Đề cương ôn tập Dân số và hệ sinh thái nhân văn

Mantuyt (1766 - 1834) là mục sư, nhà kinh tế học người Anh. Ông là một trong những người đầu tiên phân tích ý nghĩa của việc tăng dân số đối với việc phát triển xã hội. Quan điểm cơ bản của thuyết Mantuyt là thuyết "nhân mãn", có nghĩa là: Tình trạng dân số quá đông tại một vùng nào đó so với điều kiện thiên nhiên. Nội dung cơ bản của thuyết Mantuyt (trong tác phẩm Bàn về dân số - 1798): - Tình trạng dân cư quá đông đúc trên trái đất là điều không tránh khỏi khi dân số tăng theo cấp số nhân, trong khi của cải vật chất tăng theo cấp số cộng.

doc17 trang | Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 3093 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề cương ôn tập Dân số và hệ sinh thái nhân văn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP HỌC PHẦN: DÂN SỐ VÀ HỆ SINH THÁI NHÂN VĂN Câu 1: Các quan điểm cơ bản về dân số? 1. Thuyết Mantuyt: Mantuyt (1766 - 1834) là mục sư, nhà kinh tế học người Anh. Ông là một trong những người đầu tiên phân tích ý nghĩa của việc tăng dân số đối với việc phát triển xã hội. Quan điểm cơ bản của thuyết Mantuyt là thuyết "nhân mãn", có nghĩa là: Tình trạng dân số quá đông tại một vùng nào đó so với điều kiện thiên nhiên. Nội dung cơ bản của thuyết Mantuyt (trong tác phẩm Bàn về dân số - 1798): - Tình trạng dân cư quá đông đúc trên trái đất là điều không tránh khỏi khi dân số tăng theo cấp số nhân, trong khi của cải vật chất tăng theo cấp số cộng. - Quy luật dân số trên là tự nhiên và vĩnh viễn, không liên quan đến chế độ xã hội. - Chiến tranh, dịch bệnh, nghèo đói là những yếu tố quyết định làm giảm dân số, làm cho dân số cân bằng với sản xuất lương thực, thực phẩm và các tư liệu sinh hoạt khác. Có thể nói Mantuyt là người có công đầu trong việc nghiên cứu, tìm hiểu có hệ thống về dân số, cố gắng tìm ra một quy luật nào đó, đặc biệt là lên tiếng báo động cho nhân loại vể nguy cơ của tốc độ gia tăng dân số quá nhanh. Tuy nhiên, do hạn chế về lịch sử và xuất phát từ chỗ cho rằng quy luật dân số là tự nhiên và vĩnh viễn nên ông đã đưa ra những giải pháp sai lệch, vô nhân đạo: - Giải thích sai lầm bản chất động lực dân số; chỉ dùng các quy luật tự nhiên để giải thích sự gia tăng dân số. Điều này sai lầm vì con người còn bị các quy luật xã hội chi phối. - Đề ra các phương pháp sai lệch để hạn chế gia tăng dân số; coi chiến tranh, dịch bệnh, nạn đói là các yếu tố chính làm giảm dân số, tạo lại sự cân bằng xã hội. - Khuyên đẻ ít bằng cách hạn chế tiết dục, lên án mọi biện pháp tránh thai để làm giảm dân số. Điều này là phản khoa học. Sau thuyết Mantuyt, các thuyết tân Mantuyt dưới nhiều dạng khác nhau cũng đã ra đời vào nửa sau thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Nội dung cơ bản là sự tăng nhanh dân số dẫn đến nhiều loại tài nguyên bị lôi cuốn vào quá trình sản xuất, làm kiệt quệ tài nguyên và ô nhiễm môi trường: "Cứ đà này thì giới hạn của sự phát triển trên hành tinh chỉ có thể chịu đựng được trong vòng 100 năm tới". Hậu quả không tránh khỏi là sẽ có sự sụp đổ tức thời, không kiểm soát được. Từ đó các giải pháp mà họ đưa ra thường sai lệch, phản khoa học. 2. Thuyết quá độ dân số: Đây là thuyết nghiên cứu sự biến đổi dân số qua các thời kỳ dựa vào những đặc trưng cơ bản của động lực dân số. Thuyết được xây dựng dựa trên cơ sở hiện tượng biến đổi dân số diễn ra ở Châu Âu bắt đầu từ thời kỳ tiền cách mạng công nghiệp. Trên cơ sở thay đổi mức sinh và mức tử theo thời gian, quá độ dân số được chia làm 4 giai đoạn: - Giai đoạn 1 (1750 - 1800): Mức sinh và mức tử đều tương đối cao, gia tăng tự nhiên thấp. - Giai đoạn 2 (1800 - 1875): Mức sinh và mức tử tiếp tục cao, gia tăng tự nhiên rất cao dẫn đến dân số tăng nhanh. - Giai đoạn 3 (1875 - 1950): Mức sinh giảm, mức tử tiếp tục giảm đến mức thấp nhất, tỷ lệ gia tăng tự nhiên giảm dần. - Giai đoạn 4 (1950 - 1975): Mức sinh và mức tử đều ở mức tương đối thấp, tỷ lệ gia tăng tự nhiên thấp dẫn đến dân số ổn định. Trong 4 giai đoạn nói trên thì giai đoạn 2 và 3 là các giai đoạn trung gian. Các giai đoạn quá độ dân số ở các nước không hoàn toàn giống nhau. Giai đoạn quá độ dân số bị kéo dài hay rút ngắn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội của từng nước hoặc nhóm nước. Thực chất con người có thể điều khiển quá trình quá độ dân số bằng những biện pháp khác nhau. Mô hình trên được gọi là mô hình dân số kinh điển. Căn cứ mô hình này có thể thấy được sự phát triển của dân số thế giới nói chung và của mỗi nước hoặc nhóm nước nói riêng đang ở giai đoạn nào. Theo lý thuyết này, tiến trình dân số của mỗi nước đều trải qua 3 thời kỳ: Thời kỳ trước quá độ; thời kỳ quá độ và thời kỳ sau quá độ. Trong bất cứ thời kỳ nào, mức sinh và mức tử đều có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự biến động dân số. 3. Học thuyết Mác - Lênin về dân số: Trong các tác phẩm kinh điển về duy vật lịch sử, Mác - Ăngghen và Lênin đã đề cập nhiều tới vấn đề dân số. Nội dung cơ bản của học thuyết này bao gồm những điểm chính sau đây: - Mỗi hình thức kinh tế - xã hội có quy luật dân số tương ứng với nó. Đây là luận điểm quan trọng hàng đầu của học thuyết Mác - Lênin về dân số. - Sản xuất vật chất và tái sản xuất dân cư suy cho cùng là nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội loài người. Sản xuất vật chất quyết định sự sống của xã hội và của con người, là cơ sở cho việc tái sản xuất con người. Tái sản xuất con người là tiền đề của sản xuất vật chất, không có con người thì không thể có bất kỳ hình thức sản xuất nào. Chỉ khi nào quá trình tái sản xuất con người ở mức độ hợp lý thì xã hội mới phát triển, chất lượng cuộc sống mới được nâng cao. - Căn cứ vào những điều kiện cụ thể về tự nhiên, kinh tế, xã hội, mỗi quốc gia phải có trách nhiệm xác định số dân tối ưu để đảm bảo sự hưng thịnh cho đất nước và nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân. Như vậy việc xác định quy mô dân số hợp lý đối với lãnh thổ có ý nghĩa rất quan trọng. Cần điều chỉnh dân số như việc điều chỉnh việc phát triển kinh tế thì xã hội mới thật sự ổn định. - Con người có đủ khả năng để điều khiển các quá trình dân số theo mong muốn của mình nhằm phục vụ cho sự phát triển của xã hội, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Phải xác định tốc độ phát triển dân số thích hợp và đưa ra một phương thức tốt nhất tác động đến quá trình tái sản xuất dân cư. Câu 2: Tính quy luật của sự phát triển dân số? Quy trình phát triển dân số, thực chất là tái sản xuất dân cư, chịu ảnh hưởng của nhiều quy luật, trong đó có quy luật sinh học và quy luật kinh tế - xã hội. Quá trình này có một số quy luật nhất định, mà chủ yếu là các quy luật về mặt xã hội. - Tính quy luật giữa người sản xuất và người tiêu thụ trong bản thân mỗi con người. Trong mỗi con người cụ thể bao gồm hai khía cạnh: sản xuất và tiêu thụ. Khác với loài vật, mỗi con người là một thực thể xã hội, có ý thức và khả năng lao động sáng tạo nhằm thỏa mãn những nhu cầu về vật chất và tinh thần ngày càng cao của chính mình và của xã hội. Với tư cách là người sản xuất, con người có khả năng lao động để tìm ra của cải vật chất, suy rộng ra nguồn lao động có ý nghĩa quyết định đối với việc phát triển kinh tế - xã hội. Con người lại là người tiêu thụ những sản phẩm được lấy ra trong xã hội, suy rộng ra dân cư là thị trường tiêu thụ rộng lớn của xã hội. Hai khía cạnh trên ở mỗi con người không phải bao giờ cũng song song tồn tại, có thể hiểu: Sự tiêu thụ của con người mang tính chất tuyệt đối, còn sự lao động mang tính chất tương đối. Tính chất tuyệt đối, vĩnh viễn về sự tiêu thụ của con người là điều thể hiện rất rõ ràng. Con người sản xuất, ngược lại, chỉ có tính chất tương đối. Từ quy luật này có thể thấy rằng, khi nền sản xuất phát triển chậm, năng suất lao động thấp, chất lượng cuộc sống hạn chế thì sự tăng nhanh dân số có nghĩa là tăng thêm số lượng người tiêu dùng, mối quan hệ cung và cầu bị phá vỡ, việc phát triển kinh tế xã hội của đất nước sẽ chịu những sức ép lớn vấn đề dân số. - Tính quy luật giữa phương thức sản xuất và sự phát triển dân số. Mỗi phương thức sản xuất trong lịch sử phát triển của nhân loại đều có những quy luật riêng về dân số. Nói cách khác, phương thức sản xuất ra sao thì sẽ có quy luật dân số tương ứng như thế. Quy luật nào cũng chỉ có giá trị trong phạm vi của phương thức sản xuất đó mà thôi. Trình độ, năng suất lao động xã hội và bản chất mối quan hệ xã hội quyết định quá trình phát triển dân số. Quan hệ sản xuất cũng tác động mạnh mẽ đến việc tái sản xuất dân cư. Mỗi kiểu quan hệ sản xuất có một phương thức kết hợp giữa lực lượng lao động với tư liệu sản xuất và phương thức phân phối của cải vật chất. Điều này được thể hiện rõ trong các hình thức kinh tế - xã hội. Ngoài vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng (cơ sở kinh tế), thì thượng tầng kiến trúc (chính trị, tư tưởng, văn hóa, khoa học, giáo dục...) cũng có những tác động quan trọng đến tái sản xuất dân cư. Trong điều kiện cụ thể, phương thức sản xuất có thể thúc đẩy hoặc giảm bớt sự gia tăng dân số. - Ảnh hưởng của sự biến động dân số đối với sự phát triển xã hội. Sự biến động dân số không phải là nhân tố quyết định đối với sự phát triển xã hội. Tuy nhiên, nó có tác động tích cực hoặc tiêu cực đến tiến trình phát triển, đặc biệt là đến năng suất lao động xã hội. Nhìn chung, năng suất lao động xã hội là thước đo mức độ hợp lý hay không hợp lý của tốc độ gia tăng dân số của quá trình tái sản xuất dân cư trong mỗi xã hội ở 1 giai đoạn nào đó. Nhìn chung, nền kinh tế càng phát triển thì nhịp độ gia tăng dân số càng chậm lại. Hiện nay, ở các nước công nghiệp phát triển, dân số tăng chậm, thậm chí ở một số quốc gia dân số không tăng mà còn giảm đi, ảnh hưởng đến việc phát triển kinh tế xã hội; ngược lại, ở phần lớn các nước đang phát triển, dân số vẫn tăng với nhịp độ cao, gây mất cân đối giữa tốc độ phát triển kinh tế và sự tăng dân số. Tuy nhiên, tình hình phát triển dân số không phải lúc nào cũng phản ánh đúng bản chất chế độ xã hội. Điều này được lý giải ở chỗ sự phát triển dân số còn chịu sự tác động của hàng loạt nhân tố khác... Câu 3: Kết cấu xã hội? Kết cấu xã hội là tập hợp những bộ phận hợp thành dân số của một lãnh thổ được phân chia theo các tiêu chuẩn xã hội khác nhau như lao động, nghề nghiệp, trình độ văn hóa. Trong dân số học, việc nghiên cứu kết cấu xã hội có ý nghĩa rất quan trọng vì thế mà kết cấu xã hội ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc đến mọi hoạt động của toàn xã hội. Kết cấu xã hội bao gồm kết cấu theo lao động, kết cấu theo nghề nghiệp, kết cấu theo trình độ văn hóa. 1. Kết cấu dân số theo lao động: Dân số theo lao động chủ yếu là dân số hoạt động. Đó là những người có thể lao động bao gồm: những người có việc làm hưởng lương; những người đang tìm việc làm (không tính người hưu trí, nội trợ, quân nhân, sinh viên, học sinh). Bộ phận dân số hoạt động tham gia vào các ngành kinh tế quốc dân được gọi là hoạt động kinh tế. Dân số hoạt động thường được phân chia vào các khu vực lao động. Ứng với một khu vực có một lượng lao động nhất định. Trên cơ sở của tính chất sản xuất, người ta chia ra 3 khu vực sản xuất chính: (1) - Khu vực 1: nông - lâm - ngư nghiệp; (2) - Khu vực 2: công nghiệp và xây dựng; (3) - Khu vực 3: thương nghiệp, giao thông, hành chính, giáo dục, y tế, dịch vụ... Tính chất nền sản xuất phản ánh tình hình xã hội của một quốc gia và thường xuyên thay đổi theo thời gian và không gian. * Dựa vào quan hệ sản xuất có ba khu vực: (1) - Khu vực nhà nước; (2) - Khu vực tập thể; (3) - Khu vực gia đình (tư nhân). * Dựa vào thời gian ra đời có hai khu vực: (1) - Khu vực lao động cổ truyền: nông nghiệp, thủ công nghiệp, buôn bán nhỏ...; (2) - Khu vực lao động hiện đại: công nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ... 2. Kết cấu dân số theo nghề nghiệp: Kết cấu dân số theo nghề nghiệp là tập hợp nhóm người lao động được sắp xếp theo nghề nghiệp khác nhau. Ví dụ: công nhân, viên chức, trí thức, nông dân... Kết cấu theo nghề nghiệp phản ánh trình độ phát triển xã hội. Xã hội ngày càng phát triển thì sự phân công lao động càng sâu, có nghĩa là số lượng ngành nghề càng tăng. 3. Kết cấu dân số theo trình độ văn hóa: Kết cấu dân số theo trình độ văn hóa là tập hợp các nhóm người được xếp theo trình độ văn hóa. Kết cấu này phản ánh trình độ học vấn của đất nước, thể hiện gián tiếp để biết được tình hình, khả năng phát triển kinh tế xã hội của đất nước đó. Để xây dựng kết cấu dân số theo trình độ văn hóa người ta phải thống kê các chỉ số sau: (1) - Số lượng người mù chữ; (2) - Số lượng người đi học các cấp; (3) - Số lượng cán bộ khoa học kỹ thuật; (4) - Số lượng công nhân kỹ thuật lành nghề. Trong đó, số lượng người đi học các cấp, số lượng cán bộ khoa học kỹ thuật và số lượng công nhân kỹ thuật lành nghề là những chỉ số được quan tâm nhất vì đây là lực lượng lao động quan trọng, có tác dụng thúc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Câu 4: Chất lượng cuộc sống? Mối quan hệ của chúng với sự phát triển dân số? * Chất lượng cuộc sống: Chất lượng cuộc sống là điều kiện sống được cung cấp đầy đủ nhà ở, giáo dục, dịch vụ y tế, lương thực, thực phẩm, vui chơi giải trí... cho nhu cầu của con người. Các điều kiện này làm cho con người dễ dàng đạt được sự hạnh phúc, an toàn gia đình, khỏe mạnh về thể chất và tinh thần. Chất lượng cuộc sống cao là đặc trưng cơ bản của một xã hội văn minh, có trình độ phát triển cao về nhiều mặt. Tuy nhiên, khái niệm chất lượng cuộc sống thay đổi tùy theo quan niệm văn hóa xã hội và truyền thống của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng và của từng cá nhân trong từng giai đoạn phát triển của xã hội. Ở các nước khác nhau thì chất lượng cuộc sống khác nhau; trong một quốc gia, chất lượng cuộc sống ở các vùng cũng không giống nhau. Có thể nói, chất lượng cuộc sống là tầm văn minh của một dân tộc. Nếu sự gia tăng dân số không có kế hoạch sẽ ảnh hưởng đến các chỉ số của chất lượng cuộc sống dẫn đến làm giảm chất lượng cuộc sống. * Mối quan hệ của chất lượng cuộc sống với sự phát triển dân số: Chất lượng cuộc sống có mối quan hệ rất chặt chẽ với sự phát triển dân số. Nếu dân số phát triển một cách hợp lý thì chất lượng cuộc sống mới được đảm bảo và nâng cao. Nếu dân số tăng nhanh sẽ gây sức ép với chất lượng cuộc sống, từ đó gây ra những tiêu cực tới chất lượng cuộc sống như: (1) - Tạo ra sự nghèo khổ; (2) - Thiếu lương thực, thực phẩm; (3) - Gây sức ép lên giáo dục, y tế; (4) - Gây sức ép lên tài nguyên thiên nhiên. Có thể biểu diễn mối quan hệ giữa tăng dân số và chất lượng cuộc sống như sau: Dân số tăng nhanh Kinh tế văn hóa kém phát triển Thừa lao động, thiếu việc làm ↑ ↓ Năng suất lao động thấp Khai thác TN quá mức, MT suy giảm ↑ ↓ Sức khỏe kém, bệnh tật tăng, tuổi thọ thấp ← Nghèo đói, mù chữ, xã hội phân hóa giàu nghèo Tệ nạn xã hội phát triển, trật tự an ninh rối loạn * Một số chỉ số của chất lượng cuộc sống chịu sự ảnh hưởng của sự phát triển dân số: + Sự phát triển kinh tế - xã hội: Dân số tăng nhanh ảnh hưởng trực tiếp đến tổng sản phẩm quốc dân (GNP) và sản phẩm quốc dân tính theo đầu người (GNP/người). Các nước đang phát triển là những nước lạc hậu, chủ yếu dựa vào đời sống nông nghiệp, công cụ lao động thô sơ dẫn đến năng suất lao động thấp, dẫn đến mức sống thấp. Các nước phát triển thì ngược lại, chất lượng cuộc sống cao. + Lương thực - thực phẩm: Dân số tăng nhanh dẫn đến nhu cầu lương thực - thực phẩm tăng. Mặt khác, cơ thể cần được thường xuyên cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng để bù đắp lại năng lượng đã chi phí trong các hoạt động sống và lao động, đồng thời để đáp ứng việc xây dựng cơ thể trong việc tạo các tế bào mới để đảm bảo sự phát triển. + Công ăn việc làm: Tốc độ gia tăng dân số cao ở các nước đang phát triển làm gia tăng người lao động. Ở những nước này, có nguồn lao động dồi dào nhưng vốn đầu tư để mở mang sản xuất và xây dựng cơ bản lại ít dẫn đến thừa lao động. + Giáo dục: Giáo dục là một trong những chỉ số cơ bản nói lên chất lượng cuộc sống. Giáo dục đảm bảo trình độ học vấn - phản ánh trình độ văn minh của xã hội và là điều kiện cần và đủ để con người phát triển toàn diện. Dân số tăng nhanh, không cân đối với tỷ lệ phát triển kinh tế - xã hội sẽ không có khả năng và điều kiện đầu tư thích đáng cho giáo dục. + Sức khỏe và dịch vụ y tế: Dân số tăng nhanh ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người như: Tuổi thọ trung bình thấp; Tỷ lệ bệnh tật và tử vong cao; Quy mô gia đình bị ảnh hưởng. Dân số tăng nhanh cũng ảnh hưởng đến vệ sinh môi trường, thiếu nước sạch, ảnh hưởng đến điều kiện phục vụ và dịch vụ y tế. + Nhà ở, sinh hoạt, giao thông và các dịch vụ xã hội khác: Dân số tăng nhanh làm tăng nhu cầu nhà ở và các công trình công cộng như trường học, bệnh viện dẫn đến hiện tượng lấn chiếm đất trồng trọt, diện tích đất canh tác giảm xuống. Bên cạnh đó là nước sạch, giao thông... Câu 5: Quan hệ giữa sinh thái và hệ xã hội? - Hệ sinh thái là một hệ chức năng, bao gồm các nhân tố vô sinh và sinh vật luôn luôn tác động tương hỗ với nhau làm thành một hệ thống động thái thống nhất. Hệ sinh thái là một khái niệm rộng và linh hoạt, vì thế có thể áp dụng cho tất cả các trường hợp có mối quan hệ tương hỗ giữa các sinh vật và môi trường, có sự trao đổi vật chất, thông tin và năng lượng giữa chúng với nhau, thậm chí chỉ xảy ra trong thời gian ngắn. Hoạt động của hệ sinh thái tuân theo các quy luật chung của lý thuyết hệ thống. Nó được xác định như một tập hợp các đối tượng, hoặc các thuộc tính liên kết bằng nhiều mối tương tác. Lý thuyết hệ thống được áp dụng rộng rãi trong nhiều ngành khoa học giúp cho sự hiểu biết và giải thích các mối quan hệ tương hỗ giữa các thành phần trong hệ thống. Trong hệ sinh thái các thành phần sống và không sống luôn luôn liên hệ với nhau và không ngừng trao đổi nguyên liệu thông qua chu trình vật chất và năng lượng. Trong các thành phần của hệ sinh thái thì khí quyển, đất, nước là những nguyên liệu sơ cấp, còn động vật, thực vật và vi sinh vật là những tác nhân vận chuyển và là những bộ máy trao đổi vật chất và năng lượng. Chúng được đặc trưng bằng mối quan hệ năng lượng giữa sinh vật tự dưỡng và sinh vật dị dưỡng, thông qua xích thức ăn và mạng lưới thức ăn. - Hệ xã hội được hình thành trên các yếu tố: dân tộc, khoa học - kỹ thuật, phong tục tập quán, văn hóa xã hội, chuẩn mực đạo đức, thể chế và cơ cấu xã hội... Văn hóa loài người bao gồm nhiều mức độ khác nhau về kỹ thuật, tiếng nói, tín ngưỡng, tổ chức xã hội... Kết quả của quá trình tiến hóa đã hình thành nên xã hội loài người. Khái niệm xã hội là bao gồm tất cả các sản phẩm khác nhau của văn hóa con người ở mức độ quần thể. Đó là các sản phẩm của lao động, là tổ chức xã hội, các hoạt động xã hội; đó cũng bao gồm các sản phẩm văn hóa như trí thức, kỹ thuật... Xã hội loài người do nhu cầu phát triển mà kiểm tra, điều khiển các quá trình tự nhiên. Đặc điểm của mối quan hệ đó không chỉ con người không thể tồn tại thiếu tự nhiên mà tự nhiên cũng không thể tiếp tục tồn tại mà không có tác động của trí tuệ và sự điều khiển của con người. Sinh thái nhân văn là khoa học xã hội - tự nhiên được kết hợp một cách biện chứng như một hệ thống động thái thống nhất và hữu cơ giữa các điều kiện tự nhiên và xã hội. Mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội là mối quan hệ biện chứng mà trong đó sự thay đổi của hệ thống này trực tiếp ảnh hưởng đến cơ cấu và chức năng của hệ thống kia. Câu 6: Nội dung của phát triển bền vững miền núi? Vùng miền núi Việt Nam có những điều kiện sinh thái phức tạp, văn hóa truyền thống phong phú, tài nguyên thiên nhiên đa dạng... Đối với hệ sinh thái nông nghiệp thì bền vững được xem là khả năng duy trì được năng suất mùa màng kể cả khi bị sức ép nặng nề hay các cú sốc. Trong phân tích, đánh giá tính bền vững của các hệ sinh thái thường đề cập đến sự tương hợp giữa ba khối nhân tố: sinh thái, kinh tế, xã hội. Ba khối nhân tố này tương tác với nhau trong một hệ thống hoàn thiện và được thể hiện qua các đặc tính: năng suất, bền vững, ổn định, công bằng, hợp tác và thích nghi. Như vậy, đối với vùng miền núi, việc xây dựng một nên nông nghiệp sinh thái và phát triển bền vững phụ thuộc vào nhiều yếu tố như sinh học, đặc điểm tự nhiên, môi trường kinh tế - xã hội của từng vùng cụ thể. Trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, những nội dung sau đây cần thiết cho sự phát triển bền vững cần phải được chú ý: - Tăng cường sử dụng các giống cây trồng mới kháng sâu bệnh; sử dụng phân bón hóa học và thuốc trừ sâu bệnh một cách hợp lý. Phát triển nhanh chóng chăn nuôi, sử dụng nhiều phân hữu cơ hơn. - Bảo đảm tái sinh rừng và trồng rừng. Tác dụng đến điều tiết khí hậu, làm sạch môi trường, chống lũ lụt, bảo đảm nguồn sinh thủy cho các dòng sông. - Lựa chọn và phổ biến các loại hình sử dụng đất thích hợp. Cần phải đa dạng hóa cây trồng, phổ cập các biện pháp canh tác nông - lâm kết hợp... - Đầu tư theo chiều sâu, thâm canh tăng vụ để đạt sản lượng cao trên đơn vị diện tích kết hợp chặt chẽ với chế biến nông - lâm sản. Việc mở rộn
Tài liệu liên quan