Phân biệt hoạt động giám sát, kiểm sát, kiểm tra, thanh tra

Hoạt động giám sát, kiểm sát, kiểm tra, thanh tra là những hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước. Đây là những hoạt động mang tính tất yếu khách quan của tất cả các Nhà nước, ở mọi thời đại lịch sử. Có thể khẳng định, ngay từ khi Nhà nước xuất hiện trong lịch sử, bất luận Nhà nước nào cũng ban hành pháp luật để quản lý nhà nước và tiến hành hoạt động giám sát đối với toàn xã hội trong việc tuân thủ pháp luật của mình. Giám sát việc tuân theo pháp luật là hoạt động có tính đặc trưng của tất cả các Nhà nước trên thế giới

doc11 trang | Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 7500 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân biệt hoạt động giám sát, kiểm sát, kiểm tra, thanh tra, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÂN BIỆT HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT, KIỂM SÁT, KIỂM TRA, THANH TRA Hoạt động giám sát, kiểm sát, kiểm tra, thanh tra là những hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước. Đây là những hoạt động mang tính tất yếu khách quan của tất cả các Nhà nước, ở mọi thời đại lịch sử. Có thể khẳng định, ngay từ khi Nhà nước xuất hiện trong lịch sử, bất luận Nhà nước nào cũng ban hành pháp luật để quản lý nhà nước và tiến hành hoạt động giám sát đối với toàn xã hội trong việc tuân thủ pháp luật của mình. Giám sát việc tuân theo pháp luật là hoạt động có tính đặc trưng của tất cả các Nhà nước trên thế giới. Không có một Nhà nước nào tồn tại và phát triển mà không tiến hành hoạt động giám sát. Song, nói như vậy không có nghĩa là hoạt động giám sát của mọi Nhà nước, mọi thời đại đều giống nhau, mà nó hoàn toàn khác nhau, phụ thuộc vào kiểu Nhà nước, vào cách thức tổ chức và hoạt động của từng bộ máy nhà nước. Người ta không thể và không được phép đánh đồng hoạt động giám sát của các Nhà nước phi dân chủ (chiếm hữu nô lệ + phong kiến) và của các Nhà nước dân chủ (tư sản + xã hội chủ nghĩa). Người ta cũng không thể đánh đồng hoạt động giám sát của các Nhà nước dân chủ với nhau, bởi có những Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc phân quyền, nhưng cũng có Nhà nước lại được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập quyền. Điểm giống nhau cơ bản trong hoạt động giám sát của tất cả các Nhà nước, theo chúng tôi, được thể hiện ở hai vấn đề: - Thứ nhất, hoạt động giám sát của tất cả các Nhà nước đều là hoạt động mang tính quyền lực chính trị (thực hiện quyền lực nhà nước). - Thứ hai, hoạt động giám sát của tất cả các Nhà nước đều nhằm mục đích bảo đảm cho pháp luật của mình được chấp hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất (theo quan niệm của lực lượng nắm giữ quyền lực chính trị). Trong bất kỳ một chế độ Nhà nước nào, từ chế độ Nhà nước chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa đến xã hội chủ nghĩa, giai cấp thống trị chỉ là một bộ phận của khối cộng đồng dân cư (hoặc là đa số hoặc là không đa số). Giai cấp thống trị đặt ra pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội phù hợp với ý chí của mình. Song, có một thực tế không ai có thể phủ nhận được là không phải lúc nào pháp luật cũng được chấp hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất. Điều này có rất nhiều lý do khác nhau, cả chủ quan lẫn khách quan. Do vậy, để đảm bảo pháp luật luôn luôn được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, giai cấp thống trị bắt buộc phải thường xuyên tiến hành hoạt động kiểm tra, giám sát. Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Tổ chức và hoạt động của nó được quán triệt bởi nguyên tắc tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể duy nhất của quyền lực. Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, là cơ quan quyền lực tập trung vào Quốc hội, nhưng có sự phân công, phân nhiệm giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp trong việc thực hiện quyền lực của nhân dân. Theo Hiến pháp năm 1992, Nhà nước ta quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước không chỉ ban hành Hiến pháp và hệ thống pháp luật để quản lý xã hội, mà còn thường xuyên phải tiến hành hoạt động kiểm tra, giám sát việc thực hiện Hiến pháp và pháp luật. Kiểm tra, giám sát là một khâu không thể thiếu được trong quá trình quản lý không chỉ của Nhà nước ta mà còn của tất cả các quốc gia trên thế giới. Kiểm tra, giám sát không phải là chức năng của riêng một cơ quan nhà nước nào, mà bất kỳ cơ quan nào trong quá trình hoạt động cũng phải tiến hành kiểm tra, giám sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực mà mình quản lý. Giám sát, kiểm sát, kiểm tra, thanh tra, xét đến cùng, chỉ là những thuật ngữ khác nhau để chỉ hoạt động giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật của các cơ quan có chăng chỉ là ở cấp độ, đối tượng, phạm vi, nội dung, phương thức thực hiện và hiệu quả pháp lý của nó. Do vậy, trước hết phải thống nhất về mặt quan điểm là hoạt động kiểm tra, giám sát không chỉ do Quốc hội mà do nhiều cơ quan nhà nước thực hiện tuỳ theo vị trí, chức năng, phạm vi, thẩm quyền luật định. Theo Hiến pháp năm 1992, để đảm bảo thực hiện một cách có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, hoạt động kiểm tra, giám sát của Nhà nước ta bao gồm một hệ thống các hình thức sau: - Sự kiểm tra, giám sát của Quốc hội; - Sự kiểm tra, giám sát của Chính phủ; - Sự kiểm tra, giám sát của Viện Kiểm sát; - Sự kiểm tra, giám sát của Toà án; - Hoạt động thanh tra và kiểm tra nhà nước; - Sự kiểm tra, giám sát của công dân, các tổ chức xã hội và đoàn thể quần chúng đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước. Để có căn cứ phân biệt hoạt động giám sát, kiểm sát, kiểm tra, thanh tra, chúng tôi thấy cần phải tìm hiểu nội dung hoạt động kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước được quy định trong pháp luật hiện hành của Nhà nước ta. 1- Sự kiểm tra, giám sát của Quốc hội Theo Đều 83 Hiến pháp năm 1992, Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Điều đó có nghĩa là Quốc hội giám sát tất cả các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước (lập pháp, hành pháp và tư pháp), tất cả các cơ quan nhà nước (các cơ quan nhà nước ở trung ương, địa phương, các ngành, các cấp) và mọi công dân. Quốc hội thực hiện quyền giám sát của mình thông qua hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội (Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban) và các đại biểu Quốc hội với các phương pháp như xét báo cáo, thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh, chất vấn, xét đơn khiếu tố, kiểm tra tại chỗ. Với tư cách là cơ quan quyền lực cao nhất, định kỳ theo quy định của pháp luật, Quốc hội xét báo cáo của các cơ quan cao cấp của Nhà nước như Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Để giúp Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao của mình, các Uỷ ban của Quốc hội có nhiệm vụ chủ yếu là nghiên cứu, thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh cũng như các dự án khác. Thông qua hoạt động kiểm tra các dự án, các Uỷ ban của Quốc hội thực hiện sự kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp của chúng. Trong quá trình kiểm tra, thẩm định nêu trên, các Uỷ ban của Quốc hội có quyền yêu cầu các thành viên của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, các cơ quan hữu quan khác trình bày hoặc cung cấp các tài liệu về những vấn đề cần thiết cho quá trình thẩm tra. Quyền giám sát tối cao của Quốc hội còn được thể hiện bởi các đại biểu Quốc hội. Các đại biểu Quốc hội thông qua chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri, tiến hành xem xét, theo dõi, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Đây là hoạt động kiểm tra mà đại biểu Quốc hội thường xuyên thực hiện. Theo Hiến pháp 1992, đại biểu Quốc hội còn có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, các thành viên Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao. Quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội có thể được thực hiện trong thời gian Quốc hội họp hoặc trong thời gian Quốc hội không họp. Để thực hiện quyền giám sát của mình, đại biểu Quốc hội còn có quyền yêu cầu các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các tổ chức kinh tế trả lời những vấn đề mà mình quan tâm hoặc cung cấp các tài liệu cần thiết. 2- Sự kiểm tra, giám sát của Chủ tịch nước Theo Hiến pháp 1992, với tính cách là người đứng đầu Nhà nước, Chủ tịch nước kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp của các pháp lệnh và nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về việc bổ nhiêm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ và việc tuyên bố tình trạng chiến tranh khi Nhà nước bị xâm lược (Điều 103 khoản 7). 3- Sự kiểm tra, giám sát của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ Theo Điều 109 Hiến pháp 1992, Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của Nhà nước ta. Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước; bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Để thực hiện được những nhiệm vụ to lớn và nặng nề trên (được cụ thể hoá ở Điều 112 Hiến pháp 1992), Chính phủ được quyền hướng dẫn và kiểm tra Hội đồng nhân dân thực hiện các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn theo luật định. Tổ chức và lãnh đạo công tác kiểm kê, thống kê của Nhà nước, công tác thanh tra và kiểm tra nhà nước, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; chỉ đạo việc thực hiện các điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia... Nói ngắn gọn lại, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ và cơ quan thuộc Chính phủ có quyền ban hành các văn bản được quy định trong luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật và kiểm tra việc thi hành các văn bản đó đối với tất cả các ngành, các địa phương và cơ sở. 4- Sự kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước ở địa phương Hoạt động kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước ở địa phương do Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp tiến hành trong phạm vi đơn vị hành chính - lãnh thổ của mình. Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 (các Điều 120, 121, 122), Hội đồng nhân dân với tư cách là cơ quan đại biểu của nhân dân và cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương có quyền ra nghị quyết về các biện pháp bảo đảm thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật ở địa phương; về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách; về quốc phòng, an ninh ở địa phương; về biện pháp ổn định thực hiện các nghị quyết đó. Hội đồng nhân dân thực hiện quyền kiểm tra, giám sát việc thực thi Hiến pháp, pháp luật bằng cách xét báo cáo của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân, của Chánh án Toà án nhân dân, của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp và của thủ trưởng các cơ quan thuộc Uỷ ban nhân dân. Đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp có quyền trực tiếp kiểm tra, giám sát việc thực hiện Hiến pháp, pháp luật thông qua mối liên hệ với cử tri, chất vấn Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch và các thành viên Uỷ ban nhân dân, Chánh án Toà án nhân dân và Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp... Theo các Điều 123, 124 Hiến pháp năm 1992, Uỷ ban nhân dân với tư cách là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn do pháp luật quy định ra quyết định, chỉ thị và kiểm tra việc thi hành những văn bản đó. 5- Sự kiểm tra, giám sát của Viện Kiểm sát Theo Hiến pháp và Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân năm 1992, Viện Kiểm sát nhân dân ở nước ta được tổ chức ra với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố, nhằm bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các bộ, các cơ quan ngang bộ, các cơ quan khác thuộc tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân, thực hành quyền công tố. Các Viện Kiểm sát nhân dân địa phương, các Viện Kiểm sát quân sự kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành quyền công tố trong phạm vi trách nhiệm do luật định. Viện Kiểm sát nhân dân các cấp thực hiện quyền kiểm tra, giám sát của mình thông qua các hoạt động kiểm sát chung (nay gọi là kiểm sát việc tuân theo pháp luật trên lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội), kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử, kiểm sát giam giữ cải tạo, kiểm sát thi hành án, kiểm sát xét khiếu tố. 6- Sự kiểm tra, giám sát của Toà án Theo Hiến pháp và Luật tổ chức Toà án nhân dân hiện hành, hệ thống Toà án ở nước ta (gồm Toà án nhân dân tối cao, các Toà án luật định) được thành lập để thực hiện chức năng xét xử. Bằng hoạt động xét xử, Toà án phát hiện ra những vi phạm, những hành vi phạm tội để xử lý theo pháp luật, bảo vệ trật tự, kỷ cương của Nhà nước, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nhân danh Nhà nước, bằng các bản án và quyết định của mình, Toà án đưa ra những phán quyết, xử lý đối với các hành vi vi phạm Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân. Với những nét trình bày ngắn gọn trên về nội dung hoạt động kiểm tra, giám sát của các cơ quan nhà nước, chúng ta có thể thấy một cách rõ ràng là hệ thống pháp luật hiện hành của Nhà nước ta đã quy định cụ thể, rộng rãi một hệ thống các hình thức kiểm tra, giám sát, được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước ở mọi cấp độ, mọi góc độ. Điểm chung nhất là toàn bộ hoạt động kiểm tra, giám sát của tất cả các cơ quan nhà nước đều nhằm một mục đích là bảo đảm cho Hiến pháp và pháp luật được tuân thủ một cách nghiêm chỉnh và thống nhất trong mọi hoạt động của Nhà nước và xã hội. Về mặt thuật ngữ, theo chúng tôi, có thể phân biệt hoạt động giám sát, kiểm sát, kiểm tra, thanh tra như sau: Hoạt động giám sát của các cơ quan nhà nước theo nghĩa đầy đủ là hoạt động theo dõi, kiểm tra, xem xét, đánh giá hoạt động của một tổ chức hoặc cá nhân xem có đúng với những điều đã được pháp luật quy định không, trong đó Hiến pháp được coi là “chuẩn”, có tính chất nền tảng. Mọi hình thức giám sát, xét đến cùng, đều là hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước, nhằm bảo đảm cho Hiến pháp và pháp luật được thực hiện một cách nghiêm chỉnh và thống nhất. Trong lịch sử Nhà nước và pháp luật thế giới hiện đại, hoạt động giám sát việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật được tổ chức theo nhiều cách khác nhau. Đối với các Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc phân quyền, Nghị viện không được xem là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, mà chỉ được xem là cơ quan nắm một trong ba nhánh quyền lực (quyền lập pháp). Bởi vậy, hoạt động của Nghị viện cũng như các đạo luật do Nghị viện ban hành bắt buộc phải được kiểm tra và phán quyết xem có hợp hiến không, giống như hoạt động của các cơ quan hành pháp và tư pháp. Đối với các Nhà nước này, quyền giám sát việc tuân thủ Hiến pháp và phán quyết về tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật không phải thuộc về Nghị viện, mà thuộc về Toà án (có thể là Toà án tối cao, có thể là Toà án Hiến pháp) hoặc một cơ quan chuyên trách làm việc này. Ở nước ta, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể duy nhất của quyền lực. Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập quyền. Điều đó có nghĩa là mọi quyền lực nhà nước đều tập trung vào Quốc hội - cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân Việt Nam, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo các Điều 82 và 83 Hiến pháp năm 1992, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp; quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, những mục tiêu phát triển kinh tế và văn hoá, những quy tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Do vậy, hoạt động giám sát việc tuân theo Hiến pháp, pháp luật và phán xét về tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật cũng như của hoạt động thực hiện pháp luật chỉ thuộc về Quốc hội. Quyền này Quốc hội vừa tự mình thực hiện, vừa giao cho các cơ quan nhà nước khác thực hiện theo một cơ chế chặt chẽ được quy định tại Hiến pháp (và được cụ thể hoá ở các đạo luật). Mục đích của hoạt động giám sát là nhằm đảm bảo việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức kinh tế, các tổ chức xã hội và mọi công dân. Với những nội dung trên, theo chúng tôi, ý kiến cho rằng giám sát chỉ là hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp là không có căn cứ. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật là một trong hai chức năng của Viện Kiểm sát nhân dân mà nội dung của nó là hoạt động kiểm tra, giám sát đối với việc tuân thủ Hiến pháp, pháp luật (trong hoạt động xây dựng pháp luật và chấp hành pháp luật) của các cơ quan nhà nước từ cấp bộ trở xuống, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và công dân. Về bản chất, hoạt động kiểm sát là một bộ phận không tách rời hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội, là thực hiện một phần quyền giám sát thuộc nội đung quyền giám sát tối cao của Quốc hội (xét ở góc độ thẩm quyền của Viện Kiểm sát ở chỗ ngoài Quốc hội chỉ có Viện Kiểm sát mới có quyền “phán” về tính hợp pháp trong hoạt động của các cơ quan nhà nước từ cấp bộ trở xuống, các tổ chức và công dân. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động đặc thù của Viện Kiểm sát (chỉ áp dụng cho Viện Kiểm sát) nhằm tạo cơ sở thực hiện mục đích của hoạt động kiểm sát là bảo đảm tính thống nhất của pháp chế. Dù xét ở góc độ nào thì hoạt động kiểm sát cũng chỉ là một (trong nhiều) hình thức thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát nhà nước nhằm đảm bảo cho pháp luật được hình thành một cách triệt để và thống nhất trong mọi lĩnh vực như hoạt động tư pháp, hoạt động quản lý hành chính, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại..., trong đó có cả hoạt động kiểm tra, thanh tra. Kiểm tra là hoạt động xem xét, đánh giá việc thực hiện các công việc trong hoạt động quản lý nhà nước. Hoạt động kiểm tra được thực hiện bởi thủ trưởng các cơ quan nhà nước nhằm xem xét việc thực hiện các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên cũng như các quyết định quản lý của mình. Hoạt động kiểm tra được tiến hành thường xuyên theo yêu cầu của công tác tổ chức quản lý và thủ trưởng cơ quan uỷ quyền trực tiếp nghe báo cáo hoặc xem xét tại chỗ. Tất nhiên, nội dung, phạm vi kiểm tra phụ thuộc vào nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan. Song nhìn chung, nội dung kiểm tra được thực hiện trên hai phương diện: Việc thực hiện pháp luật cũng như việc thực hiện nhiệm vụ, kế hoạch và các quyết định quản lý đúng sai như thế nào, làm rõ nguyên nhân để khắc phục, xử lý, nếu phát hiện có vi phạm pháp luật, tuỳ theo đối tượng kiểm tra, người kiểm tra có quyền xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật như xử phạt hành chính, đình chỉ việc làm vi phạm, buộc bồi thường thiệt hại... Thanh tra là chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý nhà nước, là phương thức bảo đảm pháp chế, tăng cường kỷ luật trong quản lý nhà nước. Các cơ quan quản lý nhà nước có trách nhiệm kiểm tra việc thực hiện các quyết định của mình và thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch nhà nước của các cơ quan nhà nước. Thanh tra là hoạt động xem xét, làm rõ đúng, sai trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch nhà nước của các cơ quan, tổ chức, tìm ra nguyên nhân, đề xuất biện pháp khắc phục, xử lý theo quy định của pháp luật. Thực chất, hoạt động thanh tra là kiểm tra theo yêu cầu của thủ trưởng cơ quan quản lý, nhưng được thực hiện thông qua bộ máy thanh tra. Như vậy, giám sát, kiểm tra, thanh tra đều là những hoạt động cụ thể thực hiện chức năng chung của Nhà nước, có mục tiêu là bảo đảm cho Hiến pháp và pháp luật được thi hành triệt để và thống nhất. Các hoạt động này giống nhau ở chỗ đều là những hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước. Song, giữa chúng cũng có những điểm khác nhau về đối tượng, phạm vi, cách thức giám sát, biện pháp xử lý và người thực hiện việc giám sát. Hoạt động giám sát của Quốc hội là thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và công dân trên phạm vi toàn quốc. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân được thực hiện trong phạm vi địa phương. Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp là hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước. Hoạt động kiểm tra, thanh tra là thực hiện một trong các nội dung của quyền hành pháp, nhằm bảo đảm việc thi hành Hiến pháp, pháp luật trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, đảm bảo hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính của Nhà nước. Hoạt động kiểm sát là hoạt động thực hiện một phần quyền kiểm tra, giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, nhằm đảm bảo pháp chế thống nhất trong hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước từ cấp bộ trở xuống, các cơ quan tư pháp, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân. Hiện nay, có một số ý kiến cho rằng, hoạt động giám sát việc tuân theo trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội của Viện Kiểm sát nhân dân trùng l