Đề tài Quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Lạng Sơn hiện nay

Tôn giáo là hình thái ý thức xã hội, đồng thời cũng là một thực thể xã hội ra đời từ hàng nghìn năm nay và sẽ tồn tại cùng với loài người trong một thời gian khó đoán định. Trong quá trình tồn tại và phát triển, tôn giáo ảnh hưởng khá sâu sắc đến đời sống chính trị, văn hóa, xã hội, đến tâm lý, đạo đức, lối sống, phong tục, tập quán của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia. Vào những năm gần đây, tình hình tôn giáo trên thế giới có nhiều diễn biến phức tạp. Nằm trong dòng chảy của lịch sử nhân loại, Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, bên cạnh các tôn giáo lớn có tổ chức với số lượng tín đồ đông đảo còn có các sinh hoạt tín ngưỡng dân gian truyền thống. Tôn giáo đã và đang trở thành nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, các hoạt động của tôn giáo được khôi phục và phát triển mạnh mẽ, số người theo tôn giáo ngày càng tăng. Hiện nay, ngoài xu hướng hành đạo đồng hành cùng dân tộc, thuần túy tôn giáo, tuân thủ Hiến pháp, pháp luật cũng đã xuất hiện các hoạt động tôn giáo không bình thường, có phần lấn lướt chính quyền, vi phạm một số qui định của Nhà nước về hoạt động tôn giáo: Một số chức sắc tôn giáo ngấm ngầm hoạt động chống đối chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, có tư tưởng vọng ngoại, tìm mọi cách cung cấp thông tin sai lệch về tình hình tôn giáo ở trong nước; Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) đã từ chối không tham gia lễ diễu hành cùng các tổ chức tôn giáo trong dịp lễ Quốc khánh 2/9/2005 với lý do là Nhà nước đối xử không bình đẳng với Hội thánh, gây hiệu ứng tiêu cực về chính trị; các tổ chức tôn giáo, nhất là đạo Tin lành gia tăng các hoạt động truyền đạo vào vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; một số tôn giáo lợi dụng việc đòi lại đất đai cơ sở thờ tự để có những hoạt động chống đối chính quyền, gây khiếu kiện rất phức tạp, hoặc gây điểm nóng tôn giáo; có giáo phái đòi tách khỏi Giáo hội và sự quản lý của Nhà nước; nhiều tổ chức đội lốt tôn giáo nhằm tập hợp lực lượng chống lại chính quyền, tạo cớ để các thế lực thù địch bên ngoài can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta… Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã xác định phải tăng cường công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo để vừa đảm bảo nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của quần chúng, vừa kịp thời đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo để đi ngược lại lợi ích của nhân dân, của dân tộc

pdf104 trang | Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2661 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Lạng Sơn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LUẬN VĂN: Quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Lạng Sơn hiện nay Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Tôn giáo là hình thái ý thức xã hội, đồng thời cũng là một thực thể xã hội ra đời từ hàng nghìn năm nay và sẽ tồn tại cùng với loài người trong một thời gian khó đoán định. Trong quá trình tồn tại và phát triển, tôn giáo ảnh hưởng khá sâu sắc đến đời sống chính trị, văn hóa, xã hội, đến tâm lý, đạo đức, lối sống, phong tục, tập quán của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia. Vào những năm gần đây, tình hình tôn giáo trên thế giới có nhiều diễn biến phức tạp. Nằm trong dòng chảy của lịch sử nhân loại, Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, bên cạnh các tôn giáo lớn có tổ chức với số lượng tín đồ đông đảo còn có các sinh hoạt tín ngưỡng dân gian truyền thống. Tôn giáo đã và đang trở thành nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, các hoạt động của tôn giáo được khôi phục và phát triển mạnh mẽ, số người theo tôn giáo ngày càng tăng. Hiện nay, ngoài xu hướng hành đạo đồng hành cùng dân tộc, thuần túy tôn giáo, tuân thủ Hiến pháp, pháp luật cũng đã xuất hiện các hoạt động tôn giáo không bình thường, có phần lấn lướt chính quyền, vi phạm một số qui định của Nhà nước về hoạt động tôn giáo: Một số chức sắc tôn giáo ngấm ngầm hoạt động chống đối chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, có tư tưởng vọng ngoại, tìm mọi cách cung cấp thông tin sai lệch về tình hình tôn giáo ở trong nước; Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc) đã từ chối không tham gia lễ diễu hành cùng các tổ chức tôn giáo trong dịp lễ Quốc khánh 2/9/2005 với lý do là Nhà nước đối xử không bình đẳng với Hội thánh, gây hiệu ứng tiêu cực về chính trị; các tổ chức tôn giáo, nhất là đạo Tin lành gia tăng các hoạt động truyền đạo vào vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; một số tôn giáo lợi dụng việc đòi lại đất đai cơ sở thờ tự để có những hoạt động chống đối chính quyền, gây khiếu kiện rất phức tạp, hoặc gây điểm nóng tôn giáo; có giáo phái đòi tách khỏi Giáo hội và sự quản lý của Nhà nước; nhiều tổ chức đội lốt tôn giáo nhằm tập hợp lực lượng chống lại chính quyền, tạo cớ để các thế lực thù địch bên ngoài can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta… Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã xác định phải tăng cường công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo để vừa đảm bảo nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của quần chúng, vừa kịp thời đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo để đi ngược lại lợi ích của nhân dân, của dân tộc. Lạng Sơn là một tỉnh miền núi phía Bắc có vị trí chiến lược về địa chính trị, kinh tế, an ninh quốc phòng. Là địa đầu biên cương của Tổ quốc, đây cũng là một trong những địa bàn trọng điểm mà các thế lực thù địch tập trung hoạt động chống phá. Số lượng tôn giáo ở Lạng Sơn có qui mô không lớn, hiện nay chỉ có ba tôn giáo chính: Phật giáo, Công giáo và Tin lành. Nhìn chung các tín đồ theo đạo đại bộ phận là những người dân sống tốt đời đẹp đạo. Đường hướng chung của các tôn giáo ở Lạng Sơn hiện nay đều tập trung củng cố đức tin, tuyên truyền phát triển đạo. Song ở Lạng Sơn, điều cần quan tâm là sự phát triển của đạo Tin lành. Tin lành được truyền vào Lạng Sơn từ năm 1938, chủ yếu tập trung ở khu vực đồng bào dân tộc Dao sinh sống (huyện Bắc Sơn). Thời gian qua sự phát triển của đạo Tin lành ở khu vực này đã gây những ảnh hưởng tiêu cực về nhiều mặt, xáo trộn cuộc sống bình thường của người dân, gây chia rẽ đoàn kết nội bộ các dân tộc thiểu số, giữa người theo và không theo đạo Tin lành. Đáng chú ý là những phần tử xấu vì lợi ích cá nhân hoặc bất mãn đã lợi dụng đạo Tin lành để chia rẽ quần chúng với Đảng, Chính quyền hoặc cản trở việc thực hiện nghĩa vụ công dân của tín đồ. Trong những năm vừa qua, công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Lạng Sơn đã có nhiều tiến bộ và đạt được một số kết quả nhất định. Nhưng bên cạnh đó cũng còn một số tồn tại: Một bộ phận cán bộ đảng viên nhận thức về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với tôn giáo còn hạn chế; sự phối hợp giữa các cấp, các ngành còn thiếu tập trung và đồng bộ; việc giải quyết các vấn đề liên quan đến tôn giáo còn kéo dài, gây tâm lý phản cảm cho quần chúng tín đồ và các chức sắc tôn giáo, tạo ra những sơ hở không đáng có cho một số phần tử xấu lợi dụng. Đặc biệt việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với tôn giáo của chính quyền ở nhiều lúc, nhiều nơi, nhất là ở cơ sở còn quá cứng nhắc; các đoàn thể nhân dân vùng đồng bào có đạo nói chung hoạt động còn kém hiệu quả; công tác xây dựng lực lượng cốt cán, đào tạo bồi dưỡng cán bộ làm công tác tôn giáo còn chưa được quan tâm đúng mức; việc thực hiện Chỉ thị số 01 của Thủ Tướng Chính phủ “Về một số công tác đối với đạo Tin lành” còn gặp nhiều khó khăn, nhận thức đối với tôn giáo và hoạt động tôn giáo của đảng ủy, chính quyền ở một số nơi còn chưa thống nhất. Trước tình hình đó, Tỉnh ủy đã quan tâm và tăng cường chỉ đạo công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo. Một mặt nhằm nâng cao nhận thức về tín ngưỡng, tôn giáo, vai trò của nó trong đời sống tinh thần của nhân dân và trong sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội của tỉnh nhà; mặt khác để thực hiện đầy đủ, nghiêm túc đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác tôn giáo và hoạt động tôn giáo, chống mọi âm mưu lợi dụng tôn giáo để phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân, cản trở sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Từ tình hình đặt ra nói trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Quản lý Nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Lạng Sơn hiện nay” để làm luận văn thạc sĩ khoa học tôn giáo. Hy vọng rằng với đề tài này, tôi sẽ góp sức vào một vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn cấp bách không chỉ trước mắt mà còn lâu dài đối với công tác quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. 2. Tình hình nghiên cứu Quản lý Nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về tôn giáo nói riêng là một trong những yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Vì vậy, từ khi có Nghị quyết 24- NQ/TW (năm 1990) của Bộ Chính Trị, việc đi vào nghiên cứu tôn giáo, đề ra chủ trương chính sách đối với tôn giáo ngày càng được quan tâm ở nhiều góc độ khác nhau trên bình diện cả nước, thể hiện ở nhiều công trình như: GS Đặng Nghiêm Vạn (2003), Lý luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt Nam, Nhà xuất bản CTQG; PGS. TS Nguyễn Đức Lữ - Chủ nhiệm đề tài (2002) Đổi mới chính sách tôn giáo và Nhà nước quản lý tôn giáo hiện nay- những bài học kinh nghiệm và kiến nghị cụ thể, Đề tài nhánh thuộc đề tài cấp Nhà nước; TS Ngô Hữu Thảo-Chủ nhiệm đề tài (1998), Mối quan hệ giữa chính trị và tôn giáo trong thời kỳ mở rộng giao lưu quốc tế và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, Đề tài khoa học cấp bộ; TS Hoàng Minh Đô - Chủ nhiệm đề tài (2002), Đạo Tin lành ở Việt Nam- Thực trạng, xu hướng phát triển và những vấn đề đặt ra hiện nay trong công tác lãnh đạo, quản lý, Thuộc đề tài độc lập cấp Nhà nước; Trung tâm Tư liệu- Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (1995), Tôn giáo, Tín ngưỡng hiện nay- Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp thiết,… Về vấn đề liên quan trực tiếp đến công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo có các đề tài sau: TS Nguyễn Hữu Khiển (2001), Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trong điều kiện xây dựng Nhà nước dân chủ, pháp quyền Việt Nam hiện nay, Nxb Công an nhân dân; TS Trần Minh Thư (2005), “Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là một yêu cầu khách quan”, Tạp chí Công tác tôn giáo số 3; Lê Minh Quang (2000), Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Lâm Đồng hiện nay- Vấn đề và giải pháp, Luận văn thạc sĩ khoa học tôn giáo; Võ Thị Mộng Thu (2001), Vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động Công giáo ở Đồng Nai hiện nay, Luận văn Thạc sĩ khoa học tôn giáo và một số luận văn của các lớp Cử nhân chính trị, Cao cấp chính trị tại Học viện CTQG Hồ Chí Minh viết về công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở một số tỉnh, thành trong cả nước,… Những công trình trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của vấn đề tôn giáo và quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo. Các công trình đó sẽ được tác giả kế thừa sử dụng làm nguồn tài liệu tham khảo trực tiếp cho đề tài luận văn này. ở tỉnh Lạng Sơn, vì nhiều lý do khác nhau nên hiện nay vấn đề nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu cụ thể, vấn đề mới chỉ được đề cập trong các báo cáo tổng kết của Ban Dân vận Tỉnh ủy, Phòng tôn giáo Văn phòng Uỷ ban nhân dân tỉnh… qua các năm. Vì vậy hướng đề tài mà tôi lựa chọn, hy vọng sẽ làm sáng tỏ hơn vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở Lạng Sơn hiện nay, đồng thời kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh. 3. Mục tiêu, nhiệm vụ của luận văn * Mục tiêu: Đánh giá thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh Lạng Sơn, từ đó đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh. * Nhiệm vụ: Để thực hiện mục tiêu trên, luận văn có các nhiệm vụ cụ thể như sau: Một là, làm rõ một số vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo. Hai là, làm rõ tình hình thực trạng công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh Lạng Sơn. Ba là, đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn trong tình hình mới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu * Đối tượng nghiên cứu: Là công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. * Phạm vi nghiên cứu: Về không gian: Đề tài chỉ giới hạn nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn. Về thời gian: Đề tài tiến hành nghiên cứu chủ yếu trong giai đoạn từ sau khi có Nghị quyết 24-NQ/TW của Bộ Chính Trị về đổi mới công tác tôn giáo trong tình hình mới (từ năm 1990 đến nay). 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu * Cơ sở lý luận và thực tiễn: Luận văn được thực hiện dựa trên quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tôn giáo và quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo. Luận văn cũng xuất phát từ thực tiễn quản lý nhà nước đối với tôn giáo ở tỉnh Lạng Sơn thời gian qua. * Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện luận văn này, tác giả sử dụng các phương pháp cụ thể như: Phương pháp lịch sử và lôgíc, phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích, thống kê và tổng hợp, đặc biệt chú trọng đến phương pháp tổng kết thực tiễn. 6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn - Trên cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, bước đầu luận văn làm sáng tỏ một số vấn đề cấp bách đang đặt ra trong quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh Lạng Sơn. - Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị cơ bản có tính khả thi góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh Lạng Sơn hiện nay. 7. ý nghĩa thực tiễn của luận văn - Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo để xây dựng chủ trương, biện pháp và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở tỉnh Lạng Sơn. - Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy và học tập tại trường Chính trị tỉnh. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được chia ra làm 3 chương, 6 tiết. Chương 1 Một số vấn đề Lý luận về quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo và tình hình tôn giáo ở lạng sơn 1.1. Một số vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo ở nước ta Quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo là một nhiệm vụ quan trọng của công tác tôn giáo. Các quan điểm, đường lối của Đảng về công tác tôn giáo qua các thời kỳ lịch sử đều nhấn mạnh đến tầm quan trọng của lĩnh vực này. Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác tôn giáo tiếp tục khẳng định cần “Tăng cường quản lý nhà nước về tôn giáo” [ 31, tr.53]. Để nhận thức tốt công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, về mặt lý luận cần phải nhận thức rõ một số vấn đề cơ bản sau đây. 1.1.1. Một số khái niệm 1.1.1.1. Khái niệm quản lý Hoạt động quản lý đã xuất hiện từ lâu, nhưng thuật ngữ “quản lý” cho đến nay vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau. Tùy từng mục tiêu và dưới các góc độ nghiên cứu, người ta có thể đưa ra những quan niệm khác nhau về quản lý. Có quan điểm coi quản lý là quá trình bao gồm các khâu lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra những nỗ lực của các thành viên trong tổ chức và sử dụng tất cả các nguồn lực khác nhau của tổ chức để đạt được mục tiêu đã định trước. Cũng có quan điểm cho rằng quản lý là sự tác động định hướng bất kỳ lên một hệ thống nào đó nhằm trật tự hóa nó và hướng nó phát triển phù hợp với những qui luật nhất định. Mặc dù có nhiều quan niệm, song thuật ngữ quản lý được thống nhất ở hai nội dung chủ yếu sau: Thứ nhất, quản lý là sự tác động mang tính tổ chức, tính mục đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý. Thứ hai, mục tiêu của quản lý là nhằm làm cho đối tượng quản lý hoạt động phù hợp với ý chí của chủ thể quản lý đã định ra từ trước. Nói đến quản lý trước hết là sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý. Sự tác động này không mang tính đơn lẻ, tự phát mà nó mang tính tổ chức, tính mục đích rõ ràng. Mục đích mà chủ thể quản lý đặt ra là hướng đối tượng quản lý hoạt động phù hợp với ý chí của mình. Từ hai nội dung nêu trên có thể đưa ra khái niệm về quản lý: “Quản lý là sự tác động có tổ chức, có mục đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt được mục tiêu đã được đặt ra từ trước” [8, tr.21]. 1.1.1.2. Khái niệm quản lý nhà nước Hoạt động quản lý xuất hiện từ lâu và bao gồm nhiều loại, trong đó quản lý xã hội là một dạng quản lý đặc biệt. Quản lý xã hội được đặt ra từ khi lao động của con người bắt đầu được xã hội hóa. Quản lý xã hội là sự tác động có ý thức để chỉ huy, điều khiển, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người phù hợp với ý chí của chủ thể quản lý và qui luật khách quan. Quản lý xã hội do nhiều chủ thể tiến hành. Khi Nhà nước xuất hiện, những công việc quản lý xã hội quan trọng nhất do Nhà nước đảm nhiệm. Quản lý nhà nước hiện nay được hiểu theo hai nghĩa: Nghĩa rộng: Quản lý nhà nước là dạng quản lý xã hội của Nhà nước, sử dụng quyền lực Nhà nước để điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người do tất cả các cơ quan Nhà nước (Lập pháp, Hành pháp, Tư pháp) tiến hành để thực hiện các chức năng của Nhà nước đối với xã hội. Nghĩa hẹp: Quản lý nhà nước là dạng quản lý xã hội mang quyền lực Nhà nước với chức năng chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật của các cơ quan trong hệ thống hành pháp (Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp). 1.1.1.3. Tôn giáo Tôn giáo là một hiện tượng lịch sử, xã hội xuất hiện từ lâu trong lịch sử, có tài liệu thống kê đến nay có hàng trăm khái niệm về tôn giáo, tùy cách tiếp cận và mục tiêu nghiên cứu khác nhau người ta đưa ra những khái niệm khác nhau về tôn giáo. - Quan điểm trước Mác về tôn giáo: Trước khi xuất hiện đạo Kitô, bên cạnh những hình thức tôn giáo sơ khai, việc các nhà nước độc lập sùng bái các vị thần rất phổ biến, với những nghi thức và niềm tin có quan hệ đến cái thiêng liêng. Con người vừa kính trọng, vừa sợ hãi những lực lượng siêu nhiên, nên họ đã thực hiện những nghi lễ hiến tế nhằm tỏ lòng tôn kính và cầu xin sự che trở, giúp đỡ của đấng siêu nhiên tối cao, để làm “tăng thêm sức mạnh của bản thân và của cộng đồng, vượt qua một cách thắng lợi những thách thức, khó khăn, hy vọng các thần linh giúp đỡ để tránh những tai họa đang hoặc sẽ dẫn đến” [ 67, tr.22]. Khi tư tưởng nhà thờ thống trị những “đêm trường trung cổ” ở Châu âu đã bắt con người tìm kiếm chỗ dựa tinh thần ở niềm tin tôn giáo, đó là sự phụ thuộc vào các bậc tiên tri và các đấng siêu phàm. Trong tôn giáo con người thoát khỏi thời gian, vì tôn giáo là lĩnh vực tri thức giải đáp mọi điều bí ẩn của thế giới quan, gạt bỏ mọi mâu thuẫn thầm kín trong tư tưởng con người, do vậy tôn giáo là lĩnh vực của chân lý vĩnh cửu. Nhà triết học cổ điển Đức Wil Helm Frie Hegel cho rằng tôn giáo là tri thức thần thánh, là tri thức của con người về thần thánh, vì vậy ông đã kết luận: Trong tôn giáo con người tự do trước thần thánh, vì ý chí của con người hòa đồng với ý chí của Thượng đế. L. Feuer bach, một đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa duy vật trước Mác đã đưa ra luận điểm: Con người sáng tạo ra tôn giáo, chứ không phải tôn giáo sáng tạo ra con người. Trong tác phẩm “ Bản chất của Ki tô giáo” ông đã cho rằng cái mà ý thức tôn giáo quan niệm là Thượng đế không phải là cái gì khác hơn sự “phóng rọi” của chính bản thân con người, con người suy nghĩ ra sao, tâm tư thế nào, thì Thượng đế của họ đúng như vậy, con người có bao nhiêu giá trị thì Thượng đế cũng chỉ có bấy nhiêu. Từ Thượng đế có thể suy ra con người, và từ con người có thể suy ra Thượng đế, Thượng đế là cái tự thân đã được biểu hiện ở con người, tôn giáo là sự vén mở trang trọng những kho tàng ẩn giấu của con người, là sự thừa nhận những ý nghĩ thầm kín nhất, là sự thú nhận công khai những bí mật tình yêu của con người. Quan điểm của L.Feuer bach là một bước tiến dài trong quá trình nhận thức tôn giáo mà C.Mác đã kế thừa, song C.Mác đã chỉ ra rằng khi nhìn nhận về con người L.Feuer bach có những hạn chế vì con người mà L.Feuer bach chỉ ra là con người trừu tượng, chung chung chứ không đề cập đến “con người lịch sử thực sự”, chưa thấy được “tinh thần tôn giáo” bản thân nó là sản phẩm xã hội và con người trừu tượng mà ông phân tích, trên thực tế, bao giờ cũng thuộc về một hình thái nhất định, một cộng đồng người nhất định. - Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tôn giáo: C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin là những vị lãnh tụ lỗi lạc của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng, các ông đã để lại những tư tưởng lý luận quý báu về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, trong đó có những nhận định khoa học và cách mạng về vấn đề tôn giáo. Khi nghiên cứu về nguồn gốc của tôn giáo, C.Mác đã chỉ ra rằng: Tôn giáo là sự tự ý thức và sự tự tri giác của con người chưa tìm thấy bản thân mình hoặc lại đánh mất bản thân mình một lần nữa. Con người chính là thế giới những con người, là Nhà nước, là xã hội. Nhà nước ấy, xã hội ấy sản sinh ra tôn giáo, không phải tôn giáo sáng tạo ra con người mà chính con người sáng tạo ra tôn giáo. Tôn giáo biến bản chất con người thành tính hiện thực, ảo tưởng, vì bản chất con người không có tính hiện thực thật sự. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những điều kiện xã hội không có tinh thần; tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân [38, tr.58]. Còn trong tác phẩm “Chống Đuyrinh”, Ph. Ăngghen đã đưa ra khái niệm về tôn giáo “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo vào trong đầu óc con người, của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ, chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang những hình thức siêu trần thế” [ 38, tr.13]. Với những nhận định như vậy, C.Mác và Ph.Ăngghen đã tìm được câu trả lời cho các nhà tư tưởng đương thời là cái quyết định của sự phát triển xã hội loài người nói chung, tôn giáo nói riêng chủ yếu là yếu tố kinh tế hay tinh thần. C.Mác và Ph.Ăngghen đã cho rằng, cái quyết định của sự phát triển xã hội là yếu tố kinh tế, nhưng hai ông cho đó không phải là yếu tố duy nhất. Chính trong bộ “Tư bản”, khi giải thích tại sao
Tài liệu liên quan