Đề tài Tạm giam trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này

Biện pháp ngăn chặn( BPNC) là một chế định pháp lí quan trọng trong bộ luật tố tụng hình sự ( BLTTHS) Việt Nam. Việc áp dụng các BPNC có ảnh hưởng lớn đến việc giải quyết có hiệu quả nhiệm vụ của TTHS cũng như kết quả của đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung. Trong hệ thống các BPNC, tạm giam là biện pháp quan trọng và nghiêm khắc nhất. BLTTHS đã có những quy định cụ thể về các yếu tố của biện pháp tạm giam

doc16 trang | Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 3233 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tạm giam trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU. Biện pháp ngăn chặn( BPNC) là một chế định pháp lí quan trọng trong bộ luật tố tụng hình sự ( BLTTHS) Việt Nam. Việc áp dụng các BPNC có ảnh hưởng lớn đến việc giải quyết có hiệu quả nhiệm vụ của TTHS cũng như kết quả của đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung. Trong hệ thống các BPNC, tạm giam là biện pháp quan trọng và nghiêm khắc nhất. BLTTHS đã có những quy định cụ thể về các yếu tố của biện pháp tạm giam. Vậy trong thực tế, việc áp dụng biện pháp tạm giam đã đạt những kết quả nào, còn những gì hạn chế, bất cập và giải pháp nào để thực thi tốt, nâng cao hiệu quả của biện pháp tạm giam? Chúng ta cùng tìm hiểu để làm rõ Tạm giam trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp này. NỘI DUNG. Khái quát chung về biện pháp tạm giam. Khái niệm BPNC tạm giam. BPNC là biện pháp cưỡng chế TTHS do cơ quan hoặc người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật áp dụng đối với bị can, bị cáo hoặc đối với người chưa bị khởi tố; khi có căn cứ do BLTTHS quy định, nhằm kịp thời ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn việc bị can, bị cáo gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hoặc ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội Theo quy định của BLTTHS, hệ thống các BPNC trong TTHS bao gồm 6 biện pháp: bắt, tạm giam, tạm giữ, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Trong số các BPNC nêu trên, BPNC tạm giam là BPNC mang tính nghiêm khắc nhất. Các biện pháp khác như cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để đảm bảo chỉ ảnh hưởng đến quyền tự do đi lại hoặc quyền và lợi ích về tài sản mà không ảnh hưởng đến các quyền tự do khác của công dân như quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do giao tiếp, quyền hội họp. Còn các biện pháp bắt, tạm giữ cũng là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc, cũng hạn chế quyền tự do của công dân, nhưng thời gian hạn chế quyền tự do trong bắt và tạm giữ ngắn hơn nhiều so với tạm giam. Trong vòng 24 giờ sau khi bắt người hoặc nhận người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, Cơ quan điều tra phải lấy lời khai, ra quyết định tạm giữ hoặc trả lại tự do cho người bị bắt ( khoản 1 Điều 83). Thời hạn tạm giữ là 3 ngày và tối đa là 9 ngày đối với trường hợp có gia hạn tạm giữ ( Điều 78). Trong khi đó thời hạn tạm giam để điều tra tối đa có thể lên đến 20 tháng (đối với tội đặc biệt nghiêm trọng theo quy định tại khoản 2 Điều 120). Có thể hiểu tạm giam là BPNC do những người có thẩm quyền của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát ( VKS), Toà án (TA) áp dụng đối với bị can, bị cáo, người bị kết án theo đúng trình tự, thủ tục, căn cứ vào trong các trường hợp do luật định, nhằm ngăn chặn việc họ bỏ trốn hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Theo nhiều quan điểm về khái niệm tạm giam, tạm giam chỉ áp dung đối với can, bị cáo, nhưng trong thực tiễn cá chủ thể của cơ quan có thẩm quyền vẫn áp dụng biện pháp tạm giam đối với người bị kết án. Theo hướng dẫn của các cơ quan chức năng thì người bị kết án cũng có thể bị áp dụng biện pháp tạm giam trong trường hợp: “ Người bị kết án trong thời gian đang chờ chấp hành hình phạt tù hoặc đang chấp hành hình phạt tù thì bỏ trốn, cơ quan có thẩm quyền đã ra lệnh truy nã sau đó bị bắt và bị áp dụng biện pháp tạm giam”. Đồng thời, tại Điều 250 BLTTHS ghi nhận “ Trong trường hợp huỷ bản án sơ thẩm đề điều trả lại hoặc xét xử lại mà thời hạn tạm giam bị cáo đã hết và xét thấy việc tiếp tục tạm giam bị cáo là cần thiết thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định tiếp tục tạm giam bị cáo”. Phải hiểu rằng trong trường hợp này, tạm giam người bị kết án chứ không phải tạm giam bị cáo bởi lúc này bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật và họ tham gia tố tụng với tư cách người bị kết án chứ không phải là bị cáo nữa, do vậy trong khái niệm BPNC tạm giam cũng cần ghi nhận đối tượng trên. Vai trò, ý nghĩa của việc quy định BPNC tạm giam. Với ý nghĩa là một BPNC, tạm giam có ý nghĩa rất lớn trong việc đấu tranh, phòng và chống các loại tội phạm cũng như việc bảo đảm quyền tự do dân chủ của công dân. Cụ thể: Tạm giam góp phần nâng cao hiệu lực quản lí nhà nước, củng cố, tăng cường pháp chế XHCN, các quyền cũng như lợi ích hợp pháp của công dân được tôn trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đấu tranh khám phá tội phạm, đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và hàm oan người vô tội. Tạm giam là phương tiện hữu hiệu để bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đạt hiệu quả cao nhất.Bởi đây là biện pháp đảm bảo sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của CQTHTT, đảm bảo sự chính xác, khách quan của hoạt động tố tụng, ngăn ngừa các đối tượng tiếp tục phạm tội. Tạm giam tạo cơ sở pháp lí vững chắc nhằm đảm bảo sự tôn trọng các quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận. Tạm giam thể hiện tính ưu việt của Nhà nước. Đó là biện pháp bảo đảm cho mọi công dân được sống trong một xã hội mà quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi người được tôn trọng và bảo vệ, tránh được sự tấn công, xâm hại từ phía các đối tượng nhất định. II- Nội dung BPNC tạm giam trong TTHS. Căn cứ áp dụng BPNC tạm giam. Căn cứ áp dụng BPNC tạm giam được hiểu là những căn cứ luật định theo đó chủ thể có thẩm quyền áp dụng BPNC tạm giam. BLTTHS 2003 không trực tiếp quy định các căn cứ áp dụng BPNC tạm giam mà chỉ quy định các căn cứ áp dụng BPNC nói chung. Điều 79 BLTTHS quy định 4 căn cứ áp dụng BPNC gồm: Để kịp thời ngăn chặn tội phạm; Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử; Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội sẽ tiếp tục phạm tội; Để bảo đảm thi hành án. Trong số các căn cứ áp dụng BPNC trên, căn cứ “ để kịp thời ngăn chặn tội phạm” chỉ áp dụng cho các trường hợp bắt người phạm tội quả tang theo điểm a khoản 1 Điều 81 BLTTHS nhằm kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội, không để xảy ra hoặc hoàn thành hay không để người phạm tội kết thúc hành vi phạm tội của mình, gây ra hậu quả nghiêm trọng cho xã hội. Căn cứ này không thể là căn cứ áp dụng BPNC tạm giam, vì đối tượng áp dụng BPNC tạm giam là bị can, bị cáo, hành vi phạm tội của họ đã dược thực hiện trong quá khứ. Như vậy, căn cứ áp dụng BPNC tạm giam sẽ có: Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Hành vi này được thể hiện qua việc sau khi thực hiện hành vi phạm tội, người thực hiện tội phạm có thể bỏ trốn, tiêu huỷ, làm giả, thay đổi chứng cứ, xoá các dấu vết của vụ án, mua chuộc, khống chế người làm chứng, gây khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc xác định và làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ tiếp tục phạm tội. Căn cứ này có thể được thực hiện qua các yếu tố phản ánh về nhân thân của các bị can, bị cáo. Họ có thể là những phần tử xấu tái phạm,tái phạm nguy hiểm, tội phạm có tính chất chuyên nghiệp hoặc đe doạ nguwoif làm chứng, người bị hại và sự đe doạ đó có khả năng trỏ thành hiện thực. Để bảo đảm thi hành án: Khi cấn bảo đảm thi hành án, tuỳ theo tính chất của từng vụ vụ án, tuỳ theo nhân thân người bị kết án, Toà án có thể áp dụng BPNC tạm giam đối với bị cáo để bảo đảm thi hành án, còn nếu không có đủ căn cứ cho rằng bị cáo sẽ bỏ trốn, không gây cản trở, khó khăn cho việc thi hành án thì không cần áp dụng biện pháp tạm giam. Đối tượng bị áp dụng BPNC tạm giam. Theo khoản 1 Điều 88 BLTTHS, đối tương có thể bị áp dụng biện pháp tạm giam chỉ có thể là bị can, bị cáo. Bị can là những người đã bị khởi tố về hình sự ( khoản 1 Điều 49), bị cáo là những người đã bị Toà quyết định đưa ra xét xử ( khoản 1 Điều 50). Tuy nhiên, không phải tất cả bị can, bị cáo đều bị áp dụng BPNC tạm giam mà theo khoản 1 Điều 88, chỉ áp dụng biện pháp này với họ trong 2 trường hợp sau: “Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng” : Tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình. Tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của Khung hình phạt với tội ấy là đến 15 năm tù ( khoản 3 Điều 8 BLHS 1999). Nếu bị can, bị cáo thuộc những trường hợp này, những người có thẩm quyền ra lệnh tạm giam có thể ra lệnh tạm giam ngay mà không cần thêm căn cứ nào khác. “ Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà BLLH quy định hình phạt tù trên 2 năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc gây cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội”. Tội phạm nghiêm trọng là tội gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến 7 năm tù. Tội phạm ít nghiêm trọng là tội gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt với tội ấy là đến 3 năm tù ( khoản 3 Điều 8 BLHS). Theo quy định của BLTTHS, tạm giam chỉ áp dụng đối với những bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên 2 năm. Đối với bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù từ 2 năm trở xuống hoặc hình phạt không phải là hình phạt tù thì không bị áp dụng biện pháp tạm giam. Trong trường hợp bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình phạt tù trên 2 năm, để tạm giam, họ cần có thêm điều kiện thứ hai là có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Để xác định được điều kiện trên, phải căn cứ vào nhân thân bị can, bị cáo, thái độ của họ sau khi phạm tội hoặc những vi phạm nghĩa vụ của bị can, bị cáo khi được áp dụng BPNC khác ít nghiêm khắc. Thể hiện tinh thần nhân đạo xã hội chủ nghĩa, khoản 2 Điều 88 BLTTHS quy định những trường hợp không áp dụng BPNC tạm giam gồm: bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi và có nới cư trú rõ ràng; bị can, bị cáo là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú rõ ràng. Tuy vậy, những đối tượng này vẫn có thể bị áp dụng BPNC tạm giam trong những trường hợp: bị can, bị cáo trốn và bị bắt theo lênh truy nã; bị can, bị cáo được áp dụng BPNC khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử; bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia. Nhằm mục đích giáo dục, cảm hoá bị can, bị cáo là người chưa thành niên trở về với cuộc sống, đồng thời thể hiện sự quan tâm đặc biệt của nhà nước với nhóm đối tượng này, khoản 3 Điều 303 BLTTHS quy định người chưa thành niên chỉ có thể bị áp dụng BPNC tạm giam trong những trường hợp: Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi: nếu có đủ căn cứ tạm giam, chỉ áp dụng BPNC này khi họ phạm tội nghiêm trọng do cố ý hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi: nếu có đủ căn cứ tạm giam, chỉ áp dụng BPNC này khi họ phạm tội nghiêm trọng do cố ý, tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Thẩm quyền áp dụng BPNC tạm giam. Thẩm quyến áp dụng BPNC tạm giam là khả năng của một chủ thể được nhà nước giao cho quyền được quyết định việc tạm giam đối với đối tượng nhất định. Khoản 3 Điều 88 BLTTHS quy định “ Những người có thẩm quyền ra lệnh bắt được quy định tại Điều 80 của Bộ luật này có quyền ra lệnh tạm giam. Lệnh tạm giam của những người quy định tại điểm d khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.” Theo khoản 1 Điều 80 BLTTHS, những người có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam gồm: Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát ( VKS) nhân dân và VKS quân sự các cấp; Chánh án, Phó chánh án Toà án nhân dân ( TAND) và Toà án quân sự các cấp; Thẩm phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó chánh toà phúc thẩm TAND tối cao; Hội đồng xét xử; Thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp . Trong trường hợp này, lệnh bắt phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Như vậy, thẩm quyền áp dụng BPNC tạm giam được quy định cho nhiều cơ quan với nhiều chủ thể khác nhau ở từng giai đoạn tố tụng khác nhau. VKS với chức năng là cơ quan kiểm sát các hoạt động tư pháp sẽ kiểm tra, giám sát hoạt động này, đặc biệt đối với lệnh tạm gia của thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Thủ tục áp dụng BPNC tạm giam. Thủ tục tạm giam là trình tự luật định mà chủ thể có thẩm quyền khi áp dụng BPNC tạm giam phải tuân thủ một cách triệt để. Với tính chất là BPNC nghiêm khắc nhất, hạn chế quyền tự do của người bị pa dụng trong một thời gian nhất định nên việc áp dụng tạm giam cần phải tuân theo một thủ tục luật định chặt chẽ. Theo quy định của BLTTHS thì việc tạm giam bị can, bị cáo phải có lệnh tạm giam. Lệnh này phải do những người có thẩm quyến kí. Lệnh tạm giam ghi rõ ngày, tháng, năm, họ tên, chức vụ của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của người bị tạm giam; lý do tạm giam, thời hạn tạm giam; và giao cho người bị tạm giam một bản. Theo quy định tại khoản 3 Điều 88, lênh tạm giam của cơ quan điều tra phải được VKS cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Tạm giam không chỉ hạn chế quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do và danh dự của công dân mà còn ảnh hưởng đến cả nhân thân của họ. Chính vì vậy, sau khi ra lệnh tạm giam, cơ quan ra lệnh tạm giam cần phải thông báo ngay cho gia đình người bị tạm giam và chính quyền xã phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm giam cư trú, làm việc biết. Bên cạnh đó, khi tiến hành tạm giam một người cần phải đảm bảo các thủ tục liên quan khác như: thực hiện việc chăm nom người thân thích, bảo quản tài sản của người bị tạm giam ( Điều 90 BLTTHS). Thời hạn áp dụng BPNC tạm giam. Thời hạn tạm giam trong tố tụng được chia thành: thời hạn tạm giam để điều tra, thời hạn tạm giam để truy tố, thời hạn tạm giam để xét xử sơ thẩm, thời hạn tạm giam để xét xử phúc thẩm và thời hạn tạm giam để thi hành án. Thời hạn tạm giam để điều tra. Điều 120 quy định thời hạn tạm giam để điều tra không quá 2 tháng đối với tội ít nghiêm trọng, không quá 3 tháng đối với tội nghiêm trọng, không quá 4 tháng đối với tội rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng. Trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi, huỷ bỏ BPNC tạm giam thì chậm nhất là 10 ngày trước khi hết hạn tạm giam, cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị VKS gia hạn tạm giam. Việc gia hạn tạm giam được quy định: đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam 1 lần không quá 1 tháng; đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam 2 lần, lần thứ nhất không quá 2 tháng và lần thứ hai không quá 1 tháng; đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam 2 lần, lần thứ nhất không quá 3 tháng, lần thứ hai không quá 2 tháng; đối với tội đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam 3 lần, mỗi lần không quá 4 tháng. Như vậy, đối với tội phạm ít nghiêm trọng, thời hạn tạm giam để điều tra tối đa có thể là 3 tháng; đối với tội phạm nghiêm trọng, thời hạn tạm giam để điều tra có thể là 6 tháng; đối với tội phạm rất nghiêm trọng tối đa có thể là 9 tháng; đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, tối đa có thể lên đến 16 tháng. Riêng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, trong trường hợp thời hạn gia hạn lấn 2 quy định tại điểmb khoản 3 Điều 120 đã hết hạn và vụ án có nhiều tính tiết phức tạp mà không có căn cứ thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam thì VTVKS nhân dân tối cao có thể gia hạn tạm giam lần 3. Trường hợp cần thiết đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì VTVKS nhân dân tối cao có quyền gia hạn thêm một lần nữa không quá 4 tháng ( khoản 5 Điều 120). Thời hạn tạm giam để truy tố. Theo khoản 1 điều 166, trong thời hạn 20 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng; 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ ngáy nhận được hồ sơ vụ án và kết luận điều tra, VKS phải ra một trong những quyết định sau: Truy tố bị can trước Toà án bằng bản cáo trạng; trả hồ sơ để điều tra bổ sung; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. Trong trường hợp cần thiết, VTVKS có thể gia hạn, nhưng không quá 10 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và nghiêm trọng; không quá 15 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng; không quá 30 ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Như vậy, thời hạn tạm giam để truy tố đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng tối đa có thể lên đến 30 ngày; đối với tội phạm rất nghiêm trọng tối đa có thể lên đến 45 ngày; đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng tối đa có thể lên đến 60 ngày. Thời hạn tạm giam để xét xử sơ thẩm. Điều 177 quy định “ Thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử theo quy định tại Điều 176 Bộ luật này”. Theo quy định tại Điều 176, thời hạn chuẩn bị xét xử là 30 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng; 45 ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, 2 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và 3 tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án. Đối với những vụ án phức tạp, Chánh án Toà án có thể quyết định gia hạn nhưng không quá 15 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, không quá 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì thời hạn tạm giam để mở phiên toà là từ 15 đến 30 ngày. Ngoài ra, đối với bị cáo đang bị tạm giam mà đến ngày mở phiên toà, thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét thấy cần thiết thì Toà án có thể ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên toà. Như vậy, thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử tối đa là 75 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng; 90 ngày đối với tội phạm nghiêm trọng; 120 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng; 150 ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Thời hạn tạm giam để xét xử phúc thẩm. Điều 243 quy định “ Sau khi nhận hồ sơ vụ án, Toà án cấp phúc thẩm có quyền quyết định việc áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn. Việc áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp tạm giam do Chánh án, Phó chánh án TAND tỉnh, TA quân sự cấp quân khu, Chánh toá, Phó Chánh toà phúc thẩm TANDTC quyết định. Thời hạn tạm giam không được quá thời hạn xét xử phúc thẩm quy định tại Điều 242 Bộ luật này”. Theo quy định tại Điều 242, TAND tỉnh, TA quân sự cấp quân khu phải mở phiên toà phúc thẩm trong thời hạn 16 ngày; Toà phúc thẩm TAND tối cao, TA quân sự TW phải mở phiên toà phúc thẩm trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án. Thời hạn tạm giam để đảm bảo thi hành án. Ngay sau khi xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm, HĐXX có thể quyết định việc tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án. Đối với giai đoạn xét xử sơ thẩm, Điều 228 quy định: đối với bị cáo đang bị tạm giam mà bị phạt tù nhưng đến ngày kết thúc phiên toà, thời hạn tạm giam đã hết thì HĐXX ra quyết định tạm giam bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án. Trong trường hợp bị cáo không bị tạm giam thì HĐXX có thể ra quyết định bắt tạm giam ngay bị cáo nếu có căn cứ cho thấy bị cáo có thể trốn hoặc tiếp tục phạm tội. Thời hạn tạm giam bị cáo là 45 ngày, kể từ ngay tuyên án. Tại phiên toà phúc thẩm, theo quy định tại Điều 243, nếu bị cáo đang bị tạm giam, bị xử phạt tù mà đến ngày kết thúc phiên toà thời hạn tạm giam đã hết thì HĐXX ra quyết định tạm giam bị cáo để đảm bảo việc thi hành án. Thời hạn tạm giam là 45 ngày kể từ ngày tuyên án. 6. Một số quy định khác liên quan đến việc tạm giam. Thứ nhất, về chế độ tạm giam: Trong TTHS, tạm giam là BPNC được áp dụng để bảo đảm cho hoạt động của CQTHTT được diễn ra bình thường và thuận lợi, đồng thời không để cho người phạm tội tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Điều 72 Hiến pháp năm 1992 và Điều 9 BLTTHS đã chỉ rõ: “ không ai có thể bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật”. Theo đó, chừng nào chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật thì người bị tạm giam vẫn được coi là người chưa có tội. Do vậy, trong thời gian bị tạm giam, họ không bị đối xử như một người