Giá trị hiện thực và nhân đạo trong thơ Đỗ Phủ

Có những tác phẩm văn học đọc xong gấp sách lại là ta quên ngay ,cho đến lúc cầm lại ta mới chợt nhớ là mình đã đọc rồi.Nhưng cũng có những bài văn,bài thơ như những dòng sông chảy qua tâm hồn ta để lại những ấn tượng khắc chạm trong tâm khảm không thể nào quên .Thơ Đường là một trường hợp như thế ! Thơ Đường,nhất là vào thời Trung-Vãn Đường đã cống hiến biết bao tên tuổi những nhà thơ nổi tiếng như Lý Bạch, Đỗ Phủ,Bạch Cư Dị,Vương Duy.Trong đó Lý Bạch và Đỗ Phủ là hai ngôi sao sáng của thơ Đường lúc ấy .Mỗi người một vẻ không ai giống ai nhưng cũng thể nào tách rời nhau ,tên hai nhà thơ đã gắn chặt vào nhau, làm cho khi nhắc đến người này không thể không nhắc đền người kia.Thật vậy,thơ ca của cả hai thi nhân gộp lại mới nói lên được đầy đủ tâm hồn người Trung Quốc thời ấy.Người ta thường nói văn chương Lý -Đỗ người đời khó sánh kịp,nhưng hai nhà thơ ấy lại tiêu biểu cho hai đỉnh cao của thơ ca cổ điển Trung Quốc .Nếu như Lý Bạch thiên về những vần thơ bay bổng lãng mạn với những cảnh sắc lung linh mờ ảo thìĐỗ Phủ lại mang duyên nợ với những dòng thơ hiện thực gắn liền với cuộc sống đời thường với những con người ở tầng lớp dưới của xã hội .Cũng chính vì vậy mà tiếng thơ của ông mang một nỗi buồn ai oán, day dứt triền miên về những cảnh đời đau khổ ,bất hạnh,những bất công ngang trái trong xã hội mà chính ông cũng đã từng nếm trải trong suốt cuộc đời mình. Cuộc đời đau khổ và ý thức trách nhiệm với Tổ Quốc với nhân dân đã khiến Đỗ Phủ trở thành người thư kí trung thành và lương tâm của thời đại .Thơ Đỗ Phủ đã phản ánh một cách toàn diện ,trung thực và sâu sắc nỗi đau khổ của người "dân đen", những tai hoạ khủng khiếp mà đất nước mà đất nước và nhân dân phải chịu đựng trong chiến tranh loạn lạc .Thơ Đỗ Phủ là là bức tranh hiện thực là "lịch sử bằng thơ"được tạo nên bởi một trái tim chan chứa tình cảm nhân đạo cao cả.

docx22 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 5384 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giá trị hiện thực và nhân đạo trong thơ Đỗ Phủ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Giá trị hiện thực và nhân đạo trong thơ Đỗ Phủ Có những tác phẩm văn học đọc xong gấp sách lại là ta quên ngay ,cho đến lúc cầm lại ta mới chợt nhớ là mình đã đọc rồi.Nhưng cũng có những bài văn,bài thơ như những dòng sông chảy qua tâm hồn ta để lại những ấn tượng khắc chạm trong tâm khảm không thể nào quên .Thơ Đường là một trường hợp như thế ! Thơ Đường,nhất là vào thời Trung-Vãn Đường đã cống hiến biết bao tên tuổi những nhà thơ nổi tiếng như Lý Bạch, Đỗ Phủ,Bạch Cư Dị,Vương Duy...Trong đó Lý Bạch và Đỗ Phủ là hai ngôi sao sáng của thơ Đường lúc ấy .Mỗi người một vẻ không ai giống ai nhưng cũng thể nào tách rời nhau ,tên hai nhà thơ đã gắn chặt vào nhau, làm cho khi nhắc đến người này không thể không nhắc đền người kia.Thật vậy,thơ ca của cả hai thi nhân gộp lại mới nói lên được đầy đủ tâm hồn người Trung Quốc thời ấy.Người ta thường nói văn chương Lý -Đỗ người đời khó sánh kịp,nhưng hai nhà thơ ấy lại tiêu biểu cho hai đỉnh cao của thơ ca cổ điển Trung Quốc .Nếu như Lý Bạch thiên về những vần thơ bay bổng lãng mạn với những cảnh sắc lung linh mờ ảo thìĐỗ Phủ lại mang duyên nợ với những dòng thơ hiện thực gắn liền với cuộc sống đời thường với những con người ở tầng lớp dưới của xã hội .Cũng chính vì vậy mà tiếng thơ của ông mang một nỗi buồn ai oán, day dứt triền miên về những cảnh đời đau khổ ,bất hạnh,những bất công ngang trái trong xã hội mà chính ông cũng đã từng nếm trải trong suốt cuộc đời mình. Cuộc đời đau khổ và ý thức trách nhiệm với Tổ Quốc với nhân dân đã khiến Đỗ Phủ trở thành người thư kí trung thành và lương tâm của thời đại .Thơ Đỗ Phủ đã phản ánh một cách toàn diện ,trung thực và sâu sắc nỗi đau khổ của người "dân đen", những tai hoạ khủng khiếp mà đất nước mà đất nước và nhân dân phải chịu đựng trong chiến tranh loạn lạc .Thơ Đỗ Phủ là là bức tranh hiện thực là "lịch sử bằng thơ"được tạo nên bởi một trái tim chan chứa tình cảm nhân đạo cao cả. Càng đọc thơ Đỗ Phủ chúng ta mới càng thấy hết được cuộc sống cơ cực và khổ sở của nhân dân Trung Quốc thời ấy, lại càng thấu hiểu hơn về cuộc đời bất hạnh của nhà thơ thiên tài _Đỗ Phủ . Đúng như Quách Mạc Nhược _nhà thơ Trung Quốc đã từng viết :"Những thương tích trên trần thế ,trong thơ thánh nhân ,nỗi thống khổ nhân gian ,sóng lớn cuồn cuộn dưới ngòi bút đã khái quát toàn diện tài hoa và đặc sắc của Đỗ Phủ và thơ của ông . Ông đích thực là thi nhân vĩ đại tiếp nối người đời trước và mở lối cho con cháu các thế hệ sau này ". Hay như nhà thơ Nguyên Chẩn đã từng nhận xét :"Từ .khi có thi nhân đến nay,không có ai vĩ đại bằng Đỗ Phủ". Có lẽ là vậy ! Đỗ Phủ không những vĩ đại đối với Trung Quốc mà còn vĩ đại đối với cả nhân loại nữa .Và tôi yêu thơ Đỗ Phủ cũng chính vì những điều đó! Và chắc hẵn mỗi chúng ta ,ai đã từng đọc thơ Đỗ Phủ có thể quên bất cứ thứ gì nhưng không thể nào quên được "giá trị hiện thực và tinh thần nhân đạo" thấm đẫm trong từng câu thơ,chữ thơ của nhà thơ hiện thực vĩ đại này . Đỗ Phủ (712- 770) tự Tử Mỹ sinh trưởng trong một gia đình quan lại có truyền thống lâu đời ở huyện Củng - tỉnh Hà Nam .Cuộc đời 58 tuổi của ông không phải là dài nhưng cũng đủ để ông nếm trải những gian truân ,bất hạnh của một người cùng khổ .Hơn nửa đời người Đỗ Phủ sống trong cảnh buồn thương, đau khổ. Ông phiêu bạc khắp nơi trên đất nước Trung Quốc, đi nhiều nhưng không phải để ngao du hào phóng như Lý Bạch mà để tìm kế sinh nhai. Để rồi trút hơi thở cuối cùng trên con thuyền rách nát giữa sông Tương mưa gió tơi bời trong khi cái mơ ước tầm thường đơn giản nhất là trở về quê cũ vẫn chưa thực hiện được . Những bước đường chông gai ,khi giặc bắt ,lúc bôn ba cộng với những ngày đau ốm và những cơn đói rét đã rút ngắn chỗi đời của ông nhưng đồng thời cũng cho ông một vốn sống hết sức phong phú để ông trở thành nhà thơ vĩ đại .Chính trong những cơn thử thách đó ông càng thấm thía với nỗi khổ của nhân dân và càng thấy rõ bộ mặt của giai cấp thông trị ...tất cả đã khắc vào trái tim nhân đạo cao cả của nhà thơ một niềm cảm thông vô hạn . Vốn sinh ra trong một gia đình quan lại là " con cháu của một gia đình quý tộc có tiếng về thi thơ , đời đời theo nghiệp Nho để làm quan" , Đỗ Phủ trước sau vẫn mang trong mình cái hoài bão lớn lao ,cái nhiệt tình chính trị nồng cháy của một nhà thơ muốn "nghiêng Đông Hải rửa càn khôn "với tâm niệm "giúp vua vượt Nghiêu Thuấn". Nhưng hoài bão đẹp đẽ lớn lao và nhiệt tình chính trị nồng cháy kia có bao giờ được trở thành hiện thực .Chế độ xã hội phong kiến đen tối và tàn bạo vốn thù ghét tài hoa ,chôn vùi người chính trực .Vì thế mà một nhà thơ thiên tài như Đỗ Phủ phải long đong khốn đốn và cuộc đời nhà thơ rút lại chỉ còn là một nỗi lo xé ruột , một nỗi đau thắt lòng . 1)Cuộc đời bất hạnh của một nhà thơ nghèo  Cùng sống trong một thời đại với Vương Duy,Lý Bạch,Cao Thích ,Sầm Tham.,nhưng Đỗ Phủ phải nếm trải nhiều nỗi gian truân của cuộc sống hơn ai hết. Đời ông từ 30 tuổi trở đi có thể nói là một tấn bi kịch kéo dài .Mười năm chờ đợi ở Trường An (746-755) là mười năm ông sống đời kẻ hành khất ,rày đây mai đó ,nhờ vả vào một số nhà quyền quý : "Sáng gõ cửa nhà giàu  Chiều theo sau đuôi ngựa Xơi rượu thừa thịt nguội  Khắp nơi ngậm ngùi đau" (Kính tặng quan tá thừa họ Vi ) Cảnh sống cơ cực đó đối với nhà thơ là một sự sỉ nhục,thế nhưng ông vẫn cắn răng chịu đựng để vựơt qua những tháng ngày nhục nhã này .Có năm trời làm đói rét , ông phải ngày ngày đến đong gạo chính quyền xuất kho bán rẻ cho người nghèo để sống qua ngày . Trong khoảng thời gian đó , Đỗ Phủ còn sống cuộc sống một nhà văn nghiệp dư, ông sống bằng cách viết thơ ,phú ...tặng một quan lại giàu có,một vương công để kiếm tiền ,bài thơ "Cùng các aông tử chơi mát ở hồ Trượng Bát .." đã nói lên điều đó : "Các công tử dùng băng làm nước  Các giai nhân lau chuốt ngó sen Mây trời bỗng bắt đầu đen Đúng là mưa giục phải đền bằng thơ".. Thế nhưng Đỗ Phủ là người có nhân cách nên ít khi ông làm thơ ca ngợi chính vì thế mặc dù ông có danh tiếng rất lớn mà chẳng kiếm đủ ăn ,có những ngày no đủ xênh xang nhưng không hiếm những ngày lận đận. Trong bài thơ "Tặng Tư Trường làm học sĩ Hàn Lâm " ông đã bộc lộ cảnh khổ cực lênh đênh của mình với một người bạn lúc nhỏ : "Chim phượng cao chẳng mong theo được Đom đốm nhìn khóc nức mà thôi Cỏ xuân cậy gửi đời tôi Đến già độc sống nổi trôi kiếp bèo" Bộc lộ nỗi niềm với bạn ,nhà thơ như muốn khóc than cho thân phận hẩm hiu buồn tủi của mình . Ước mơ được nối nghiệp cha ông làm quan có lẽ đối với nhà thơ hãy con xa lắm . Đỗ Phủ ý thức cuộc sống của mình như là sự sống tạm sống gửi mà thôi .Chỉ biết gửi mình nơi cỏ cây sông núi để sống một cuộc đời lênh đênh chìm nổi như một "kiếp bèo". Trong những năm sống cuộc đời tha phương nơi đất khách .Với biết bao biến động xãy ra trước mắt nhà thơ đã tiều tuỵ đi rất nhiều ,sự thiếu thốn về vật chất cộng với nỗi lo tinh thần đã tạo nên những vần thơ thật xót xa : "Vâng phếp trên vạn dặm phải ra đi Mười năm ấy lưu li nơi đất khách  Huống gió bụi liên miên đầy trước mặt Mái tóc kia sương tuyết bạc thêm nhiêù " (Gửi Đỗ Vị) Ta còn nhận thấy nỗi đau khổ quẩn bách của nhà thơ _một thực trạng ,một cảnh đời đau đớn trong những dòng thơ của thi nhân mà có lẽ ai đã một lần đọc cũng đều phải rơi nước mắt : "Đất trờt thân đâu gửi? Gío bụi bệnh đành thôi Lá thư tràn nước mắt  Làm thơ lệ cứ rơi" Có lẽ nhà thơ sinh ra là để sống một cuộc đời khổ hạnh,cuộc sống của Đỗ Phủ là một chuỗi dài những tháng ngày đói khổ triền miên thấm đầy máu và nước mắt.Trong bài"Thư gởi các vị ở hai huyện Hàm, Hoa" nhà thơ đã nói lên thực trạng đau đớn của mình : "Nằm bẹp đói meo đã tuần nay  Aó rách đâu chỉ vá trăm tấm? Nhà trống trời chiều bạn biết không? Nghẹn ngào nước mắt máu ròng ròng! " Tháng 10 năm 755 ,khi trở lại Trường An . Đỗ Phủ được bổ đi Hà Tây làm huyện uý _một chức quan "thu thuế -quất dân" ,là một người sống vì dân ,sống cho dân đen Đỗ Phủ từ chối chứ không làm những điều trái ý mình _phản bội nhân dân .Sau đó ông nhân được một chức qun khác là "giữ kho vũ khí".Vì cùng đường lạc lối và muốn mưu sinh cuộc sống cho vợ con , ông đành chấp nhận . Sau khi làm quan ông đùa tặng mình một bài thơ : "Không làm huyện uý Hà Tây Gãy lưng đày đọa thân này làm chi ? Gìa này ngán chuyện xun xoe  Làm chức suất phủ thoả bề tiêu dao" Nhưng lúc ông được làm quan cũng là lúc An Lộc Sơn bắt đầu nổi loạn .Vừa nghèo đói ,vừa phải chạy loạn ,cho nên cha làm quan mà con vẫn phải chết đói ,vợ ăn mặc rách rưới . Đặc biệt là sau khi ông từ chức ,cuộc sống lưu vong đưa lại cho nhà thơ tất cả những khổ cực mà một con người phải chịu đựng .Nhà thơ đã phải hái củi ,lặt quả lật quả đào của hoàng độc để ăn cho đỡ đói .Tình cảnh thật thảm hại: "Có người khách tự là Tử Mỹ  Đầu bạc phơ ,tóc đã quá tai Theo người nuôi khi năm rồi  Tìm tòi hạt dẻ vào nơi hoang cùng " (7 bài thơ làm ở huyện Đồng Cốc ) Trời rét, tuyết đổ xuống,hoàng độ không mọc được bộ áo cộc không đủ ấm , ông đành vát mai về không.Cả nhà đói nằm rên rỉ ,bốn bề lặng ngắt ,chỉ nghe trong lòng nhà thơ một nỗi đau khôn tả: "Cuốc dài ơi,cán ngươi gỗ trắng  Ta gửi ngươi tính mạng của ta  Hoàng tinh tuyết núi dày ghê Aó ngắn kéo mãi chẳng hề kín chân  Ta cùng ngươi về không chân bước  Nhìn trai rên ,gái khóc,tường trơ"... Cuộc sống lưu vong nay đây mai đó , đã đưa đến cho nhà thơ tất cả những nỗi đắng cay mà một con người phải cắn răng chịu đựng .Sau những tháng ngày vượt núi lội sông ,trải qua bao lần đói rét ,nhờ bạn hữu cưu mang , Đỗ Phủ mới dựng được ngôi nhà tranh bên bờ khe Cán Hoa vao năm 760 .Có ngôi nhà tưởng như được yên thân, nào ngờ lại bị gió thu ập đến phá nát ,cái yên ấm mới vừa nhen lên đã vội vàng tắt ngấm : "Tháng tám, thu cao, gió thét già Cuộn mất ba lớp tranh nhà ta " Tuổi già sức yếu bất lực trước hòan cảnh ,nhà thơ chỉ biết ngồi đối mặt với hiện thực phủ phàng : "Trời thu mit mịt đêm đen đặc Mền vải lâu năm lạnh tựa sắt  Con nằm xấu nết đạp lót nát Đầu giường nhà giọt chẳng chừa đâu" Dày hạt mưa ,mưa chẳng dứt  Từ trải cơn loạn ít ngủ nghê Đêm dài ướt át sao cho trót ?" (Bài ca nhà tranh bị gió thu phá) Đêm dài lắm là đêm không ngủ ,không ngủ vì lo âu cảnh đất nước loạn lạc ,không ngủ vì tuổi già dầm nước suốt đêm dài .Kiếp người sao khổ thế ! Có còn là kiếp người nữa không ? Trông trời tạnh thì "mưa chẳng dứt" ,trông trời sáng thì "cách chi qua nỗi đêm dài " con người bị đẩy đến tận cùng ,bị đẩy xuống dưới "ngưỡng"của con người .Thật xót xa đau đớn ! Trong những tình cảnh khó khăn túng quẫn như thế ,nhiều lúc Đỗ Phủ vẫn phải làm thơ gởi dến bạn bè để bày tỏ khó khăn và mong cầu sự giúp đỡ : "Trăm năm quá nửa qua rồi  Thu sang, đói rét cuộc đời đắng cay Ở Bành Châu bạn có hay  Bao giờ bạn cứu nạn này giúp ta " (Nhờ ông năm Thôi làm thị ngự gửi cho ông Cao ở Bành Châu) Thế nhưng cuộc sống trên đất Thục này cũng chẳng mấy yên ổn . Đỗ Phủ lại phải bỏ căn nhà tranh ở Thành Đô ,lánh nạn khắp nơi trên đất Tứ Xuyên ,sống một cuộc sống nhờ vả và làm thơ để kiếm ăn như lúc ở Trường An .Một thời gian sau nhà thơ lại rời Tứ Xuyên với ý định trở về quê nhà ,nhưng rồi nơi đâu cũng có loạn lạc chiến tranh ,những bất công của xã hội lúc nào cũng vây bủa ,nhà thơ cùng gia đình vẫn phải lênh đênh quanh quẩn mãi ở vùng Gia Lăng _dọc sông Tương Giang để sinh sống : "Quê hương gò đống ,cỏ tràn  Xóm giềng giờ đã lìa tan cả rồi! Đường quay về giờ thôi mù mịt , Bờ Tương Giang chỉ biết khóc tràn " (Ngựa trắng) Cảnh đời cơ cực khiến Đỗ Phủ ngày càng tàn phế ,thân mang nhiều tật bệnh; "Đài cao trăm bệnh chiếc thân mòn  Gian nan khổ hận đầu thêm bạc" (Đăng cao) Vào lúc cuối đời nhà thơ đã sống trong cảnh cô đơn ,già yếu, ốm đau bệnh tật luôn hoành hành : "Gãi đầu tóc bạc thêm cùn Búi lên sổ xuống ,trâm luồn lại rơi" (Xuân vọng) Một mái tóc lơ thơ cho thấy một con người tiều tuỵ ,mỏi mòn trong nỗi trông dợi lo âu , đau đớn .Nỗi đau trầm uất nơi trái tim hiện ra nơi mái đầu bạc ,búi tóc tong teo vì nỗi đau lòng khôn xiết của nhà thơ . Khổ đau, đói rét trong cuộc đời Đỗ Phủ là một chuỗi dài vô tận .Ngay cả khi tuổi già sức yếu ,mắt mờ tai điếc và thân mang nhiều tật bệnh nhà thơ vẫn phải đối mặt với biết bao gian truân bất hạnh trong những năm tháng cuối cùng của đời mình .Sau nhiều năm bôn tẩu bón phương trời ,Hành Châu là nơi dừng chân cuối cùng của ông .Tại đây từ mùa thu sang đông ,nằm trên chiếc thuyền nhỏ bồng bềnh trên sông Tương ,mặc cho cuộc đời cứ trôi đi vô định , Đỗ Phủ đã viết những bài thơ cuối cùng kể về nỗi đói khổ của mình : "Ông đầu bạc ,tuổi đà năm chục  Chạy về Nam gặp lúc nạn to Vải thưa quấn nhúm sương khô Lênh đênh ,bôn tẩu khó mà ẩn thân Đã già yếu thêm phần tật bệnh Cả bốn phương bất hạnh như nhau”  (Lánh nạn) Trong những lúc sức cùng lực kiệt nhà thơ ví mình như cánh chim bị thương không còn đủ sức để bay về quê nhà sau nhiều năm xa cách .Gìơ lênh đênh trên con thuyền không biết sẽ trôi về đâu ,nhà thơ gặm nhấm từng cơn uất hận của của lòng mình : "Ta như chim thân bị đạn rơi Hứng tan nỗi hận mới nguôi  Sầu dồn dậplại khôn đời cản ngăn" (Gío thổi mạnh trong thuyền ôm gối bộc lộ nỗi lòng) Và lúc này nhà thơ cũng biết rằng cuộc đời mình đã vào lúc xế chiều ,không còn sức để thực hiện những ước mơ hoài bão mà ông thường mong muốn : "Sinh nhai đành chiếc thân chìm nổi Thời hết rồi,cảnh đổi vật tan" Thế nhưng trong suốt cuộc đời mình nhà thơ vẫn luôn giữ cho lòng mình trong sáng , ý thức trách nhiệm của một nhà thơ nhân dân vẫn khắc mãi trong tim ông: "Thời qua khó giữ thật thà  Chết chìm trên cạn ,quên lo mưu cầu  Dù gạo thiếu đã lâu cam chịu  Từ chối lòng cố giữ chữ liêm " Nỗi đau,niềm uất hận dường như đã nén lại để rồi nước mắt vỡ oà trong những dòng thơ cuối cùng của nhà thơ bất hạnh : "Việc nhà bộc lộ tâm can Viết chưa xong ,lệ chảy tràn như mưa" Đó là nước mắt của nhà thơ khóc cho chính mình hay cũng là nước mắt của biết bao thế hệ độc giả khóc thương cho một nhà thơ thiên tài bạc mệnh . Và một thời gian sau Đỗ Phủ đã trút hơi thở cuối cùng trên con thuyền rách nát lênh đênh giữa dòng sông Tương Giang trong cảnh gió mưa não nề kết thúc tấn bi kịch nao lòng cảu đời ông. Qủa thật , đời Đỗ Phủ không được mấy ngày vui .Các nhà thơ Đường không ai nghèo khổ lao đao như thế và phải chịu ảnh hưởng của chiến tranh loạn lạc nhiều như thế ... 2)Tinh thần phản kháng cường quyền sâu sắc : Cuộc đời Đỗ Phủ đã quyết định tư tưởng và lòng nhân đạo của ông .Từ nỗi đau của bản thân ,Đỗ Phủ thấy rõ hơn nỗi đau của nhân dân và từ đó ông càng thấy rõ hơn sự hủ bại tàn bạo của giai cấp thống trị .Thơ ông vì thế nói khá nhiều đến nỗi khổ khôn nguôi của bản thân và lúc nào cũng liên hệ với nỗi khổ quằn quại của quần chúng nhân dân . Ông không chỉ than thở cho riêng mình mà than thở chung cho tất cả những người lao động nghèo nàn với một tình cảm chân thành hiếm có .Cho nên ông buồn rầu mà không bi lụy .Thơ ông luôn chói ngời chủ nghĩa hiện thực ,tinh thần nhân đạo và trở nên gần gũi với nhân dân .Thân đói rét mà muốn cứu nhân độ thế ,sống trong cảnh túng quẫn mà không có ý chán đời . Đỗ Phủ thật khác vớiBạch Cư Dị và hầu hết các nhà thơ cổ điển Trung Quốc . Đỗ Phủ không phải chỉ thương người , ông còn tố cáo xã hội,phơi bày những mâu thuẫn bất công của xã hội lúc bấy giờ .Nhiều câu thơ của ông như mũi dao nhọn chích sâu vào cái xã hội đương thời đầy ung nhọt : "Cửa son rượu thịt ôi Ngòai đường xương chết buốt …" "Quan lớn trong triều ngáy rượu thịt Bọn dân mảnh vải tấm tranh không " Đó là những câu thơ rất quen thuộc đối những độc giả yêu thơ Đỗ Phủ .Những câu thơ trong bài "Từ Kinh Đô đi Phụng Tiên" mới thật sự nói lên tinh thần dũng cảm vạch trần sự thật của nhà thơ : "Vóc lụa thềm son chia  Do gái nghèo chịu nhọc  Roi vụt nhà cùng đinh Tom tóp dân bệ ngọc" Vóc lụa nói ở đây chỉ là một vật tượng trưng thôi .Thật ra thì tất cả mọi thứ rượu ,thịt ăn đến phát ngấy lên kia thừa thải cho đến hôi thối ra đấy ,cho đến mỗi viên gạch ngói làm nên thềm son bệ ngọc kia cũng đều do dân nghèo nhọc nhằn làm ra cả .Giai cấp thống trị chỉ là bọn người phải dùng đến roi vọt để cướp lấy những của cải do mồ hôi nước mắt của dân nghèo đáng thương làm ra .Những chữ roi vụt,ban, chia,dâng đứng bên nhau ở đây thật là mỉa mai chua chát ,làm nổi bậc tư tưởng tiến bộ và giá trị hiện thực của câu thơ , đó chính là ngọn roi mà Đỗ Phủ đã thẳng tay quất vào cả cái chế độ thống trị thối nát đương thời . Bài Khách Từ đi sâu hơn một bước ,dùng hình thức nửa ngụ ngôn để kết luận tất cả châu báu của bọn quí tộc đều là máu của dân : "Khách từ bể Nam tới Cho ta viên ngọc trai Trong ngọc có vết chữ  Muốn đọc không thành lời  Cất dấu trong hòm kín  Để đợt nhà nước đòi , Mở ra xem hoá máu !  Trời ơi!Thuế khoá ơi!" Đối tượng châm biếm của Đỗ Phủ gồm các tầng lớp từ vua quan ,cung phi,quân phiệt địa phương cho đến hủ nho và bọn bồi bút vô liêm sĩ . Thái độ của Đỗ Phủ nói chung là cung kính . Ông thường nói :"Một bát cơm cũng không quên ơn vua ",và tự đặt cho mình một nhiệm vụ thiêng liêng: "Giúp vua vượt Nghiêu Thuấn Xây dựng phong tục thuần !" (Kính tặng quan Tả thừa tướng họ Vi ) Đó cũng là một việc dĩ nhiên đối với một nhà thơ yêu nước sống dưới chế độ phong kiến ,khi địa vị của vua chúa chưa bị lung lay và nhân dân chưa có ý thức cách mạng dân chủ .Trong xã hội đời Đường lúc bấy giờ ,khái niệm trung quân và ái quốc đi đôi với nhau là một chân lý dường như thiên kinh địa nghĩa .Thế nhưng Đỗ Phủ trung quân mà không bao giờ thoả hiệp với sai lầm và tội ác của nhà vua . Đỗ Phủ trung quân có điều kiện . Trong con mắt của Đỗ Phủ ,vua không phải là thần thánh ,vua cũng là người và có lúc là con người tồi tệ nhất trong thiên hạ.Trong tác phẩm của mình, Đỗ Phủ cho ta thấy hình tượng của vua trong các môi trường ,khi trên ngai vàng ,luc bên trướng gấm ,khi ở lầu son ,lúc lại trên đường bôn tẩu .Nhưng phần nhiều là để trêu đùa hoặc phê phán . Đỗ Phủ là nhà thơ ưu thời mẫn thế ,có hoài bão lớn lao ,muốn "Giúp vua vượt Nghiêu Thuấn "muốn cho đất nước có thuần phong mỹ tục ,mọi người được ấm no, thiên hạ không có cảnh giàu -nghèo chênh lệch nhau: "Không sang hèn không buồn  Không giàu nghèo càng tốt" (Thuật nỗi lòng) Tuy nhiên Đỗ Phủ không thể làm ngơ trước những hành động trái luân thường đạo lý ,trước cảnh áp bức bất công hay hành vi bạo ngược của con người quyền thế . Đó là động cơ làm cho ngòi bút hiện thực của Đỗ Phủ trở nên tinh vi và sắc bén đến chỗ bóc trần không nhân nhượng . Nếu với chiến tranh bảo vệ đất nước ông đồng tình thì đối với chiến tranh xâm lược và chiến tranh quân phiệt , ông cực lực phản đối . Ông căm thù bọn quân phiệt ,vì chính bọn này là kẻ chủ trương chia cắt đất nước và nhiễu hại dân lành : "Một nước có ba ông  Nhân dân thành tro bụi" (Thảo đường) Cho nên ,bất cứ lúc nào ,mỗi khi gặp cơ hội vạch mặt bọn quân phiệt thìông không từ .Trong bài thơ"Đùa tặng Hoa Khanh" , Đỗ Phủ thật tài tình và khôn khéo khi vạch được bộ mặt gian xảo và tàn bạo của tên cường đạo Hoa Khanh: "Thành đô mãnh tướng có Hoa Khanh Em bé học nói cũng biết danh! Như lửa! Như gió! Như cắt lanh! Thấy giặc thật đông mới nhẹ mình ! … Người bảo Khanh tôi tuyệt thế vô Đã là " tuyệt thế vô" Sao vua không gọi giữ Đông Đô?" Mới nghe hình như ca ngợi ,nhưng thật ra nhà thơ ví hắn như một thứ ngáo ộp dễ doạ trẻ con thôi.Danh tiếng của hắn nổi như cồn cho đến em bé mới bập bẹ cũng biết . Thường khi ra trận người ta chỉ sợ kẻ địch đông hơn mình ,nhưng ở đây Hoa Khanh chỉ phấn khởi ,nhẹ nhàng là khi nào đứng trước một đám giặc thật đông .Như thế chứng tỏ Hoa Khanh là một con người thật kỳ lạ ,một tay khát máu gớm ghiếc .Nếu hắn có tài thật thì tại sao vua không gọi hắn giữ Đông Đô ? Chỉ một câu hỏi đó đã làm nổi rõ bản chất của bọn quân phiệt là lưu manh ,xỏ lá ,sợ mạnh hiếp yếu ,chỉ thừa nước đục để thả câu chứ không bao giờ vì nước vì dân cả.. Đỗ Phủ là người có tinh thần đấu tranh ngoan cường và liên tục .Thái độ của Đỗ Phủ là cương quyết nhưng mềm dẻo ,cứng rắn nhưng sinh động .Cái tinh vi của Đỗ Phủ là ở chỗ dùng một câu mà hai nghĩa ,nói một chuyện thành hai,khiến cho kẻ địch bị dả kích tơi bời mà bề ngoài vẫn thấy mình được ca ngợi.Nhưng có lúc cũng bộc phát thành những lời nguyền rủa hoặc chửi mắng công khai. Bọn thống trị thường dùng hai tiếng "đạo tặc" để chỉ những người dân nghèo lươ
Tài liệu liên quan