Khóa luận Những mảng tối của toàn cầu hóa và giải pháp của Việt Nam trong tiến trình hội nhập

Toàn cầu hoá (TCH) là một quá trình chung đang diễn ra với qui mô toàn cầu, nó được coi là một tiến trình lịch sử. Đặc biệt, từ sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, với những biến động của hệ thống kinh tế - Chính trị - Xã hội quốc tế và việc xảy ra hàng loạt loại biến cố mang tầm lịch sử, càng ngày người ta càng cảm nhận đầy đủ hơn, ảnh hưởng của những xu thế khác nhau, thậm chí đối nghịch nhau. Do tầm quan trọng và tính bao trùm của nó, xu hướng TCH được coi là một vấn đề trung tâm cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn trên toàn thế giới. TCH trên thực tế, là xu hướng được khởi xướng từ các nước phát triển. Nhưng cho đến nay nó đã và đang kéo các nước, kể cả các nước chậm phát triển vào quỹ đạo của mình như một tất yếu lịch sử. Nó đang định ra những nguyên tắc mới cho “cuộc chơi” trên bàn cờ thế giới, chung cho tất cả các nước mà không phân biệt lớn hay nhỏ, phát triển hay kém phát triển. Đặc biệt với những nước chậm phát triển thì có thể khó khăn hơn khi giải quyết các vấn đề nhập vào xu hướng TCH, nhưng cũng không thể lảng tránh nó. Vấn đề đặt ra là chỉ có thể đối mặt với nó như thế nào để mỗi dân tộc giảm thiểu được những tiêu cực phát sinh từ đó, thu được hiệu quả phát triển tối đa trong khi vẫn bảo vệ được con đường phát triển đã lựa chọn. Đối với Việt Nam, sau hơn 20 năm đổi mới đã gặt hái được nhiều thành công rực rỡ. Nền kinh tế vận hành theo kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xu hướng này cũng tác động rất mạnh có ảnh hưởng to lớn và toàn diện đến tất cả các khía cạnh của đời sống Kinh tế - Chính trị - Xã hội. Hiện nay, càng tiến sâu vào quá trình hội nhập Quốc tế, chúng ta càng cảm nhận rõ hơn những mặt tích cực của tác động này, đồng thời là những tác động tiêu cực đó do chính xu hướng này tạo ra, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Á (1997) cho thấy rõ điều đó. Thế kỷ XXI mở ra thời kỳ mới với những vận hội mới và thách thức mới, nước ra đang từng bước chuyển chất lượng của tiến trình phát triển, bao gồm các bước hội nhập quốc tế về thực chất như thực hiện các quy chế AFTA, APEC, WTO, thiết lập quan hệ thương mại Việt- Mỹ. Việc khảo cứu xu hướng TCH càng cần được coi là một trong những cơ sở quan trọng để thiết kế đường lối và hoạch định chiến lược phát triển đất nước trên những chặng đường phía trước. Với mong muốn hiểu rõ hơn và đầy đủ hơn bản chất của TCH đặc biệt ngoài những mặt tích cực dễ nhận thấy là những tác động tiêu cực. Vì vậy, đề tài: “Những mảng tối của TCH và giải pháp của Việt Nam trong tiến trình hội nhập” được tác giả chọn nghiên cứu. Ngoài lời mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, khoá luận được trình bày trong 3 chương: Chương 1: Toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Chương 2: Những mảng tối của TCH Chương 3: Giải pháp của Việt Nam trong tiến trình hội nhập.

pdf70 trang | Chia sẻ: franklove | Lượt xem: 3351 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Những mảng tối của toàn cầu hóa và giải pháp của Việt Nam trong tiến trình hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 Luận văn Những mảng tối của TCH và giải pháp của Việt Nam trong tiến trình hội nhập 2 LỜI NÓI ĐẦU Toàn cầu hoá (TCH) là một quá trình chung đang diễn ra với qui mô toàn cầu, nó được coi là một tiến trình lịch sử. Đặc biệt, từ sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, với những biến động của hệ thống kinh tế - Chính trị - Xã hội quốc tế và việc xảy ra hàng loạt loại biến cố mang tầm lịch sử, càng ngày người ta càng cảm nhận đầy đủ hơn, ảnh hưởng của những xu thế khác nhau, thậm chí đối nghịch nhau. Do tầm quan trọng và tính bao trùm của nó, xu hướng TCH được coi là một vấn đề trung tâm cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn trên toàn thế giới. TCH trên thực tế, là xu hướng được khởi xướng từ các nước phát triển. Nhưng cho đến nay nó đã và đang kéo các nước, kể cả các nước chậm phát triển vào quỹ đạo của mình như một tất yếu lịch sử. Nó đang định ra những nguyên tắc mới cho “cuộc chơi” trên bàn cờ thế giới, chung cho tất cả các nước mà không phân biệt lớn hay nhỏ, phát triển hay kém phát triển. Đặc biệt với những nước chậm phát triển thì có thể khó khăn hơn khi giải quyết các vấn đề nhập vào xu hướng TCH, nhưng cũng không thể lảng tránh nó. Vấn đề đặt ra là chỉ có thể đối mặt với nó như thế nào để mỗi dân tộc giảm thiểu được những tiêu cực phát sinh từ đó, thu được hiệu quả phát triển tối đa trong khi vẫn bảo vệ được con đường phát triển đã lựa chọn. Đối với Việt Nam, sau hơn 20 năm đổi mới đã gặt hái được nhiều thành công rực rỡ. Nền kinh tế vận hành theo kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xu hướng này cũng tác động rất mạnh có ảnh hưởng to lớn và toàn diện đến tất cả các khía cạnh của đời sống Kinh tế - Chính trị - Xã hội. Hiện nay, càng tiến sâu vào quá trình hội nhập Quốc tế, chúng ta càng cảm nhận rõ hơn những mặt tích cực của tác động này, đồng thời là những tác động tiêu cực đó do chính xu hướng này tạo ra, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Đông Á (1997) cho thấy rõ điều đó. Thế kỷ XXI mở ra thời kỳ mới với những vận hội mới và thách thức mới, nước ra đang từng bước chuyển chất lượng của tiến trình phát triển, bao gồm các bước hội nhập quốc tế về thực chất như thực hiện các quy chế AFTA, APEC, WTO, thiết lập quan hệ thương mại Việt- Mỹ. Việc khảo cứu xu hướng TCH càng 3 cần được coi là một trong những cơ sở quan trọng để thiết kế đường lối và hoạch định chiến lược phát triển đất nước trên những chặng đường phía trước. Với mong muốn hiểu rõ hơn và đầy đủ hơn bản chất của TCH đặc biệt ngoài những mặt tích cực dễ nhận thấy là những tác động tiêu cực. Vì vậy, đề tài: “Những mảng tối của TCH và giải pháp của Việt Nam trong tiến trình hội nhập” được tác giả chọn nghiên cứu. Ngoài lời mở đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, khoá luận được trình bày trong 3 chương: Chương 1: Toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Chương 2: Những mảng tối của TCH Chương 3: Giải pháp của Việt Nam trong tiến trình hội nhập. CHƯƠNG 1 TOÀN CẦU HOÁ 4 VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM 1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TOÀN CẦU HOÁ (TCH). TCH và hội nhập quốc tế trong những năm gần đây trở thành đề tài được đông đảo các nhà chính trị, các học giả, các nhà kinh doanh và dân chúng quan tâm đặc biệt. Vậy TCH là gì? Biểu hiện của nó ra sao? và tác động của nó như thế nào? 1.1.1. TCH là gì ? TCH là một xu thế, một quá trình lịch sử, nhưng trong giai đoạn hiện nay vẫn đang tiếp diễn, đang vận động phát triển rất nhanh và phức tạp. Do thế giới quan, nhân sinh quan chính trị - tư tưởng khác nhau hoặc do phương pháp tiếp cận, góc độ tiếp cận vấn đề khác nhau mà hiện có nhiều cách lý giải khác nhau, nhiều định nghĩa khác nhau về TCH. Cho đến nay, giữa các nhà nghiên cứu và hoạt động thực tiễn của Việt Nam cũng như trên thế giới chưa có sự thống nhất về khái niệm “TCH” (Globalization hay Mondialisation). Có thể nêu ra một số định nghĩa về TCH như sau: - TCH là quá trình chuyên môn hoá các yếu tố riêng của mỗi quốc gia dân tộc thành các yếu tố chung mà mọi quốc gia đều chấp nhận. Đó là quá trình tăng dần những mối quan hệ, sự ảnh hưởng, tác động qua lại và phụ thuộc lẫn nhau giữa tất cả những sản phẩm, những thành quả riêng có tính đặc thù của từng đơn vị xã hội trên toàn cầu theo hướng ngày càng xích lại gần nhau, tìm tới nhau, tạo thành những giá trị chung nhất, giá trị phổ quát có ý nghĩa toàn nhân loại. Toàn cầu hoá như vậy cũng có thể gọi là xã hội hoá, cộng đồng hoá, quốc tế hoá (GS.TS. Nguyễn Văn Huyên). - TCH là những quá trình mà thông qua đó thị trường và sản xuất ở nhiều nước khác nhau đang ngày càng trở nên phục thuộc lẫn nhau do có sự năng động của việc buôn bán hàng hoá và dịch vụ cũng như có sự lưu thông vốn tư bản và công nghệ. Đây không phải là một hiện tượng mới mà là sự tiếp tục của một tiến trình đã được khơi mào từ lâu (Uỷ ban châu Âu). 5 - TCH là quá trình hoạt động bành trướng của các công ty xuyên quốc gia, là một thứ thiết chế và liên kết kinh tế của giới xuyên quốc gia trong quá trình tích tụ lực lượng nhằm đạt tới những tăng trưởng vững chắc (S.Herman). - TCH là một xu hướng chính trị, là xu hướng bành trướng quyền lực của Mỹ ra toàn thế giới nhằm mục đích thống trị thế giới. TCH hiện nay thực chất là Mỹ hoá các mặt đời sống xã hội loài người, từ chính trị, kinh tế đến văn hoá, hệ giá trị ( GS Jean Marie Guihenno). - TCH là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hoá, kinh tế, v.v… trên quy mô toàn cầu. Đặc biệt trong phạm vi kinh tế, TCH hầu như được dùng chỉ các tác động của thương mại nói chung và tự do hoá thương mại hay “Tự do thương mại” nói riêng. Cũng ở góc độ kinh tế, người ta chỉ thấy các dòng chảy tư bản là quy mô toàn cầu kéo theo các dòng chảy thương mại, kỹ thuật, công nghệ thông tin, văn hoá. Từ các quan điểm, quan niệm các cách tiếp cận khác nhau về vấn đề TCH có thế rút ra một quan điểm chung: TCH là kết quả của sự phát triển cao của lực lượng sản xuất và sự gia tăng của mối liên hệ, liên kết, sự tuỳ thuộc và chế ước lẫn nhau giữa tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế. Có thể định nghĩa TCH là quá trình phổ biến hoá trên phạm vi toàn cầu những giá trị, hoạt động, mô hình. (Kinh tế, xã hội, văn hoá, chính trị, khoa học - kỹ thuật, công nghệ …) nhất định (1) . Một cách khách quan nhất TCH là sự phụ thuộc qua lại không ngừng giữa các quốc gia và các cá nhân sự phụ thuộc này có thể xảy ra trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, công nghệ, môi trường văn hoá hay xã hội… rõ ràng cần phân biệt TCH kinh tế với khái niệm rộng hơn là TCH nói chung. TCH bắt đầu từ lĩnh vực kinh tế kéo theo các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, và cho đến nay vẫn chủ yếu là TCH kinh tế. TCH là sự gia tăng hoạt động (1) PGS.TS.Trình Mưu - Nguyễn Hoàng Giáp, Quan hệ quốc tế và chính sách đối ngoại Việt Nam, Nxb lý luận chính trị, HN- 2006. Tr63. 6 kinh tế xuyên quốc gia để vươn tới quy mô toàn cầu, là sự nhất thể hoá về thị trường, vốn, sức lao động, dịch vụ, công nghệ và các quy mô pháp chế kinh tế giữa các nước trên thế giới trên cơ sở hợp tác và phân công lao động quốc tế sâu rộng. 1.1.2. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của toàn cầu hoá. 1.1.2.1. Cơ sở lý luận - Cơ sở lý luận quan trọng của toàn cầu hoá là lý thuyết về lợi thế so sánh do Adam Smith nêu ra năm 1776 và sau này David Ricado (1987) đã bổ xung thêm trong lý thuyết so sánh này có bốn điểm quan trọng: Thứ 1: Thương mại tự do làm cho sản xuất có hiệu quả cao hơn. Thứ 2: Thương mại tự do làm cho tiêu dùng có hiệu quả cao hơn. Thứ 3: Thương mại tự do làm cho cạnh tranh mạnh mẽ hơn, làm tăng trưởng kinh tế. Thứ 4: Thương mại tự do thúc đẩy quá trình đổi mới. Mọi quốc gia và công ty tham gia vào TCH đều chịu tác động theo 4 hướng trên. - Cơ sở lý luận thực tiễn đó là lý thuyết về kinh tế thị trường. Trước hết là những quy tắc của kinh tế thị trường bao gồm : sự đối xử về kinh doanh về quyền kinh doanh đối với công ty trong và ngoài nước, một đồng tiền quốc gia chuyển đổi tiêu dùng, tác dụng giá cả, lãi suất, tác dụng thương mại ... Đây chính là một nguồn lực phát triển cho mọi quốc gia . - Cơ sở lý luận đó là lý thuyết thế, chế trong điều kiện kinh tế thị trường hội nhập quốc tế những thể chế này có 5 hình thức : thể hiện tiền tệ, quan hệ lao động, quan hệ cạnh tranh, phương thức hội nhập quốc tế, bản chất và hình thức nhà nước. Có thể còn những cơ sở lý luận khác nữa, nhưng ba lý luận trên đã và sẽ là cơ sở quan trọng cho quá trình TCH và hội nhập kinh tế quốc tế và đại biểu cho quá trình này đi theo hướng tiến bộ phù hợp với lợi ích của các quốc gia. 1.1.2.2. Những cơ sở thực tiễn 7 - Công nghệ toàn cầu là cơ sở quan trọng đầu tiên đặt nền tảng cho sự đẩy mạnh mẽ quá trình TCH. Trong những thập kỷ gần đây công nghệ thông tin và vận tải có những tiến bộ vượt bậc, đã làm giảm rất nhiều chi phí vận tải quốc tế và liên lạc viễn thông quốc tế. Tiến bộ công nghệ này đã có tác động cực kỳ quan trọng đến toàn bộ quan hệ kinh tế quốc tế, nó đã biến các công nghệ quốc gia thành công nghệ toàn cầu. Nhờ đó sự hợp tác giữa các quốc gia có thể mở rộng trên phạm vi toàn cầu. - Các quan hệ kinh tế toàn cầu ngày càng phát triển. - Những vấn đề kinh tế toàn cầu ngày càng xuất hiện nhiều và trở nên bức xúc, ngày càng đòi hỏi phải có sự phối hợp toàn cầu của các quốc gia. Các vấn đề kinh tế toàn cầu như : thương mại, điện tử, tiền tệ, dân số, lương thực, năng lượng, môi trường ... 1.1.3. Biểu hiện của toàn cầu hoá. Những tiến bộ vượt bậc của công nghệ gần đây đã tạo ra cơ hội cực kỳ lớn đối với quá trình phát triển của con người. Tuy nhiên, những thành tựu đó có mang lại lợi ích thiết thực cho nhân loại, cho cộng đồng quốc tế hay không còn tuỳ thuộc vào cách sử dụng và mục đích sử dụng của mỗi con người và mỗi quốc gia. Nền kinh tế tri thức phát triển nhanh chóng từ công nghệ mới, hiện tại nó đang giữ vị trí hàng đầu trong quá trình tương tác toàn cầu. Do đó gần đây nhiều quốc gia công nghiệp đang tập chung chú ý vào công nghệ. Công nghệ có tác dụng đột phá trong kinh tế tri thức là công nghệ thông tin kết hợp với truyền thông và sinh học.Các công nghệ đó đều có bước nhảy vọt căn bản trong quá trình đổi mới thể hiện ở hai mặt. Thứ nhất, thực hiện các cách thức và công việc cũ một cách nhanh chóng và thuận lợi. Thứ hai, tạo ra cách thức nghề nghiệp hoàn toàn mới mà trước đây loài người chưa thể hình dung ra được. Sự kết hợp giữa công nghệ thông tin và truyền thông đã tạo ra Internet. Chính hệ thống này đã loại bỏ các yếu tố mà trước đây con người khó vượt qua như yếu tố chi phí, không gian, thời gian và đang mở ra kỷ nguyên mạng thông tin toàn cầu lấy thị trường toàn cầu là mục tiêu và động lực phát triển. Công nghệ thông tin đã làm thay đổi 8 phương thức sản xuất, hình thức kinh doanh, và đổi mới môi trường cạnh tranh kinh tế. Công nghệ sinh học tạo ra các khả năng nhận biết và chuyển dịch giữa các loại vật liệu và các loài sinh vật. Do đó, nó đã phá vỡ giới hạn tự nhiên, tạo ra những cơ thể mới, tạo ra mối liên kết giữa các nhà sản xuất và những người nông dân bản địa tại những quốc gia giàu tài nguyên và mối liên hệ giữa ngành nông nghiệp với các ngành công nghiệp như hoá dược, chế biến thực phẩm …Kinh tế tri thức phát triển nhanh trên cơ sở công nghệ mới,do đó tri thức trở thành tài sản quý giá. Trong giai đoạn hiện nay, với tiền đề về vật chất, thể chế, pháp lý, kinh nghiệm…, do quá trình quốc tế hoá, khu vực hoá tạo ra, đồng thời với sự tác động của các yếu tố kinh tế, khoa học công nghệ, chính trị… đã đẩy mạnh xu thế TCH với những biểu hiện cụ thể. 1.1.3.1. Nền sản xuất dựa trên sự phân công lao động quốc tế rộng rãi. Ngày nay đa số các sản phẩm hàng hóa dù giản đơn hay phức tạp đều không phải do một người sản xuất ra, mà thường do nhiều người, nhiều xí nghiệp thậm chí nhiều quốc gia cùng hợp tác sản xuất. Ví dụ như : về mặt kỹ thuật chiếc xe Toyota gồm khoảng 20.000 chi tiết cấu thành và do hơn 105 công ty khác nhau cùng tham gia sản xuất, hay một máy bay Boeing gồm hàng chục vạn chi tiết và nó là sản phẩm của trên 600 công ty được đặt ở 29 quốc gia khác nhau cùng hợp tác sản xuất. Điều này do quy luật phân công hợp tác lao động ngày càng phát triển, nó không chỉ diễn ra trong phạm vi từng ngành, từng quốc gia mà đã mang tầm quốc tế, tính toàn cầu. Do lợi thế tự nhiên về tài nguyên và trình độ kỹ thuật cũng như dân trí của mỗi nước là khác nhau do đó chuyên môn hoá sản xuất là tất yếu đã tạo tiền đề và cơ sở cho trao đổi thương mại quốc tế, hình thành các mạng sản xuất và phân phối toàn cầu. Giờ đây mỗi doanh nghiệp, mỗi quốc gia trở thành một mắt xích trong dây chuyền giá trị hàng hóa. Quá trình này phản ánh tính hai mặt của hội nhập : Một mặt tạo lợi thế cho các nước phát huy đầy đủ ưu thế của sản xuất như tiết kiệm lao động, giảm chi phí đầu vào, phân bổ và hình thành cơ cấu sản xuất tối ưu 9 để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh; mặt khác, tạo ra sự liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày chặt chẽ, nước nào có quy mô sở hữu vốn, kỹ thuật và trí tuệ ở trình độ cao sẽ có ưu thế, các nước nghèo dân trí thấp, kỹ thuật lạc hậu, sở hữu vốn nhỏ bé sẽ phải tiếp tục đương đầu với những khó khăn và sự thách đố ngày càng gay gắt của sự cạnh tranh quốc tế. 1.1.3.2. Sự lưu chuyển nhanh chóng và khổng lồ về hàng hoá, dịch vụ, đầu tư, tài chính - tiền tệ, công nghệ … trên phạm vi toàn cầu. Thương mại quốc tế ngày càng được mở rộng và gia tăng với tốc độ cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế. Chỉ tính khoảng thời gian 50 năm trở lại đây, GDP tăng lên khoảng 4 lần thì tăng trưởng thương mại khoảng 16 lần. Thập niên 90 vừa qua, thương mại quốc tế tăng bình quân 6% trong khi đó tổng sản phẩm quốc nội chỉ tăng khoảng 2%. Thương mại quốc tế phát triển nhanh chóng trở thành sợi dây liên kết quan trọng gắn bó nền kinh tế của các nước trên thế giới, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ thế giới tăng không ngừng: Năm 1950 là 61 tỷ USD; năm 1970 là 315 tỷ USD; năm 1990 là 3447 tỷ USD; năm 2005 con số đó là 10.160 tỷ USD (2). Sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin đã tạo tiền đề hiện thực cho một cuộc cách mạng mới trong quản lý mà trước hết là một cuộc cách mạng về các quan niệm. Từ sự xuất hiện của Internet dẫn đến sự ra đời của thương mại điện tử và do đó quy mô thương mại điện tử đang tăng lên chóng mặt, đã đạt tới hàng ngàn tỷ USD ở thời điểm hiện nay. Đầu tư nước ngoài tăng lên nhanh chóng: Năm 1960 tổng FDI quốc tế là 80 tỷ USD; Năm 1980 là 502 tỷ USD; Năm 2000 là 1410 tỷ USD; năm 2005 con số đó là trên 900 tỷ USD (3). Cùng với sự phát triển của thương mại quốc tế của FDI, quá trình quốc tế hoá tiền tệ cũng tăng nhanh, hàng loạt các vụ sáp nhập các ngân hàng lớn diễn ra,chỉ trong vòng hơn một thập kỷ qua ít nhấp có 25 lần sáp nhập các ngân hàng lớn từ hạng 200 trở lên, do đó thị trường tiền tệ mở rộng nhanh chóng, mức giao dịch ngoại hối toàn cầu thậm chí cao gấp vài chục lần mức mậu dịch toàn cầu. Công 10 nghệ thông tin phát triển đã góp phần hiện đại hoá sự giao dịch trên thị trường ngoại hối và dung lượng ngoại hối hiện nay đã đạt tới hàng ngàn tỷ USD mỗi ngày. 1.1.3.3. Sự phát triển của các TNCs. Các công ty xuyên quốc gia ( TNCs) phát triển nhanh chóng cả quy mô và số lượng thúc đẩy quá trình TCH diễn ra nhanh hơn. Cuối năm 1997 giá trị sản lượng (2) Websites: (3)Websites: của TNCs chiếm 20% tổng giá trị sản lượng toàn thế giới, chiếm 60% mậu dịch toàn cầu; 70% kỹ thuật cao của thế giới và 80% chuyển giao kỹ thuật của thế giới. Ngày nay, với khoảng 50.000 TNCs mà chủ yếu (80%) là các nước phát triển đã can thiệp và khống chế phần lớn FDI, kỹ thuật cao và mậu dịch. Đứng trước sức ép cạnh tranh và làn sóng tự do hoá giữa chúng đã có sự xích lại để hình thành lên các liên minh chiến lược kiểu mới nhằm bảo vệ và tăng cường năng lực cạnh tranh của mình. 1.1.3.4. Hình thành hệ thống các thiết chế quốc tế đầy quyền lực. Sự ra đời của WTO đánh dấu một bước phát triển mới của thương mại quốc tế trước hết là một chế ước có tính pháp lệnh nghiêm ngặt ISO 9000 đã trở thành tiêu chuẩn chung của mậu dịch quốc tế. Cơ chế điều hoà hoạt động mậu dịch quốc tế hoá kinh tế thế giới ngày càng hoàn thiện. Quyền lực và vai trò của các tổ chức quốc tế như: IMF, WB, WTO… với tư cách điều hoà và giám sát các hoạt động kinh tế thế giới ngày càng được thể hiện rõ hơn. 1.1.3.5. Đời sống văn hoá - xã hội thế giới có nhiều nét chung. Quá trình TCH đem lại sự kết nối hàng loạt lĩnh vực khoa học, công nghệ, truyền thông, sản xuất và lưu thông hàng hoá … Văn hoá, với tính cách là nền tảng tinh thần của xã hội không nằm ngoài tác động của xu hướng TCH, xu hướng mà sự liên thông ngày càng tăng giữa các xã hội và các yếu tố của nó do sự xuyên văn hoá; sự gia tăng bùng nổ giao thông và công nghệ truyền thông góp phần thúc đẩy giao lưu văn hoá, gia tăng trao đổi văn hoá quốc tế như việc xuất 11 khẩu các văn hoá sản phẩm (phim ảnh hay sách báo …). Sự tràn lan của chủ nghĩa đa văn hoá và việc cá nhân ngày càng có xu hướng đến đa dạng văn hoá làm mờ đi những nét riêng trong văn hoá quốc gia thông qua sự đồng hoá, lai tạp của văn hoá. Đó chính là những biểu hiện cụ thể của TCH. Người ta đã xác định rằng hiện nay đang hình thành một thế giới nhất thể hoá trên cơ sở 5 mạng lưới liên kết bao gồm: làng thông tin toàn cầu (global information village), chợ văn hoá toàn cầu (global cultural bazaar), đại siêu thị toàn cầu (global shopping mall), trụ sở lao động toàn cầu (global work place) và mạng lưới tài chính toàn cầu (global financial network)(4) 1.1.4. Tác động của TCH đến đời sống nhân loại. TCH có bản chất kép. Một mặt, nó là một xu thế khách quan như kết quả của sự phát triển cao của lực lượng sản xuất và các yếu tố vật chất khác. Mặt khác nó cũng là một quá trình kinh tế - xã hội, chính trị và văn hóa bị một số thế lực tư bản quốc tế chi phối. Sự đan xen giữa cái khách quan và cái chủ quan đã làm cho TCH, về bản chất, trở thành quá trình đầy mâu thuẫn, chứa đựng mặt tích cực lẫn mặt tiêu cực đối với từng quốc gia cũng như toàn thể nhân loại. 1.1.4.1. Trên lĩnh vực kinh tế TCH thúc đẩy phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất đưa lại tăng trưởng cao cho nền kinh tế thế giới nói chung cũng như từng nước nói riêng, thúc đẩy mọi nước kể cả các nước có nền kinh tế thị trường phát triển nhất, phải cải tổ và bắt nhịp vào quá trình hình thành một thị trường thế giới thống nhất như một chỉnh thể. TCH truyền bá và chuyển giao trên quy mô lớn những thành quả mới mẻ, những đột phá sáng tạo về khoa học công nghệ, về tổ chức quản lý, về sản xuất kinh doanh, đưa kiến thức và kinh nghệm quốc tế đến mọi quốc gia dân tộc, đến từng gia đình, từng con người và đặc biệt, tạo tiền đề và điều kịên cho các quốc gia đi sau thực hiện các bước phát triển rút ngắn. TCH thúc đẩy sự cải cách sâu rộng các nền kinh tế quốc gia cũng như gia tăng tiến trình hội nhập khu vực 12 và quốc tế để các chủ thể này có thể nâng cao thế thương lượng cạnh tranh và phát triển trong nền kinh tế thế giới. Ý niệm về chủ quyền quốc gia và biên giới quốc gia mờ đi thông qua các hiệp ước quốc tế dẫn đến việc thành các tổ chức như: WTO, OPEC… các tổ chức quốc gia sẽ mất dần quyền lực, quyền lực này sẽ chuyển về tay các tổ chức đa phương như WTO, WIPO, IMF… các tổ chức này sẽ mở rộng việc tự do đối với các giao dịch thương mại, và thông qua các hiệp ước đa phương hạ thấp hoặc nâng cao các hàng rào thuế quan để điều chỉnh thương mại quốc tế. Thúc đẩy thương mại quốc tế: - Về hàng hoá: giảm hoặc bỏ hẳn các loại thuế quan; xây dựng các khu mậu (4) Một số vấn đề cần biết về toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quố
Tài liệu liên quan