Đề tài Kế hoạch 5 năm 2011-2015 và những vấn đề kinh tế vĩ mô trung – dài hạn

Sự tái diễn hàng năm một chu kỳ như vậy chứa đựng nguy cơ tạo vòng xoáy bất ổn và xu hướng suy thoái rất đáng lo ngại. Nó chứng tỏ năng lực điề u hành vĩ mô của bộ máy quản trị quốc gia còn nhiều bất cập, nhất là trong bối cảnh hội nhập, khi cơ hội và tahchs thức tràn vào, khi nền kinh tế phải trực diện đương đầu với các tình thế và quan hệ phát triển phức tạp gấp bội phần so với trước. Nguy cơ và xu hướng này đã được cảnh báo từ sớm nhưng ít được quan tâm xử lý. Vì vậy, “cơ hội” cho phép nền kinh tế trỗi dậy do tình trạng bất ổn và khủng hoảng tạo ra (giúp nhận diện rõ điểm yếu và xác định đúng các giải pháp xoay chuyển tình hình, tiến hành điều chỉnh cơ cấu thể chế) đã bị bỏ qua 3

pdf5 trang | Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2573 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Kế hoạch 5 năm 2011-2015 và những vấn đề kinh tế vĩ mô trung – dài hạn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KẾ HOẠCH 5 NĂM 2011-2015 VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ KINH TẾ VĨ MÔ TRUNG – DÀI HẠN PGS. TS. Trần Đình Thiên Viện Kinh tế Việt Nam 1. Tình hình 2006-2010 chứa đựng “nghịch lý” phát triển hiếm thấy: cơ hội thuận lợi lớn, mức đầu tư cao, thị trường mở rộng, đà tăng trưởng tốt nhưng tăng trưởng giảm, không cao, lạm phát cao và bất ổn nghiêm trọng. + Những yếu tố bất thuận lợi cũng có (rủi ro bên ngoài, bao gồm tác động khủng hoảng toàn cầu 2008-2009), song không thể lấn át xu hướng tác động tích cực. + So sánh mức trung bình của 3 kỳ 5 năm sẽ thấy rõ tính có vấn đề của giai đoạn 2006-2010: 1996-2000 2001-2005 2006-2010 Lạm phát (CPI) bình quân năm (%) 3,4 5,1 11,4 Tăng trưởng GDP bình quân năm (%) 6,96 7,51 7,02 Ngoài ra, nền kinh tế còn chịu - Thâm hụt Ngân sách tăng cao - Thâm hụt thương mại tăng vọt - Hiệu quả đầu tư thấp (duy trì ICOR cao)  Cơ hội không tự thân chuyển hóa thành lợi ích tăng trưởng hiện thực, càng không được bảo đảm chuyển thành lợi ích phát triển mà người dân và xã hội được hưởng, xét trên cả ngắn hạn và dài hạn1. Nguyên nhân nền tảng của tình hình đã trở nên ngày càng rõ ràng: i) chủ quan, không tích cực chuẩn bị các điều kiện để chuyển hóa cơ hội thành lợi ích tăng trưởng và phát triển thực tế cũng như để giảm thiểu các tác động rủi ro; ii) mô hình tăng trưởng lạc hậu được duy trì quá lâu, tạo ra những điểm yếu cơ cấu và mâu thuẫn nội tại gay gắt trong nền kinh tế. 1 Lưu ý: trong vòng 5 năm, tính cộng dồn đơn giản, lạm phát (CPI) đã tăng gần 60% trong khi tổng tăng trưởng GDP chỉ đạt 35,1%. Chưa tính đến việc phân bổ lợi ích tăng trưởng có xu hướng tập trung cho nhóm người giàu và đầu cơ (thực tế là như vậy), chỉ hai con số nêu trên đã đủ chứng tỏ thu nhập thực tế và mức sống thực của người dân, nhất là tầng lớp nghèo, bị giảm sút rất mạnh. 2 2. Tình hình cơ bản của giai đoạn 2006-2010: hàng năm Chính phủ đều phải nỗ lực rất lớn trong điều hành để kiềm chế lạm phát, ổn định vĩ mô. Các giải pháp thực thi chủ yếu đều mang tính ngắn hạn, tình thế (chữa cháy), nặng về hành chính, chưa tập trung xử lý các vấn đề cơ bản (cơ cấu, hiệu quả và sức cạnh tranh). Kết cục: có thể đạt được tạm ổn ngắn hạn, đạt được một số mục tiêu cam kết chính hàng năm nhưng i) phải trả giá bằng sự hao tổn nguồn lực quốc gia rất lớn (không chỉ đo bằng số tiền Chính phủ bỏ ra để chống lạm phát, duy trì tăng trưởng mà quan trọng hơn, đo bằng mức độ hao tổn sức khỏe của hệ thống doanh nghiệp sau khi chống chọi với lạm phát và lãi suất cao, bằng sự sụt giảm thu nhập và mức sống thực tế của người dân và đặc biệt, bằng sự suy giảm lòng tin thị trường và lòng tin của dân vào môi trường chính sách, vào năng lực quản trị vĩ mô của Đảng và Nhà nước)2; ii) sau đó, Chính phủ và nền kinh tế lại bước vào một chu kỳ ngắn hạn (hàng năm) mới: tiếp tục đương đầu với tình trạng bất ổn và nguy cơ lạm phát gay gắt hơn. Sự tái diễn hàng năm một chu kỳ như vậy chứa đựng nguy cơ tạo vòng xoáy bất ổn và xu hướng suy thoái rất đáng lo ngại. Nó chứng tỏ năng lực điều hành vĩ mô của bộ máy quản trị quốc gia còn nhiều bất cập, nhất là trong bối cảnh hội nhập, khi cơ hội và tahchs thức tràn vào, khi nền kinh tế phải trực diện đương đầu với các tình thế và quan hệ phát triển phức tạp gấp bội phần so với trước. Nguy cơ và xu hướng này đã được cảnh báo từ sớm nhưng ít được quan tâm xử lý. Vì vậy, “cơ hội” cho phép nền kinh tế trỗi dậy do tình trạng bất ổn và khủng hoảng tạo ra (giúp nhận diện rõ điểm yếu và xác định đúng các giải pháp xoay chuyển tình hình, tiến hành điều chỉnh cơ cấu thể chế) đã bị bỏ qua3. 3. Xu hướng “vòng xoáy” bất ổn nằm chủ yếu trong mối quan hệ giữa năng lực điều hành vĩ mô và quản trị phát triển yếu kém với yêu cầu xử lý các vấn đề ngắn hạn và dài hạn với mức độ bức bách đều cùng tăng lên. Trong điều kiện năng lực có hạn, xu hướng nổi bật là tập trung giải quyết các vấn đề cấp bách, “nước sôi lửa bỏng” (lạm phát cao, lãi suất cao, thiếu vốn, tỷ giá bất hợp lý, v.v.) bằng cách tạm gác lại các vấn đề dài hạn (cơ cấu đầu tư, phát triển công 2 Nhưng đó vẫn chưa phải là tất cả những tổn thất quốc gia. Lạm phát cao kéo dài làm cho cả tiết kiệm dân cư lẫn tiết kiệm doanh nghiệp suy giảm mạnh. Về dài hạn, sự sụt giảm đồng nghĩa với triển vọng suy giảm mạnh đầu tư nội địa. Với mong muốn duy trì tăng trưởng cao, nguồn lực chủ yếu phải dựa vào chỉ có thể là đầu tư nhà nước và đầu tư nước ngoài. Bi kịch là ở chỗ cả hai dòng đầu tư này đều có những vấn đề dài hạn liên quan đến hiệu quả: ICOR của đầu tư nhà nước quá cao; FDI cũng kém hiệu quả nếu khu vực tư nhân trong nước yếu kém. Có thể nhận thấy từ các mối quan hệ trên nguy cơ xuất hiện “vòng xoáy” lạm phát và suy thoái là rất lớn. 3 Có thể hình dung một sự đánh mất cơ hội “kép” của nền kinh tế Việt Nam trong 5 năm qua: i) mất cơ hội tạo bùng nổ tăng trưởng do hội nhập (gia nhập WTO) mang lại và ii) mất cơ hội “tái cấu trúc nền kinh tế” (điều chỉnh thể chế) do tình thế khủng hoảng tạo ra. 3 nghiệp hỗ trợ, giải quyết các nút thắt tăng trưởng (kết cấu hạ tầng), chất lượng nguồn nhân lực, v.v.) - tuy là những điểm yếu căn bản, song chưa phải là vấn đề “cháy nhà, chết người” so với các vấn đề ngắn hạn. Cách làm như vậy chỉ mang tính “chữa cháy”, không giải quyết triệt để vấn đề. Có thể rút ra hai nhận định quan trọng. Một là, các biện pháp cấp cứu chỉ có thể giúp nền kinh tế qua cơn nguy kịch, không thể giúp nó phục hồi sức khỏe và tạo nên một cơ thể vững mạnh. Hai là, trong bối cảnh nền kinh tế nước ta phụ thuộc ngày càng mạnh vào nền kinh tế thế giới đang biến động nhanh, bất ổn, khó dự báo và cạnh tranh ngày càng gay gắt, thì với một cơ cấu kinh tế không vững và không mạnh, việc chỉ tập trung vào các biện pháp “chữa cháy” chứa đựng nguy cơ tái diễn và bùng phát bất ổn, khả năng bùng nổ khủng hoảng ngày càng tăng. Đó chính là tình thế hiện tại của nền kinh tế nước ta. 4. Lập luận trên cho thấy cần có cách tiếp cận “mới” đến vấn đề chống lạm phát, duy trì ổn định vĩ mô và bảo đảm tăng trưởng của nước ta hiện nay. Cách tiếp cận này bao gồm các yếu tố sau. a/ Nhận diện đúng thực chất tình hình (mức độ nghiêm trọng). b/ Xác định rõ căn nguyên bất ổn và lạm phát. c/ Đề xuất các giải pháp căn cơ, chiến lược cho tăng trưởng bền vững (cốt lõi là ổn định vĩ mô) và lộ trình thực thi. d/ Xác định các giải pháp “cấp cứu” một cách bài bản, đúng cách (theo tình thế) và “vừa theo sức của mình”. e/ Xây dựng nguyên tắc và cơ chế phối hợp thực thi chính sách i) theo trục thời gian (dài hạn và ngắn hạn), ii) theo trục chính sách (các bộ ngành, trung ương – địa phương và Chính phủ - các tập đoàn lớn), bảo đảm tính nhất quán và không xung đột trong thực thi. [Chú ý: chức năng, trách nhiệm thực thi, vấn đề giám sát và kiểm tra] 5. Tính cấp bách và gay gắt của tình hình kinh tế năm 2011: - Xu thế lạm phát cao và bất ổn lớn rõ ngay từ đầu năm. - Lòng tin thị trường và lòng tin của dân bị suy giảm mạnh - Hạn hán và thiếu điện nghiêm trọng - Hạn hán và mất mùa. Nguy cơ khủng hoảng lương thực thế giới. - Bất ổn Trung Đông, Châu Phi + phục hồi tăng trưởng kinh tế thế giới = giá dầu tăng. Tổng thể: các yếu tố tăng giá và tăng bất ổn là rất lớn. 6. Những vấn đề phải giải quyết: - Xác lập và củng cố một số quan điểm, tư duy định hướng: 4 + Tư duy lại chức năng nhà nước – thị trường và mối quan hệ mục tiêu chức năng tăng trưởng - ổn định; + Đổi mới mô hình tăng trưởng là nhiệm vụ chiến lược sống còn. - Nhiệm vụ cấp bách: tập trung thực hiện NQ 11 của Chính phủ. Có 3 lưu ý: i) cắt giảm đầu tư công không thể là một thao tác tức thời hay một chiến dịch chớp nhoáng; nó phải được thiết kế thành một chương trình hành động có mục tiêu, lộ trình, quy trình và hoạt động giám sát, kiểm tra, kéo dài trong khoảng 1-2 năm; ii) từ việc cắt giảm chi tiêu NSNN và đầu tư công với tư cách là một biện pháp “cấp cứu” lần này, nghiên cứu để cải cách toàn diện hệ thống NSNN; iii) trong điều kiện “sức khỏe” Nhà nước và sức khỏe doanh nghiệp đều bị suy yếu, Chính phủ không nên dùng biện pháp “kéo” lạm phát xuống (thực chất là “đuổi theo lạm phát để kéo nó xuống) mà nên dùng biện pháp “chặn” lạm phát (thực chất là “vượt trước lạm phát để đè lạm phát xuống). Công cụ chính là lãi suất. Phương pháp này cũng nên áp dụng để chống đầu cơ tỷ giá. - Tiến hành ngay các hành động tái cơ cấu kinh tế, điều chỉnh thể chế căn bản để thực sự làm thay đổi mô hình tăng trưởng. Nguyên nhân bên trong của bất ổn vĩ mô và lạm phát ở Việt Nam là ở việc duy trì quá lâu một mô hình tăng trưởng đã không còn phù hợp. ập trung nỗ lực quốc gia cho nhiệm vụ lâu dài này. Có nhiều việc phải làm. Sau đây chỉ nêu một số giải pháp lớn gắn với khôi phục ổn định, bảo đảm tăng trưởng bền vững. + Xác lập lại chương trình tổng thể giải quyết các nút thắt tăng trưởng (xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng). Nguyên lý tổng quát: bảo đảm cung cầu, phối hợp tổng thể. Cách phát triển hạ tầng của ta xưa nay: chỉ xuất phát từ cung “phi thị trường”, lo cho phần tài chính dự án chứ không lo tổng thể. + Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, với hai việc chính: i) tăng cường vai trò độc lập của NHNN (rõ chức năng và quyền hành ổn định vĩ mô, chịu trách nhiệm); ii) mạnh tay sắp xếp lại các NHTMCP, loại bỏ những NHTM quá yếu kém, tác nhân kích “lãi suất”, gây bất ổn. + Chuyển sang chế độ ngân sách “cứng”. Xác định nguyên tắc định hướng: Nhà nước tập trung cho ổn định vĩ mô, chống lạm phát; giảm thiểu đầu tư công, nhất là đầu tư cho doanh nghiệp nhà nước. + Cải cách chế độ tiền lương trong khu vực nhà nước. + Tư duy lại chiến lược đô thị hóa: triết lý, định hướng, nguồn lực và cơ chế. 5 + Xây dựng một chiến lược phát triển công nghiệp cụ thể, theo định hướng mới: hiện đại hóa, các ngành chủ lực + công nghiệp hỗ trợ + cụm công nghiệp + đối tác chiến lược. + “Tái phân cấp” Trung ương – Địa phương: Xây dựng thể chế kinh tế vùng? 7. Dự thảo kế hoạch 5 năm 2011-2015, trên quan điểm tiếp cận giải quyết các vấn đề phát triển trung – dài hạn nêu trên, một cách tổng quát, dường như chưa thể hiện tư tưởng đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu mà thực tiễn đang đòi hỏi gay gắt và đã được xác định – khẳng định trong các văn kiện Đại hội Đảng XI. Khuôn mẫu Dự thảo kế hoạch vẫn là khuôn mẫu cũ, vẫn chuyển dịch cơ cấu đầu tư và cơ cấu kinh tế theo cách cũ. Xin được nêu một số vấn đề sau: Đánh giá bối cảnh quốc tế quá đơn giản. Do đó, cách thức phát triển kinh tế của Việt Nam cũng “dễ dãi, nhẹ nhàng”. - Tính “hiện vật” vẫn lấn át trong một kế hoạch kinh tế vĩ mô – thị trường. - Thiếu luận cứ, luận chứng thuyết phục cho các kết luận. - Thiếu tư duy đột phá, không có điểm đột phá. - Không có điều kiện khả thi bảo đảm thực hiện mong muốn.
Tài liệu liên quan