ hào nhoáng bên ngoài nhưng rất vô dụng, những kẽ chỉ biết thu lợi từ những công việc của người khác và rốt cuộc gì thì vị trí ưu tiên của họ trong xã hội cũng sẽ bị người khác thay thế. Và ai sẽ thay thế họ? Câu trả lời là: không phải là giai cấp lao động theo chủ nghĩa Marx, mà chính là những người mà những giá trị và hành vi của họ được thay đổi cho phù hợp để trở thành một lực lượng cơ bản điều hành và có trách nhiệm với sự phát triển của xã hội: "quy trình máy móc". Trong chương 4 quyển "Lý Thuyết về Doanh Nghiệp" (1904), Veblen có giải thích rõ về "quy trình" này và ông cho nó là ngành cơ học rất đơn giản: "Bất cứ nơi nào mà sự khéo tay, những phương pháp dựa vào thực nghiệm, hay những tình huống ngẫu nhiên được thay thế bằng một quy trình hợp lý dựa trên hệ thống kiến thức của công nhân, thì nơi đó ta có thể tìm thấy ngành cơ khí, thậm chí nơi đó thiếu vắng cả những sáng chế máy móc phức tạp tinh vi. Nó chính là vấn đề về đặc điểm của loại quy trình này chứ không phải là vấn đề phức tạp khi cần phải sáng chế ra máy mới. Những ngành hoá học, trồng trọt, chăn nuôi đều áp dụng những phương pháp đặc trưng hiện đại và đều có mối quan hệ với thị trường, tất cả chúng đều có liên quan đến ngành cơ khí hiện đại" Do vậy, về lâu dài, những người sắp thay thế những nhà tư bản sẽ là "những công trình sư, kỹ sư cơ khí, nhà hàng hải, nhà khoáng vật học, thợ điện" và vân vân… Tuy nhiên, về ngắn hạn, những tham vọng lợi nhuận của những nhà tư bản thông qua bốc lột và cạnh tranh càng kích thích quyền lực thống trị của những lực lượng lỗi thời như chủ nghĩa đế quốc và chiến tranh. Trong chương cuối quyển Lý Thuyết về Doanh Nghiệp, ông có viết: "những chính sách hiện đại mang tính hiếu chiến là mang đến hòa bình cho con người, miễn là họ biết mưu cầu kinh doanh một cách có thứ tự." Ông nói rằng "những mưu cầu đó không chỉ mang lại lợi nhuận, mà còn giúp hiệu chỉnh lại 'tình trạng náo động trong xã hội' cũng như sự xáo trộn trong cuộc sống văn minh này". Phân tích của Veblen về động lực phục hồi chủ nghĩa ái quốc hiếu chiến và sự thay thế quyền tự do công dân sẽ mang đến những lợi ích cho những ai đã và đang theo những chính sách cải cách trong nước và nước ngoài của Mỹ trước ngày 11 tháng 9 năm 2001. Ông cho rằng vấn đề duy nhất của những nổ lực này là những mặt về văn hoá của những hình thái cổ xưa từ thời ăn lông ở lỗ không nhất quán với nhau - không chỉ với nhu cầu về "quy trình máy móc"[3] (một quy trình ngày càng tỏ ra quan trọng đối với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản) mà còn với nhu cầu kinh doanh. "Những tính cách thô lỗ man rợ của lòng trung thành và chủ nghĩa ái quốc diễn ra xuyên suốt trong những triều đại bốc lột con người và củng cố quyền lực, và những tính cách từ thời xa xưa này không mất đi. Trong những xã hội hiện đại ngày nay, những ai mà trái tim của họ vẫn đập cùng nhịp với thị trường thới giới, thì họ thể hiện lòng nhiệt thành của mình bằng cách mở rộng ngành thương mại dưới tư cách là những nhà doanh nghiệp quốc dân. Nhưng một khi chính sách kinh doanh mang tính hiếu chiến được thiết lập ra vì mục đích kinh doanh, thì lòng trung thành dần chuyển từ những ích lợi kinh tế sang ích lợi của triều đại và sự hiếu chiến đó, ví dụ từ những bằng chứng lịch sử như chủ nghĩa đế quốc Đức và Anh. Hậu quả sau cùng là làm hồi sinh lại sự oán hận của những người yêu nước xa xưa và lòng trung thành đối với triều đại mà bỏ qua những ích lợi về kinh tế. Điều này dễ dàng thực hiện khi những người kinh doanh chịu hi sinh phần lợi nhuận của mình cho nhu cầu về đời sống chính trị cao hơn này" Do vậy, Veblen nhận thấy rằng kinh doanh bị tấn công dồn dập bởi cả hai, một bên là cải cách "những quy trình máy móc" không ngừng, quy trình mà dẫn đến sự sụp đổ của những nhà tư bản và được thay thế bằng đội ngũ những cá nhân ưu tú như các nhà khoa học (điển hình như Saint-Simon), còn một bên là những hành vi suy thoái có từ thời xa xưa đuợc giữ lại từ xưa để đat được những mục tiêu riêng của nó. Trong những bài viết sau này của ông, cũng giống như Heilbroner đã từng đề cập, Veblen cho rằng khoa học và kỹ thuật và những người phụ trách chúng rốt cuộc rồi cũng sẽ chiến thắng. Kinh Tế Học Keynes Tác phẩm của John Maynard Keynes (1883-1946) đã cung cấp cho ta lời giải đối với vấn đề làm sao để nền kinh tế tăng trưởng thông qua thặng dư dù cho mức lương có cao và thiếu vắng những mối quan hệ kinh tế. Những nhà kinh doanh áp dụng thuyết kinh tế học cổ điển giống như nguyên tắc trò chơi tổng bằng 0 (Zero-Sum Game). Điều này có nghĩa là, nếu một bên có được ,thì bên kia mất đi (tổng của cái được và cái mất bằng 0). Do vậy, họ cảm thấy rằng nếu muốn tăng l