Đề tài Thương nghiệp phù nam

Theo Lương thư ghi chép: “Nước Phù Nam ở phía Nam quận Nhật Nam, trong vịnh lớn, phía Tây của biển, cách Nhật Nam có đến 7000 lý, cách lâm ấp ở phía Tây Nam đến hơn 3000 lý. Thành cách biển 500 lý (khoảng 250 km), có sông rộng 10 lý, từ Tây – Bắc chảy sang Đông nhập vào biển. Nước rộng hơn 3000 lý, đất trũng ẩm thấp, nhưng bằng phẳng rộng rãi”. Như vậy, vị trí đầu tiên của quốc gia cổ Phù Nam chỉ là hạ lưu và châu thổ đồng bằng sông Cửu Long ngày nay hay chính xác hơn là khu vực phía Tây sông Hậu ngày nay. Phía Đông, Nam giáp biển, phía Bắc giáp Chiêm Thành và phía Tây giáp Khơ Me. Đây là vị trí vô cùng thuận lợi, bởi nó nằm trên điểm trung chuyển đường biển thế giới qua Đông Nam Á, từ Trung Hoa qua Ấn Độ tới Địa Trung Hải và ngược lại. Hơn nữa, Phù Nam cổ có đường bờ biển khá rộng (cả phía Đông và Nam cùng giáp biển) và giáp với vịnh Thái Lan. Đây là vùng vịnh lớn, kín gió, lánh sâu vào đất liền, nhiều nơi tập kết, tạo địa hình vô cùng thuận lợi cho các tàu bè tránh bão, trú ẩn và neo đậu nghỉ chân khi qua vùng biển này. Đây là điều kiện vô cùng quan trọng, có ảnh hưởng lớn đối với sự phát triển thương nghiệp của quốc gia này. Nằm tại vị trí là hạ lưu sông Mê Kông, Phù Nam được bồi đắp bởi những đồng bằng rộng, lượng phù sa bồi đắp hàng năm vô cùng lớn và phong phú, cùng nguồn nước tưới thuận lợi và điều hòa. Đây là yếu tố thuận lợi lớn trong việc phát triển nông nghiệp ở quốc gia này, nông nghiệp có điều kiện phát triển đúng mực là điều kiện lý tưởng tạo ra những nguồn hàng phong phú – cung cấp sản phẩm nông nghiệp để đem ra trao đổi, buôn bán với bên ngoài, chủ yếu là các loại như: các cây gia vị, lương thực Trong khoảng thời gian khoảng những thế kỷ đầu Công nguyên, sự phát triển và lớn mạnh của nền thương mại thế giới làm nảy sinh và dẫn tới việc hình thành 2 tuyến đường thương mại lớn đó là: con đường tơ lụa – trên đất liền và con đường hương liệu – trên biển. Con đường mậu dịch trên biển nối liền Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương men theo ven biển từ Trung Quốc qua ven biển Cham pa, Phù Nam, bán đảo Mã Lai rồi chuyển bộ qua eo Kra gọi là Tokola và tiếp tục con đường ven biển qua các nước Nam Á đến Tây Á và từ đó nối với thế giới Địa Trung Hải. Chính do nhu cầu phát triển thương mại thế giới và sự gắn kết các tuyến đường biển ngắn lại với nhau mà Phù Nam được biết đến như một điểm nghỉ chân lý tưởng (nằm giữa cuộc hành trình, gần eo Kra, có thể thực hiện trao đổi hoặc nghỉ chân, sửa chữa tàu thuyền, mua nước ngọt và lương thực đi đường ). Có thể nói rằng, người ta biết đến quốc gia này cũng bởi lý do cần tìm con đường biển từ Trung Quốc để đến Ấn Độ Trong thời kỳ từ thế kỷ thứ III đến nửa đầu thế kỷ thứ VI, Phù Nam vươn lên giữ vai trò kiểm soát toàn bộ tuyến đường thương mại trên biển của thế giới qua khu vực Đông Nam Á. Mạng lưới kênh rạch chằng chịt bao gồm cả những sông thiên tạo bởi hệ thống sông Mê Kông và những kênh, rạch ngắn được người dân mở ra do nhu cầu đi lại giữa các vùng hoặc các tiểu quốc là điều kiện thuận lợi để phát triển thương mại thủy nội địa, đặc biệt là cơ hội cho thuyền buôn nước ngoài cập sâu được vào bên trong các cảng ven sông để thực hiện trao đổi. So với Champa và Đại Việt, Phù Nam nằm ở vị trí cách xa Trung Hoa nên ít chịu ảnh hưởng từ những cuộc chiến tranh xâm lược, bành trướng lãnh thổ của người Trung Hoa trong thời gian này. Thay vì phải mải mê chiến đấu hay lo chống giặc ngoại xâm như hai quốc gia trên, Phù Nam có điều kiện tập trung củng cố sức mạnh bên trong, chủ động mở quan hệ thương mại và ngoại giao, phát triển và tạo tiềm lực cho đất nước, đặc biệt là kinh tế.

doc27 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1785 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thương nghiệp phù nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
THƯƠNG NGHIỆP PHÙ NAM 1. Những điều kiện thuận lợi để phát triển thương nghiệp 1.1.Vị trí địa lý - điều kiện tự nhiên Theo Lương thư ghi chép: “Nước Phù Nam ở phía Nam quận Nhật Nam, trong vịnh lớn, phía Tây của biển, cách Nhật Nam có đến 7000 lý, cách lâm ấp ở phía Tây Nam đến hơn 3000 lý. Thành cách biển 500 lý (khoảng 250 km), có sông rộng 10 lý, từ Tây – Bắc chảy sang Đông nhập vào biển. Nước rộng hơn 3000 lý, đất trũng ẩm thấp, nhưng bằng phẳng rộng rãi”. Như vậy, vị trí đầu tiên của quốc gia cổ Phù Nam chỉ là hạ lưu và châu thổ đồng bằng sông Cửu Long ngày nay hay chính xác hơn là khu vực phía Tây sông Hậu ngày nay. Phía Đông, Nam giáp biển, phía Bắc giáp Chiêm Thành và phía Tây giáp Khơ Me. Đây là vị trí vô cùng thuận lợi, bởi nó nằm trên điểm trung chuyển đường biển thế giới qua Đông Nam Á, từ Trung Hoa qua Ấn Độ tới Địa Trung Hải và ngược lại. Hơn nữa, Phù Nam cổ có đường bờ biển khá rộng (cả phía Đông và Nam cùng giáp biển) và giáp với vịnh Thái Lan. Đây là vùng vịnh lớn, kín gió, lánh sâu vào đất liền, nhiều nơi tập kết, tạo địa hình vô cùng thuận lợi cho các tàu bè tránh bão, trú ẩn và neo đậu nghỉ chân khi qua vùng biển này. Đây là điều kiện vô cùng quan trọng, có ảnh hưởng lớn đối với sự phát triển thương nghiệp của quốc gia này. Nằm tại vị trí là hạ lưu sông Mê Kông, Phù Nam được bồi đắp bởi những đồng bằng rộng, lượng phù sa bồi đắp hàng năm vô cùng lớn và phong phú, cùng nguồn nước tưới thuận lợi và điều hòa... Đây là yếu tố thuận lợi lớn trong việc phát triển nông nghiệp ở quốc gia này, nông nghiệp có điều kiện phát triển đúng mực là điều kiện lý tưởng tạo ra những nguồn hàng phong phú – cung cấp sản phẩm nông nghiệp để đem ra trao đổi, buôn bán với bên ngoài, chủ yếu là các loại như: các cây gia vị, lương thực… Trong khoảng thời gian khoảng những thế kỷ đầu Công nguyên, sự phát triển và lớn mạnh của nền thương mại thế giới làm nảy sinh và dẫn tới việc hình thành 2 tuyến đường thương mại lớn đó là: con đường tơ lụa – trên đất liền và con đường hương liệu – trên biển. Con đường mậu dịch trên biển nối liền Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương men theo ven biển từ Trung Quốc qua ven biển Cham pa, Phù Nam, bán đảo Mã Lai rồi chuyển bộ qua eo Kra gọi là Tokola và tiếp tục con đường ven biển qua các nước Nam Á đến Tây Á và từ đó nối với thế giới Địa Trung Hải. Chính do nhu cầu phát triển thương mại thế giới và sự gắn kết các tuyến đường biển ngắn lại với nhau mà Phù Nam được biết đến như một điểm nghỉ chân lý tưởng (nằm giữa cuộc hành trình, gần eo Kra, có thể thực hiện trao đổi hoặc nghỉ chân, sửa chữa tàu thuyền, mua nước ngọt và lương thực đi đường…). Có thể nói rằng, người ta biết đến quốc gia này cũng bởi lý do cần tìm con đường biển từ Trung Quốc để đến Ấn Độ… Trong thời kỳ từ thế kỷ thứ III đến nửa đầu thế kỷ thứ VI, Phù Nam vươn lên giữ vai trò kiểm soát toàn bộ tuyến đường thương mại trên biển của thế giới qua khu vực Đông Nam Á... Mạng lưới kênh rạch chằng chịt bao gồm cả những sông thiên tạo bởi hệ thống sông Mê Kông và những kênh, rạch ngắn được người dân mở ra do nhu cầu đi lại giữa các vùng hoặc các tiểu quốc là điều kiện thuận lợi để phát triển thương mại thủy nội địa, đặc biệt là cơ hội cho thuyền buôn nước ngoài cập sâu được vào bên trong các cảng ven sông để thực hiện trao đổi. So với Champa và Đại Việt, Phù Nam nằm ở vị trí cách xa Trung Hoa nên ít chịu ảnh hưởng từ những cuộc chiến tranh xâm lược, bành trướng lãnh thổ của người Trung Hoa trong thời gian này. Thay vì phải mải mê chiến đấu hay lo chống giặc ngoại xâm như hai quốc gia trên, Phù Nam có điều kiện tập trung củng cố sức mạnh bên trong, chủ động mở quan hệ thương mại và ngoại giao, phát triển và tạo tiềm lực cho đất nước, đặc biệt là kinh tế. 1.2. Những điều kiện khác Bên cạnh vị trí địa lý thuận lợi cho phát triển thương nghiệp, đặc biệt là thuận lợi phát triển thượng mại biển, Phù Nam cổ còn có những điều kiện thuận lợi khác như: Giai đoạn từ thế kỷ III đến nửa đầu thế kỷ VI, Phù Nam phát triển với vai trò như một đế quốc hùng cường, các nước phía Tây, phía Nam Phù Nam mà chủ yếu các nước nằm gọn trên bán đảo Mã Lai đều bị chinh phục. Phù Nam chiếm được con đường huyết mạch của mậu dịch Ấn Độ Dương với biển Đông, chốn gặp gỡ Đông – Tây, kiểm soát được tuyến mậu dịch hàng hải, được ưu tiên mua bán, vận chuyển hàng hóa… Nông nghiệp vốn là ngành kinh tế phát triển khá sớm và có vai trò trọng yếu với toàn bộ xã hội Phù Nam cổ. Không những hoàn thành nhiệm vụ là cung cấp đủ cái ăn cho toàn xã hội, nguồn sản phẩm nông nghiệp dư thừa còn được tận dụng để trở thành những mặt hàng trao đổi chính và chủ yếu của Phù Nam lúc bấy giờ, chủ yếu là nông sản hoặc đặc sản của các vùng miền. Thủ công nghiệp phát triển sớm, đặc biệt là sự phát triển của kỹ thuật làm gốm, đồ trang sức, thủy tinh, muối… vốn là những mặt hàng rất được ưa chuộng không chỉ với người phương Tây mà còn cả với thương nhân Châu Á. Theo những nhận xét từ những di chỉ khảo cổ học thì gốm Phù Nam khác hẳn với các vùng xung quanh, nó có những nét độc đáo, rất riêng biệt, dễ nhận biết là gốm Phù Nam. Mặt khác, các vùng xung quanh còn chưa có, “còn xa mới tới gần được trình độ sản xuất gốm như Phù Nam”… Không chỉ dừng lại ở đó, các đồ trang sức, nhất là trang sức bằng vàng, bạc được chế tác với kỹ thuật vô cùng tinh xảo, hoa văn đặc biệt vừa thể hiện trình độ chế tác, vừa thể hiện sự khéo léo trên đôi tay của những nghệ nhân. Đây cũng chính là mặt hàng rất được các thương nhân nước ngoài chú ý và quan tâm. Kỹ thuật đóng tàu đã được quan tâm phát triển cả về quy mô và chất lượng từ rất sớm, nó ra đời do yêu cầu từ hoạt động buôn bán, giao lưu giữa các tiểu quốc và việc mở rộng lãnh thổ của cư dân Phù Nam. Ban đầu chỉ đóng những loại thuyền nhỏ, càng về sau càng phát triển hơn với những loại thuyền lớn hơn, có khả năng đi những hải trình xa hơn và chuyên trở khổi lượng hàng hóa lớn hơn... Đây là điều kiện để người Phù Nam tự vươn mình ra biển, chủ động đến giao lưu với những thuyền buôn bên ngoài, khiến cho việc giao thương được diễn ra thuận lợi và hiệu quả hơn hẳn các nước trong khu vực… Người dân Phù Nam cần cù, chịu khó, khéo léo trong kỹ nghệ chế tác và sản xuất hàng hóa nên sản phẩm buôn bán được đánh giá cao và nhiều nơi quan tâm đến…Hơn nữa, bộ phận người Nam Đảo giỏi buôn bán, thông thạo thị trường là yếu tố tích cực giúp thương mại càng ngày càng phát triển. 2. Hoạt động thương nghiệp chủ yếu 2.1. Nội thương Hoạt động nội thương lúc này đã xuất hiện trên lãnh thổ Phù Nam-hạ lưu sông Mê Kông, song chưa có những đặc điểm thực sự nổi bật và phát triển, nội thương vẫn là ngành có vai trò bổ trợ cho sự phát triển của ngoại thương. Quan hệ thương mại mới chỉ dừng lại ở những địa bàn nhỏ, phạm vi không lớn lắm, chủ yếu là giao lưu giữa các tiểu quốc hoặc các vùng trong từng tiểu quốc với nhau. Hình thức trao đổi chủ yếu là bằng đường sông, trên những kênh, rạch vốn rất phổ biến, số lượng được áng chừng chung chung bằng cụm từ “chằng chịt”. Những sông ấy vốn có sẵn hoặc do nhu cầu mà cư dân tự đào lên để có thể đi lại thuận tiện và dễ dàng hơn hơn trong vùng. Các sản vật địa phương là mặt hàng được đem ra trao đổi. Hầu hết trao đổi vẫn ở mức độ đơn giản, với hình thức vật đổi vật. Tính thị trường trong trao đổi chưa cao. Trao đổi chưa mang tính rộng lớn, ví dụ như nhiều khu vực cùng họp lại với nhau làm công việc trao đổi mà gói gọn trong từng vùng. Có thể là giao lưu bằng đường thủy hoặc đường bộ nhưng chủ yếu là đường thủy. Hình thức giao lưu bằng đường thủy thì chủ yếu là đường sông. 2.2. Ngoại thương Tề thư cho biết: “Người Phù Nam khôn quỷ, mưu lược nhưng tốt bụng và thật thà, họ chuyên nghề buôn bán”. “Hàng hóa buôn bán thường ngày là vàng, bạc, lụa, hàng”. Nhờ tài nguyên thiên nhiên phong phú, sản vật đa dạng của nội địa và nhờ vị trí trung gian trên con đường hàng hải Ấn Độ - Trung Quốc, Óc Eo trở thành thành phố cảng của Phù Nam, một thương cảng quốc tế, đưa Phù Nam lên vị trí của một đế quốc, kiểm soát toàn bộ tuyến đường thương mại trên biển của thế giới qua khu vực Đông Nam Á. Vấn đề ngoại thương của Phù Nam được sử cũ chép lại, cũng như những dẫn chứng nói đến trong “Sử liệu Phù Nam”, cho ta biết phần nào về những mối quan hệ giao lưu, buôn bán của người Phù Nam với thế giới bên ngoài, cũng như biết được mối quan hệ ngoại giao, giao lưu của quốc gia cổ ấy trong những thế kỷ đầu Công nguyên đã vươn xa và rộng đến đâu. * Đường bộ: Ngoại thương đường bộ của Phù Nam chủ yếu là mối quan hệ với Lâm Ấp. Bởi nếu như theo những gì mà tờ biểu của vua Phù Nam nói về quan hệ Phù Nam – Lâm Ấp thì: “vốn cương giới liền nhau, thân, thiện…”. Nơi giáp ranh giữa hai quốc gia này là vùng sông Đồng Nai, nơi phát triển rực rỡ văn hóa Đồng Nai, nơi in đậm dấu tích văn hóa Đồng Nai cổ với văn hóa Phù Nam. Tại Phan Thiết – Bình Thuận, người ta phát hiện trong tầng văn hóa khảo cổ học những mảnh gốm Chăm, gốm Trung Hoa thời Lục triều và Tùy (V-VI), một số mảnh gốm và một số pho tượng nhỏ… Điều này có thể đưa ta đến một giả thuyết rằng, cư dân ở hai vùng liền kề của Phù Nam và Chân Lạp trong thời kỳ này đã có những hoạt động giao lưu, trao đổi sản phẩm địa phương hết sức thân thiện với nhau. Tuy số lượng hiện vật không nhiều và chưa được ghi lại cụ thể trong một tài liệu cụ thể nào, nhưng những chứng cứ trên đây có thể cho phép ta phỏng đoán có cơ sở về vấn đề này. * Đường biển: Người Phù Nam luôn có tư tưởng hướng ra biển và chinh phục biển ngay từ những ngày lập quốc, với sự lớn mạnh của một đế quốc hùng cường từ ngay những thế kỷ đầu công nguyên, Phù Nam đã tạo cho mình những lợi thế nhất định cũng như những bạn hàng quen thuộc vốn hay dừng chân và buôn bán trên truyến đường biển bị quốc gia này kiểm soát. Cảng thị Óc Eo là “bộ phận duyên hải của vương quốc cổ Ấn Độ hóa Phù Nam”, là cảng thị đại diện cho Phù Nam tiếp xúc với bên ngoài, là một đầu mối của đường hàng hải mậu dịch quốc tế, là một trung tâm thu phát hàng hóa, một trung tâm buôn bán, nên nó vừa lưu giữ vật phẩm Đông – Tây, vừa có các loại tiền bạc ở trên đất của nó và ở bên ngoài. Óc Eo là cảng thị, mở cửa buôn bán với bên ngoài nhưng lại là bộ phận hữu cơ của hệ thống, của quốc gia. Theo dấu vết còn ít nhất 2 thành thị nữa là Nền Chùa (Kiên Giang) và Nền Vua (nơi giáp ranh Kiên Giang – Cà Mau). Việc phát hiện ra một thành thị cổ qua khai quật văn hóa Óc Eo được Malleret ví như một trung tâm thương mại quốc tế có trình độ phát triển kinh tế, văn hóa và giao lưu hàng hóa vào hàng cao nhất thế giới trong 5-6 thế kỷ đầu Công nguyên. Những dẫn chứng trên đây chứng tỏ rằng, ngoại thương Phù Nam rất phát triển và đã đạt những thành tự lớn. Quan hệ giao lưu với các nước bên ngoài bằng đường biển chủ yếu gồm các nước như: Trung Quốc, Ấn Độ, Myanma, Đại Việt và các khu vực hải đảo khác… Biểu hiện của mối giao lưu này là người ta tìm thấy rất nhiều tiền Phù Nam ở những nước lân cận: - Ở Óc Eo phát hiện được 4 đồng tiền lớn (đường kính) D= 3cm, 5 đồng tiền nhỏ, D=1,5 cm. - Ở Nam Thái Lan, phát hiện 4 đồng tiền lớn, trong một hố khai quật khảo cổ học. - Ở Hmawza (Myanma) tìm thấy 4 đồng tiền lớn. Tất cả 14 đồng tiền này đều bằng bạc, có những hình trang trí căn bản giống nhau (trừ ở Myanma có kiểu thức hơi khác), những hình đó thay đổi giữa các đồng tiền, có các hình đúc nổi: ốc tù và, mặt trời và tia nắng hình cung, hình lâu đài hay đền thờ, thể hiện bằng hình chóp nhọn có 2 bờ mái uốn cong, trông giống… Các đồng tiền nhỏ có ưu thế đa số giống hình con gà, hay một loại chim chân cao, cánh cụp hay hình con cú… Hơn nữa, các nhà khảo cổ học Thái Lan gần đây còn phát hiện được ở địa điểm khai quật gần U Thong, hạ lưu sông Mê Nam 1 cái bình hương kiểu “bình hương Phù Nam” đổ nghiêng, trong xếp thứ tự đầy chặt các đồng tiền cổ. Theo những gì mà các nhà nghiên cứu tìm hiểu được, họ đưa ra kết luận rằng hoàn toàn có cơ sở cho đây là những đồng tiền Phù Nam. Sau năm 1975, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã phát hiện thêm 12 đồng tiền nữa, chúng đúc hình voi, búa tầm sét (vajra), hoa 8 cánh, một hình mặt người mũi cao (người Âu), tất cả đều bằng chì. Không thể không coi những đồng tiền này cũng là tiền Phù Nam, nhưng chất lượng thấp, có lẽ dùng trong buôn bán nội địa. Tất cả những đồng tiền này đều có kiểu cách Địa Trung Hải, có sự phong phú về số lượng, hình dáng và phạm vi phân bố. Ở thời gian này, nó vượt xa hơn hẳn tất cả các nơi khác trên thế giới ngoài Địa Trung Hải, phản ánh trình độ cao của mậu dịch quốc tế Phù Nam và vị trí quốc tế của Phù Nam… Sử cũ đã ghi lại những quan hệ ngoại giao và thương mại giữa Phù Nam với Trung Hoa và Ấn Độ. Các kết quả nghiên cứu khảo cổ học cũng chứng minh những giao lưu kinh tế giữa Phù Nam và hai nước nói trên, cũng như với Đông Nam Á và thậm chí xa hơn nữa, với Địa Trung Hải và Trung Á. Trung Hoa là nước có quan hệ thương mại sớm nhất với Phù Nam. Một phần do không chịu ảnh hưởng của chiến tranh, nên nền kinh tế, đặc biệt là thương mại ít bị ảnh hưởng hoặc gián đoạn. Thông qua việc xuất hiện và có mặt của những đồng “tiền Phù Nam” ở những lãnh thổ khác nhau trên thế giới, chúng ta có thể mường tượng ra được con đường hương liệu – con đường thương mại trên biển của thế giới qua khu vực Đông Nam Á hoạt động như thế nào, cũng như việc nhận diện được những bạn hàng, những nước có quan hệ buôn bán với Phù Nam cổ. Chắc chắn, phải có hoạt động thương mại rõ rệt thì những đồng tiền Phù Nam mới được tìm thấy rất nhiều trong các di chỉ khảo cổ học của các quốc gia như: Trung Quốc, Ấn Độ, Myanma, các nước hải đảo… Cũng qua những chứng cớ khảo cổ học ấy ta có thể khẳng định rằng, đến thời điểm này, quan hệ thương mại trên biển của Phù Nam đang rất phát triển. Sản phẩm của hoạt động ngoại thương có quy mô lớn. Dọc duyên hải và trong nội địa đất nước, những sản phẩm đồ nhập hoặc phỏng theo đồ ngoại được phát hiện gồm: Trống đồng – loại cổ vật tiêu biểu của văn hóa Đông Sơn. Những sản phẩm được nhìn nhận, được nhập hoặc được phỏng chế sản phẩm có nguồn gốc từ Ấn Độ hầu hết là đồ trang sức. Không chỉ dừng lại ở những mối quan hệ thương mại nội địa, thương mại trong khu vực mà Phù Nam còn vươn mình ra rộng hơn và xâm nhập vào thế giới phương Tây. Những quan hệ buôn bán với những người da trắng đã tạo cho họ những hiểu biết về kinh tế hàng hóa, củng cố thêm tiềm lực thương mại vốn có và nhanh chóng vươn lên thành một đế quốc, một nước có thế mạnh không cùng có thể kiểm soát toàn bộ tuyến đường biển thế giới qua khu vực này. 2.3. Hình thức trao đổi, mặt hàng chính Phù Nam được ví như “nơi họp chợ của thế giới”, chứng minh cho sự phát triển của thương mại Phù Nam phải kể đến sự xuất hiện sớm của các thị trấn, thị tứ lớn như: Óc Eo, Ba Thê, Trà Keo… nằm ở các vị trí tương đối gần gũi nhau, gần biển hoặc bên bờ kênh… Trên thực tế, cảng thị Óc Eo không những đóng vai trò là cảng trung tâm của Phù Nam mà còn nhanh chóng trở thành trung tâm thương mại phía Đông của thế giới. Điều này chứng tỏ, từ rất sớm thương mại Phù Nam đã phát triển và được nhà nước chú trọng. Theo các nguồn sử liệu ghi chép lại thì: hải cảng Óc eo không chỉ đón tiếp những thuyền của các quốc gia được ví như những bạn hàng quen mà còn đón tiếp cả những Kolandia là những chiến hạm hạng lớn chở hàng hóa của những thương gia trong các tỉnh của Mã Lai. Ngoài ra còn ghi chép rằng: người Trung Hoa có thể ngồi thuyền qua đất Phù Nam đến bán đảo Mã Lai. Hoặc dưới thời Phạm Chiêu (225-245) có ghi chép rằng: năm 244, theo sử ký Trung Hoa đời Tam Quốc nhà Đông Ngô thì năm 240 Phạm Chiêu tiếp 2 sứ thần của vua Tôn Quyền. Năm 243, một văn phòng thương mại Phù Nam thành lập ở gần thủ phủ Nam Kinh gọi là Phù Nam quán, vua Phù Nam giao thương với Ấn Độ, Trung Hoa năm 245 bị ám sát. Như đã kể trên, các thuyền buôn của thương nhân Trung Quốc đến Ấn Độ và ngược lại, khi đi men qua vùng biển Trung Quốc đến Champa, Phù Nam đều dừng lại nghỉ chân tại đây để mua nước ngọt, sửa chữa tàu bè và thực hiện trao đổi các mặt hàng cần thiết… Người Trung Quốc thường mang đến đây lụa là, gấm vóc để trao đổi lấy các vật phẩm khác của người Phù Nam như: đồ gốm, đồ trang sức làm từ vàng và bạc, các loại hương liệu và gia vị… Hoặc như Nam Tề thư viết thì: “buôn bán trao đổi lấy vàng bạc, tơ lụa trắng”. Có khi còn có những mặt hàng quý hiếm chỉ giành cho những người quyền quý, giàu sang như: gương đồng, tiền vàng, nhẫn ngọc… Trầm hương là mặt hàng khá nổi tiếng được Phù Nam đem ra trao đổi với bên ngoài. Trầm hương có mặt chủ yếu trên đất liền, trên cao nguyên Trường Sơn. Nó được quý trọng đến mức được thể hiện trên đồng tiền bạc. Loại A nhưng nhỏ Dm 12m/m, cân nặng 0.9 gr. Được biết là có nguồn gốc từ Sumatra mang sang bán đảo Malaixia 1 số đồng tiền tròn có họa tiết hoa trầm hương, mặt trái có chữ đọc là Mas (vàng). Còn ở Java lại xác định được mấy đồng tiền bạc, không xác định được hình dáng, 1 đồng cỡ 23x18m/m, 11,58 gr, mặt trái là họa tiết hoa trầm hương, còn mặt phải là một cái hình gọi tên là wicks cho là lọ cắm hoa Nơi tập trung nhiều hiện vật có nguồn gốc bên ngoài và niên đại chính xác của Phù Nam như: huy chương Rôma, gương đồng hậu Hán, đèn đồng Ba tư, hàng chục chữ Brahmi… Chưa tìm thấy những chứng cứ khảo cổ học nói về việc giao lưu giữa người Phù Nam với Rôma, Ba tư… nhưng theo phỏng đoán thì những sản phẩm của họ tìm thấy ở đây là do việc những thương nhân Địa Trung Hải đến và mang các sản phẩm khác nhau đến để trao đổi với người Phù Nam. Những sản phẩm Ấn Độ có thể đã được vận chuyển từ biển, xuất phát từ Nam Ấn tại thương cảng Arikamedu – đây là một trung tâm sản xuất và xuất khẩu các loại chuỗi hạt. Những thuyền này đi ngang qua vịnh Bengan, dừng lại ở Kra từ đây vượt qua bán đảo Mã Lai bằng đường bộ, sau đó xuống thuyền đi men theo vịnh Thái Lan vào biển Đông. Theo di chỉ khảo cổ học tìm thấy được từ văn hóa Óc Eo, những đồ vật như: nhẫn, đồ gốm, thiếc, đồng…xuất hiện với số lượng lớn, chứng tỏ, từ thời xa xưa rất có thể đây là những mặt hàng buôn bán chính và chủ yếu của cư dân nơi đây. Sự khác biệt lớn nhất và thể hiện sự phát triển hơn hẳn của thương mại Phù Nam so với thương mại Champa đó là sự xuất hiện của tiền làm phương tiện trao đổi. Nếu như thương mại Champa mới chỉ dừng lại ở việc trao đổi hàng hóa theo hình thức vật đổi vật thì đến thương mại Phù Nam, nhiều loại tiền khác nhau được tìm thấy thông qua các khai quật khảo cổ học tại văn hóa Óc Eo. Các loại tiền như: tiền cổ Mã Lai, Phù Nam, Nam Ấn tìm thấy chứng tỏ, cho đến thời điểm này, so với các quốc gia trong khu vực, thương mại biển Phù Nam đã phát triển đến một trình độ nhất định, nền kinh tế mang xu hướng kinh tế thị trường nhiều hơn và sâu sắc hơn các nước lân cận. 3. Vai trò của thương mại đối với kinh tế và sự thịnh suy của Phù Nam Thương mại là một hoạt động có vai trò vô cùng quan trọng trong cơ cấu nền kinh tế. Ở những quốc gia có điều kiện thuận lợi cũng như hình thành và phát triển nền thương nghiệp từ sớm sẽ tạo những thận lợi nhất định cho sự phát triển kinh tế sau này, các mối quan hệ buôn bán cũng được mở rộng theo hướng đa phương và đa dạng hóa. Đây là ngành kinh tế quan trọng nhất và đóng vai trò quyết định trong toàn bộ nền kinh tế Phù Nam ngay từ những thế kỷ đầu công nguyên. Thương mại Phù Nam vốn phát triển sớm và được nhà nước chú trọng. Đây là một trong những yếu tố quan trọng đưa Phù Nam trở thành đế quốc nhưng lại là nguyên nhân trọng yếu dẫn đến sự suy vong của vương quốc này. Nguyên nhân suy yếu của thương mại Phù Nam: Như đã nói ở trên, từ đầu công nguyên đến thế kỷ V, con đường mậu dịch trên biển nối liền Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương men theo ven biển từ Trung Quốc qua ven biển Cham pa, Phù Nam, bán đảo Mã Lai rồi chuyển bộ qua eo Kra gọi là Tokola và tiếp tục con đường ven biển qua các nước Nam Á đến Tây Á và từ đó nối với thế giới Địa Trung Hải. Phù Nam nằm trên vị trí cực kỳ thuận lợi của hải trình Đông – Tây này. Đế chế Phù Nam lại khống chế và kiểm soát toàn bộ con đường buôn bán ven biển qua bán đảo Mã Lai, bao gồm lưu vực sông Mê Kông, sông Mê Nam và bán đảo Mã Lai. Đô thị cảng Ba Thê, Óc eo sớm trở thành trung tâm mậu dịch quốc tế của Phù Nam và cả v
Tài liệu liên quan