Khóa luận Nâng cao hiệu quả hoạt động marketing nhằm thu hút khách tại khách sạn du lịch công đoàn Thanh Bình – Đà Nẵng

Trong dự thảo văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX xác định ngành du lịch là nghành kinh tế mũi nhọn. Du lịch góp phần tạo việc làm và mở rộng quan hệ ngoại giao, hội nhập quốc tế đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho đất n ước đồng thời phát triển nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Với vị trí và vai trò là ngành kinh tế tổng hợp quan trọng mang nội dung văn hóa sâu sắc, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa càng cao thì du lịch phải không ngừng vươn lên và ghi tiếp những dấu ấn mới. Là một ngành kinh tế đang còn rất trẻ của đất nước, mới bắt đầu phát triển trong những năm gần đây nhưng đã đạt được những thành tựu khả quan, góp phần vào sự nghiệp đổi mới nền kinh tế mà cụ thể là tiêu thụ một lượng lớn hàng hóa của đất nước tại chỗ, giải quyết một lượng lớn lao động mà đất nước đang tìm bài toán để giải quyết, nâng cao cơ sở hạ tầng của đất nước. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì bản thân ngành cũng gặp nhiều khó khăn trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình. Muốn tránh tình trạng như vậy thì đòi hỏi ngành phải đẩy mạnh hơn nữa tốc độ phát triển của ngành du lịch Việt Nam trong những năm tới, có nh ư vậy mới đuổi kịp với những nước trong khu vực và trên thế giới. Đồng thời đòi hỏi các đơn vị kinh doanh trong ngành ph ải phấn đấu kinh doanh có hiệu quả, một phần quan trọng góp phần cho sự phát triển bền vững đó là cần có sự quan tâm, giúp đỡ tận tình của Đảng, cơ quan nhà nước và các chính quy ền sở tại về chính sách ưu đãi, về sự lãnh đạo, chỉ đạo. Trong thời gian tới cùng với sự tăng lên về lượng khách đến Việt Nam nói chung, đến với Đà Nẵng nói riêng, đặc biệt là đến với khách sạn Du lịch Công Đoàn Thanh Bình Đà Nẵng, là việc hình thành thêm các cơ sở lưu trú, nhà hàng, khách sạn, các khu vui chơi giải trí, công ty lữ hành.Đặt ra vấn đề nan giải đó là sự cạnh tranh gây gắt giữa các cơ sở kinh doanh du lịch. Đòi hỏi các cơ sở kinh doanh du lịch phải sử dụng nhiều hình thức quảng cáo để thu hút khách về với mình. Khách sạn Du lịch Công Đoàn Thanh Bình cũng không tránh khỏi cuộc cạnh tranh này. Khách sạn luôn tìm cho mình một hướng đi, một vị trí trong ngành thông qua những thành tựu mà khách sạn đã đạt được. Và để đạt được những thành tựu đó khách sạn đã và đang trải qua rất nhiều thử thách. Chúng ta đều biết một sản phẩm dịch vụ muốn được biết đến trên thị trường thì công tác Marketing là rất quan trọng. Nhờ có Marketing mà khách hàng biết đến các dịch vụ, sản phẩm của khách sạn, nâng cao vị thế và hình ảnh của khách sạn trên thị trường. Bên cạnh đó công tác nghiên cứu thị trường của Marketing giúp khách sạn nắm bắt được nhu cầu của khách để xây dựng các sản phẩm, dịch vụ tốt hơn. Qua việc chọn đề tài "Nâng cao hiệu quả hoạt động Marketing nhằm thu hút khách tại khách sạn Du lịch Công đoàn Thanh Bình Đà Nẵng" giúp em có được một cái nhìn tổng quan về Marketing trong các doanh nghiệp kinh doanh du lịch và cụ thể là khách sạn. Nó cũng giúp em có thêm được những bài học, những kinh nghiệm trong công tác Marketing ở các ngành dịch vụ khác. Đó cũng là một trong những lý do mà em chọn đề tài này. Xuất phát từ thực tiễn hoạt động kinh doanh khách sạn, tầm quan trọng của Marketing khách sạn hiện nay và để hiểu sâu hơn vấn đề mà em quan tâm này, em đã lấy đề tài này làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình.Khóa luận tốt nghiệp của em gồm ba phần chính sau: Phần I: Cơ sở lý luận. Phần II: Thực trạng hoạt động Marketing tại khách sạn Du lịch Công Đoàn Thanh Bình Đà Nẵng. Phần III: Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động Marketing tại khách sạn du lịch Công Đoàn Thanh Bình Đà Nẵng.

pdf60 trang | Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 2579 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Nâng cao hiệu quả hoạt động marketing nhằm thu hút khách tại khách sạn du lịch công đoàn Thanh Bình – Đà Nẵng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Khóa luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Thế Tràm SVTH: Nguyễn Thị Lan Hương - B13QTH 1 Luận văn Nâng cao hiệu quả hoạt động Marketing nhằm thu hút khách tại khách sạn Du lịch Công đoàn Thanh Bình Đà Nẵng Khóa luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Thế Tràm SVTH: Nguyễn Thị Lan Hương - B13QTH 2 LỜI NÓI ĐẦU  Trong dự thảo văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX xác định ngành du lịch là nghành kinh tế mũi nhọn. Du lịch góp phần tạo việc làm và mở rộng quan hệ ngoại giao, hội nhập quốc tế đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho đất nước đồng thời phát triển nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Với vị trí và vai trò là ngành kinh tế tổng hợp quan trọng mang nội dung văn hóa sâu sắc, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa càng cao thì du lịch phải không ngừng vươn lên và ghi tiếp những dấu ấn mới. Là một ngành kinh tế đang còn rất trẻ của đất nước, mới bắt đầu phát triển trong những năm gần đây nhưng đã đạt được những thành tựu khả quan, góp phần vào sự nghiệp đổi mới nền kinh tế mà cụ thể là tiêu thụ một lượng lớn hàng hóa của đất nước tại chỗ, giải quyết một lượng lớn lao động mà đất nước đang tìm bài toán để giải quyết, nâng cao cơ sở hạ tầng của đất nước... Bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì bản thân ngành cũng gặp nhiều khó khăn trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình. Muốn tránh tình trạng như vậy thì đòi hỏi ngành phải đẩy mạnh hơn nữa tốc độ phát triển của ngành du lịch Việt Nam trong những năm tới, có như vậy mới đuổi kịp với những nước trong khu vực và trên thế giới. Đồng thời đòi hỏi các đơn vị kinh doanh trong ngành phải phấn đấu kinh doanh có hiệu quả, một phần quan trọng góp phần cho sự phát triển bền vững đó là cần có sự quan tâm, giúp đỡ tận tình của Đảng, cơ quan nhà nước và các chính quyền sở tại về chính sách ưu đãi, về sự lãnh đạo, chỉ đạo... Trong thời gian tới cùng với sự tăng lên về lượng khách đến Việt Nam nói chung, đến với Đà Nẵng nói riêng, đặc biệt là đến với khách sạn Du lịch Công Đoàn Thanh Bình Đà Nẵng, là việc hình thành thêm các cơ sở lưu trú, nhà hàng, khách sạn, các khu vui chơi giải trí, công ty lữ hành...Đặt ra vấn đề nan giải đó là sự cạnh tranh gây gắt giữa các cơ sở kinh doanh du lịch. Đòi hỏi các cơ sở kinh doanh du lịch phải sử dụng nhiều hình thức quảng cáo để thu hút khách về với mình. Khách sạn Du lịch Khóa luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Thế Tràm SVTH: Nguyễn Thị Lan Hương - B13QTH 3 Công Đoàn Thanh Bình cũng không tránh khỏi cuộc cạnh tranh này. Khách sạn luôn tìm cho mình một hướng đi, một vị trí trong ngành thông qua những thành tựu mà khách sạn đã đạt được. Và để đạt được những thành tựu đó khách sạn đã và đang trải qua rất nhiều thử thách. Chúng ta đều biết một sản phẩm dịch vụ muốn được biết đến trên thị trường thì công tác Marketing là rất quan trọng. Nhờ có Marketing mà khách hàng biết đến các dịch vụ, sản phẩm của khách sạn, nâng cao vị thế và hình ảnh của khách sạn trên thị trường. Bên cạnh đó công tác nghiên cứu thị trường của Marketing giúp khách sạn nắm bắt được nhu cầu của khách để xây dựng các sản phẩm, dịch vụ tốt hơn. Qua việc chọn đề tài "Nâng cao hiệu quả hoạt động Marketing nhằm thu hút khách tại khách sạn Du lịch Công đoàn Thanh Bình Đà Nẵng" giúp em có được một cái nhìn tổng quan về Marketing trong các doanh nghiệp kinh doanh du lịch và cụ thể là khách sạn. Nó cũng giúp em có thêm được những bài học, những kinh nghiệm trong công tác Marketing ở các ngành dịch vụ khác. Đó cũng là một trong những lý do mà em chọn đề tài này. Xuất phát từ thực tiễn hoạt động kinh doanh khách sạn, tầm quan trọng của Marketing khách sạn hiện nay và để hiểu sâu hơn vấn đề mà em quan tâm này, em đã lấy đề tài này làm đề tài cho khóa luận tốt nghiệp của mình.Khóa luận tốt nghiệp của em gồm ba phần chính sau: Phần I: Cơ sở lý luận. Phần II: Thực trạng hoạt động Marketing tại khách sạn Du lịch Công Đoàn Thanh Bình Đà Nẵng. Phần III: Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động Marketing tại khách sạn du lịch Công Đoàn Thanh Bình Đà Nẵng. Khóa luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Thế Tràm SVTH: Nguyễn Thị Lan Hương - B13QTH 4 CHƯƠNG I: MỘT SỐ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG MARKETING VÀ MARKETING KHÁCH SẠN. 1.1 Khái niệm hoạt động kinh doanh khách sạn, khái niệm Marketing 1.1.1 Khái niệm hoạt động kinh doanh khách sạn Cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19 đã đánh dấu bước ngoặt của hoạt động kinh doanh khách sạn. Nguyên nhân hình thành bước ngoặt là sự hình thành hình thái kinh tế xã hội mới “Tư bản chủ nghĩa”. Các trung tâm thương nghiệp mới và phương tiện giao thông đường thuỷ, đường sắt thuận tiện đòi hỏi sự phát triển rộng rãi hoạt động kinh doanh khách sạn. Dần dần theo thời gian cùng với nhu cầu phong phú đa dạng của khách, hoạt động kinh doanh khách sạn ngày càng mở rộng và phát triển hơn. Hiện nay trên thế giới có rất nhiều loại khách sạn như khách sạn thành phố, khách sạn nghỉ dưỡng, khách sạn ven đô thị, khách sạn sân bay. Tiêu chí để phân loại hách sạn cũng khác nhau giữa các nước. Tại Tiệp: khách sạn là một phương tiện để lưu trú có trang trí nội thất riêng với khối lượng và mức độ của các dịch vụ phải tương xứng với yêu cầu của 1 trong 5 loại hạng được phân hạng (A, B, A1+, A2+, B1+, B2+) và có ít nhất là 5 phòng. Trong khi đó Pháp lại định nghĩa khách sạn là một cơ sở lưu trú được xếp hạng có các phòng ngủ căn hộ để thỏa mãn nhu cầu lưu trú lại của khách. Ngoài ra còn có nhà hàng để thỏa mãn nhu cầu ăn uống. Theo định nghĩa của Mỹ, khách sạn nơi bất kỳ ai cũng có thể trả tiền để thuê phòng qua đêm. Khách sạn phải bao gồm phòng khách, phòng ngủ với trang thiết bị cần thiết và một hệ thống dịch vụ bổ sung, dịch vụ ăn uống nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu của khách. Kinh doanh khách sạn là một trong những hoạt động chính của ngành kinh doanh du lịch và thực hiện nhiệm vụ của mình trong khuôn khổ của ngành. Vì vậy ta có thể hiểu kinh doanh khách sạn như sau: Kinh doanh khách sạn là một trong những hoạt động kinh doanh các dịch vụ lưu trú, ăn uống và các dịch vụ bổ xung nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng trong thời gian lưu trú tại các khách sạn và mang lại lợi ích kinh tế cho bản thân doanh nghiệp. Khóa luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Thế Tràm SVTH: Nguyễn Thị Lan Hương - B13QTH 5 Kinh doanh khách sạn là một mắt xích quan trọng không thể thiếu trong mạng lưới du lịch của các quốc gia và các điểm du lịch. Cũng chính hoạt động kinh doanh khách sạn đã đem lại một nguồn lợi đáng kể cho nền kinh tế quốc dân như nguồn ngoại tệ lớn, giải quyết công ăn việc làm, thay đổi cơ cấu đầu tư, tăng thu nhập cho các vùng địa phương v.v... Mặc dù vậy không thể nhìn nhận hoạt động kinh doanh khách sạn mang lại lợi nhuận khổng lồ mà phải có sự nhìn nhận thật đúng đắn về cơ hội đầu tư, khả năng đầu tư vào hoạt động này. 1.1.2 Khái niệm về Marketing Vẫn còn không ít người cho rằng Marketing là tiếp thị, chào hàng là bán hàng và các hoạt động kích thích tiêu thụ. Thực ra tiếp thị và các hoạt động kích thích tiêu thụ chỉ là một trong những khâu cuối cùng của một chuỗi các hoạt động Marketing. Hơn nữa, đó không phải là khâu then chốt nhất của hoạt động Marketing. Nếu sản phẩm không phù hợp với yêu cầu của khách hàng, chất lượng thấp hoặc giá cả không hợp lý ... thì dù cho doanh nghiệp có tốn thật nhiều công sức và tiền bạc để thuyết phục khách hàng thì lượng sản phẩm bán ra vẫn rất hạn chế. Nhưng nếu như xuất phát từ nhận thức chính xác về nhu cầu của khách hàng và tạo ra những sản phẩm phù hợp với một mức giá hợp lý cùng phương thức phân phối hiệu quả, các chương trình truyền thông hấp dẫn thì việc tiêu thụ các sản phẩm sẽ không quá khó khăn. Đó chính là những biểu hiện cụ thể của Marketing hiện đại. Ta có thể thấy một số định nghĩa điển hình về Marketing như sau: - Theo Phillip Kotler “Marketing là những hoạt động của con người hướng vào việc đáp ứng những nhu cầu và ước muốn của người tiêu dùng thông qua quá trình trao đổi. - Định nghĩa của viện marketing Anh “Marketing là quá trình tổ chức và quản lý toàn bộ hoạt động kinh doanh từ việc phát hiện ra và biến sức mua của người tiêu dùng thành nhu cầu thực sự về một mặt hàng cụ thể, đến sản xuất và đưa hàng hoá đến người tiêu dùng cuối cùng nhằm đảm bảo cho công ty thu được lợi nhuận như dự kiến - Định nghĩa của AMA (1985) “Marketing là một quá trình lập ra kế hoạch và thực hiện các chính sách sản phẩm, giá, phân phối, xúc tiến và hỗ trợ kinh doanh của Khóa luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Thế Tràm SVTH: Nguyễn Thị Lan Hương - B13QTH 6 của hàng hoá, ý tưởng hay dịch vụ để tiến hành hoạt động trao đổi nhằm thoả mãn mục đích của các tổ chức và cá nhân” - Theo I. Ansoff, một chuyên gia nghiên cứu marketing của LHQ, một khái niệm được nhiều nhà nghiên cứu hiện nay cho là khá đầy đủ, thể hiện tư duy marketing hiện đại và đang được chấp nhận rộng rãi: “Marketing là khoa học điều hành toàn bộ hoạt động kinh doanh kể từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ, nó căn cứ vào nhu cầu biến động của thị trường hay nói khác đi là lấy thị trường làm định hướng” Tóm lại, Marketing là quá trình doanh nghiệp thích nghi với thị trường, tạo ra các cuộc trao đổi nhằm thoả mãn nhu cầu và mong muốn của khách hàng. Quá trình này bắt đầu từ việc doanh nghiệp phát hiện được những nhu cầu và mong muốn của con người phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp, qua đó xác định được cách thoả mãn nhu cầu và mong muốn ấy một cách có hiệu quả nhất. 1.1.3 Khái niệm Marketing khách sạn Có nhiều khái niệm về marketing khách sạn nhưng tựu chung lại trọng tâm của hoạt động marketing hiệu quả là hướng về người tiêu dùng. Các doanh nghiệp khách sạn du lịch nghiên cứu tìm hiểu những gì mà khách cần sau đó cung cấp các sản phẩm hoặc dịch vụ có thể thoả mãn nhu cầu này. Theo WTO ( tổ chức du lịch thế giới ): Marketing khách sạn - du lịch là một loại phương pháp và kỹ thuật được hỗ trợ bằng một tinh thần đặc biệt và có phương pháp nhằm thoả mãn các nhu cầu không nói ra của khách hàng, có thể là những mục đích tiêu khiển hoặc những mục đích khác. 1.1.4 Nội dung của Marketing khách sạn * Bản chất vô hình của dịch vụ Kinh doanh khách sạn du lịch là hướng vào dịch vụ. Do đó các sản phẩm dịch vụ vô hình. Nếu như là một sản phẩm hàng hoá thì ta có thể xem xét, kiểm tra, thử để đánh gía chất lượng đó có tốt hay không nhưng đối với dịch vụ chúng ta không thể làm vậy chỉ trừ khi chúng ta trực tiếp trải qua mới đánh giá được. Một sản phẩm hữu hình có thể đo lường về những chi tiết thiết kế và vật liệu mà có thể đưa ra cho người tiêu dùng. Tuy nhiên các dịch vụ được cung cấp bởi một khu Khóa luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Thế Tràm SVTH: Nguyễn Thị Lan Hương - B13QTH 7 nghỉ mát trừu tượng hơn. Sự cảm nhận về văn phong hoặc sự không thân thiện của nhân viên không thể được xem xét và đánh giá kỹ trước một chuyến đi, do đó phải dựa vào kinh nghiệm của những người đã sử dụng dịch vụ này. Khi đến một nơi nghỉ mát người ta không bán nơi lưu trú mà bán những trải nghiệm: các hoạt động, các ký ức, các cơ hội học hỏi để giao tiếp xã hội hay để được một mình. Đây là tính cơ bản cần tập trung trong quảng cáo du lịch. * Phương thức sản xuất Kinh doanh khách sạn cũng được coi là đơn vị sản xuất hàng hoá, đó là những sản phẩm dịch vụ. Sản phẩm hàng hoá được sản xuất và chế tạo ở một nơi sau đó được vận chuyển đến các địa điểm khác nhau và tiêu thụ thông qua các kênh phân phối. Người tiêu dùng có thể ở bất cứ nơi đâu cũng có thể tiêu dùng sản phẩm đó. Nhưng với dịch vụ thì không thể như vậy, hầu hết chúng được sản xuất và tiêu thụ cùng một nơi. Khách cần phải đến khách sạn mới được hưởng các dịch vụ ở đó. * Tính không đồng nhất Điều này được thể hiện rất rõ đó là khách hàng có tính chất quyết định vào việc tạo ra sản phẩm dịch vụ. Nếu có khách hàng thì sản phẩm dịch vụ mới được tạo ra. Do vậy các doanh nghiệp khách sạn du lịch thường cố gắng tiêu chuẩn hoá các dịch vụ. Nhưng điều đó không thật dễ dàng vì dịch vụ bị cá nhân hoá. Chẳng hạn, hai khách hàng cùng nghỉ ở cùng một khách sạn, hạng phòng như nhau, tiêu chuẩn phục vụ như nhau nhưng họ có ý kiến đánh giá hoàn toàn khác nhau về dịch vụ, nó hoàn toàn phụ thuộc vào kinh nghiệm của bản thân và tâm lý của khách du lịch. Nguyên nhân có thể do thái độ phục vụ của nhân viên hoặc do môi trường khách quan đã làm ảnh hưởng đến mục tiêu Marketing của khách sạn. * Tính dễ hư hỏng và không cất giữ được Vì tính đồng thời vừa sản xuất và vừa tiêu dùng dịch vụ cho nên nó không giống như hàng hoá có thể đem cất, lưu kho khi chưa bán được mà nó sẽ mất đi ngay sau đó. Trong kinh doanh khách sạn cũng vậy, phòng khách sạn khi bị bỏ phí qua một đêm nó không thể bán lại được và hàng loạt các chi phí khác cũng mất. Tương tự như vậy, thời Khóa luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Thế Tràm SVTH: Nguyễn Thị Lan Hương - B13QTH 8 gian của các nhân viên phục vụ du lịch không thể để dành lúc cao điểm, phòng khách sạn không thể để dành phục vụ lúc đông khách. * Thời gian tiếp cận với các dịch vụ ngắn hơn Khi người ta mua một loại hàng hoá ta có thể dùng nó hàng tuần, hàng tháng hoặc lâu bền như ô tô, tủ lạnh...Nhưng đối với dịch vụ khách sạn thì ngắn hơn, khách chỉ đến nhà hàng hay khách sạn để ăn uống, dự hội nghị, tiệc, lưu trú.... khách không hài lòng thì cũng không thể trả lại hoặc đổi lại dịch vụ khác. * Đa dạng và nhiều loại kênh phân phối hơn Trong kinh doanh khách sạn du lịch thay vì hệ thống phân phối dày đặc như hàng hoá: từ sản xuất -> các đại lý cấp một -> đại lý cấp hai -> cửa hàng bán lẻ. Ngành khách sạn du lịch có một hệ thống đặc trưng các trung gian mô giới về lữ hành gồm các đại lý lữ hành các công ty cùng đưa ra các chương trình nghỉ trọn gói tác động lên những gì khách sẽ mua. Khách hàng sẽ nhìn họ như những chuyên gia và có thể tiếp thu những khuyến dụ của họ một cách nghiêm túc. * Sự phụ thuộc nhiều hơn vào dịch vụ bổ trợ Một dịch vụ du lịch có thể bắt đầu từ khi khách hàng nhìn thấy quảng cáo về một điểm du lịch cụ thể. Khi đó khách hàng có thể đến công ty lữ hành để có thêm thông tin chi tiết và lời khuyên. Trong chuyến đi, khách không chỉ đơn thuần là ăn, uống, lưu trú mà họ còn tham gia rất nhiều dịch vụ khác nhau để làm cho chuyến đi hấp dẫn hơn. Vì vậy buộc phải có sự hỗ trợ lẫn nhau giữa các cơ sở dịch vụ khác nhau để đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách như dịch vụ mua vé máy bay, đi mua sắm, thuê ô tô... * Việc sao chép các dịch vụ dễ dàng hơn Hầu hết các dịch vụ lữ hành và khách sạn đều dễ bị sao chép, chẳng hạn như công thức một món ăn, phong cách phục vụ hay một sản phẩm dịch vụ mới....vì không thể cấm khách hàng các đối thủ cạnh tranh vào nơi mà có dịch vụ được tiêu dùng giống như nơi sản xuất hàng hoá của đơn vị sản xuất trong khi đó tại nơi sản xuất các hàng hoá cụ thể để giữ bí mật sản xuất các đối thủ cạnh tranh có thể không được vào nhà máy, các xí nghiệp. Khóa luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Thế Tràm SVTH: Nguyễn Thị Lan Hương - B13QTH 9 1.2 Vai trò của hoạt động Marketing “Marketing là một chức năng của tổ chức và chuỗi các quy trình tạo dựng, giao tiếp và tạo ra các giá trị cho khách hàng cũng như việc quản lý các quan hệ khách hàng theo những phương thức tạo ra lợi ích cho tổ chức và các bên có quyền lợi liên quan của tổ chức”. Như vậy, marketing hiện nay là việc tìm hiểu nhu cầu khách hàng, thiết kế và tạo ra sản phẩm như thế nào để thoả mãn nhu cầu đó và đem lại lợi nhuận cho nhà sản xuất. Thay vì chỉ chú trọng đến việc sản xuất, công ty phải quan tâm đến yêu cầu của khách hàng và công việc này thì khó hơn vì nó liên quan đến tâm lý của con người. Do đó, những đòi hỏi của thị trường là khía cạnh quan trọng của marketing hiện đại và nó phải được xem xét trước quá trình sản xuất. Do đó marketing hiện đại là một hệ thống kết hợp của nhiều hoạt động kinh tế, nhưng nói một cách cơ bản marketing gồm có bốn việc: bán đúng sản phẩm đến thị trường đang cần nó, bán sản phẩm với một giá được xác định theo nhu cầu, thoả mãn nhu cầu của khách hàng và tạo ra lợi nhuận cho nhà sản xuất. Có thể thấy, công việc quan trọng nhất của marketing là tạo ra các giá trị cho khách hàng, thực hiện các cam kết, đem lại sự hài lòng và tạo ra lòng trung thành của khách hàng. Marketing được dùng như “một người đóng thế” cho khách hàng, đưa ra hướng phát triển sản phẩm và có chức năng thể hiện những gì khách hàng muốn và có nhu cầu. Quan trọng hơn, marketing được xem như là “tiếng nói của khách hàng” và bao gồm các hoạt động triển khai và thực thi các quá trình để nắm bắt nhu cầu của khách hàng. Nhờ đó, mà công ty có thể cung cấp sản phẩm/dịch vụ cho khách hàng với chất lượng tốt nhất. Một sản phẩm mới muốn phát triển được phụ thuộc rất nhiều vào việc tổng hợp mọi sự hiểu biết về nhu cầu của thị trường và cách thức làm thế nào để tạo ra một sản phẩm đáp ứng những nhu cầu đó. Nếu như nắm giữ được những bí mật của khách hàng và thị trường, marketing sẽ có cơ hội tạo ra những ảnh hưởng tích cực đến sự đổi mới và phát triển các sản phẩm/dịch vụ mới. Quy trình đó như sau: các ý nghĩ trong đầu khách được “biến” hàng thành ý tưởng kinh doanh, và tiếp theo marketing biến những Khóa luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Thế Tràm SVTH: Nguyễn Thị Lan Hương - B13QTH 10 ý tưởng kinh doanh thành một sản phẩm mới. Và khi tạo ra được một sản phẩm/dịch vụ mới đáp ứng nhu cầu của khách hàng, thì giá trị công ty cũng tăng theo. Trong nhiều công ty, marketing đã bị tước đi vai trò thúc đẩy tiến trình phát triển sản phẩm, và thay thế vào đó là vai trò phát hành báo chí và phối hợp tổ chức các sự kiện liên quan đến việc đưa sản phẩm mới ra thị trường. Khi mà trách nhiệm cơ bản nhất của một tổ chức là phân đoạn thị trường, lựa chọn đúng các thị trường mục tiêu, xác định các nhu cầu tiềm ẩn và biến thành sản phẩm để tung ra thị trường mục tiêu, thì trách nhiệm của marketing ở đây phải là nắm bắt, phân tích, và định lượng những số liệu về ai sẽ mua các sản phẩm/dịch vụ mới của công ty mình. Marketing cần phải hiểu rõ không chỉ ai sẽ là người mua, mà họ sẽ mua bao nhiêu, tại sao họ lại mua. Đây chính là những nhiệm vụ của marketing. Những vấn đề bên trong này không chỉ tạo ra hay phá hủy một sản phẩm mới, chúng còn có thể tạo ra hay phá hủy cả một công ty. Marketing ngày nay đóng một vai trò trung tâm trong việc dịch chuyển thông tin khách hàng thành các sản phẩm/dich vụ mới và sau đó định vị những sản phẩm này trên thị trường. Các sản phẩm/dịch vụ mới là câu trả lời của các công ty trước sự thay đổi sở thích của khách hàng và cũng là động lực của sự cạnh tranh. Vì nhu cầu của khách hàng thay đổi, nên các công ty phải đổi mới để làm hài lòng và đáp ứng sự thay đổi đó. Nhiệm vụ của marketing là xác định nhu cầu của khách hàng, nên marketing phải đóng vai trò thiết lập và lãnh đạo tiến trình đổi mới. Nhiều nghiên cứu khác nhau cũng chỉ ra rằng trong nhiều công ty hoạt động marketing đã thúc đẩy tiến trình thực hiện các sản phẩm mới. Đồng thời trong các nghiên cứu này cũng cho thấy sự hội nhập của marketing với các nhóm chức năng khác như nghiên cứu và phát triển, trở thành một trong số những nhân tố quan trọng nhất tác động đến sự thành công của một sản phẩm mới. Marketing sẽ giúp công ty chỉ ra được những xu hướng mới và sau đó nhanh chóng trở thành một đòn bẩy, biến chúng thành các cơ hội. 1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động Marketing khách sạn Cũng như các lĩnh vực kinh doanh khác Marketing khách sạn chịu sự ảnh hưởng của các nhân tố vĩ mô và vi mô như sau Khóa luận tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Nguyễn Thế Tràm SVTH: Nguyễn Thị Lan Hương - B13QTH 11 1.3.1 Các nhân tố vĩ mô - Thể chế- Luật pháp: Đây là yếu tố có tầm ảnh hưởng tới tất cả các ngành kinh doanh trên một lãnh thổ, các yếu tố thể chế, luật pháp có thể uy hiếp đến khả