Phân tích tiền đề ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Trong tình hình thế giới đang sục sôi khí thế cách mạng, nhiều phong trào công nhân nổ ra cùng với sự ra đời của nhiều Đảng cộng sản như Đảng Cộng sản Pháp, Đảng Cộng sản Đức đã cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào cách mạng trên toàn thế giới. Trong khi đó, ở Việt Nam phong trào công nhân, phong trào yêu nước đang diễn ra mạnh mẽ. Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản là Đông Dương Cộng Sản Đảng, An Nam Cộng Sản Đảng, và Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn cùng với nhũng đóng góp to lớn của Nguyễn Ái Quốc trong việc tổ chức, xây dựng lực lượng cách mạng và truyền bá tư tưởng Mác - Lênin vào nước ta đã trở thành những tiền đề chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào mùa xuân năm 1930. Từ đó có thể khẳng định rằng Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước cùng với những hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh từ khi Người tìm ra con đường cứu nước cho cách mạng Việt Nam.

doc8 trang | Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 7343 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích tiền đề ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Trong tình hình thế giới đang sục sôi khí thế cách mạng, nhiều phong trào công nhân nổ ra cùng với sự ra đời của nhiều Đảng cộng sản như Đảng Cộng sản Pháp, Đảng Cộng sản Đức… đã cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào cách mạng trên toàn thế giới. Trong khi đó, ở Việt Nam phong trào công nhân, phong trào yêu nước đang diễn ra mạnh mẽ. Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản là Đông Dương Cộng Sản Đảng, An Nam Cộng Sản Đảng, và Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn cùng với nhũng đóng góp to lớn của Nguyễn Ái Quốc trong việc tổ chức, xây dựng lực lượng cách mạng và truyền bá tư tưởng Mác - Lênin vào nước ta đã trở thành những tiền đề chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào mùa xuân năm 1930. Từ đó có thể khẳng định rằng Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước cùng với những hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh từ khi Người tìm ra con đường cứu nước cho cách mạng Việt Nam. 1. Chủ nghĩa Mác – Lênin - Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về sự ra đời của Đảng Cộng sản: Mác và Lênin đã nghiên cứu các phong trào cách mạng của các nước phương Tây và nhận thấy rằng phong trào cách mạng đó muốn giành thắng lợi trước hết phải có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Từ đó, Mác và Lênin chủ yếu quan tâm đến vấn đề thành lập Đảng Cộng sản ở các nước tư bản chủ nghĩa, với nhiệm vụ lãnh đạo giai cấp vô sản và quần chúng lao động làm cách mạng nhằm lật đổ chế độ tư bản và tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Do vậy, xuất phát từ tình hình thực tế ở các nước tư bản phương Tây và nước Nga, Lênin đã nêu ra luận điểm: Đảng Cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân phương Tây. Đây cũng là quy luật ra đời chung của Đảng Cộng sản trên thế giới. Chủ nghĩa Mác – Lênin phải kết hợp với phong trào công nhân để hình thành nên Đảng Cộng sản bởi vì: “chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất. Học thuyết ấy đã chỉ ra con đường của sự tự giải phóng con người và sự phát triển của xã hội”1. Muốn thực hiện được lí tưởng cao đẹp đó thì chủ nghĩa Mác – Lênin cần có một lực lượng để biến học thuyết của mình thành hiện thực. Ngược lại, phong trào công nhân phương Tây cần có chủ nghĩa Mác – Lê nin để soi đường, chỉ lối cho những hoạt động của mình. Hơn nữa, giai cấp công nhân phương Tây có những ưu điểm rất nổi trội như: Là một giai cấp tiên tiến; đông đảo về lực lượng; được rèn luyện, thử thách trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, có thể khẳng định, giai cấp công nhân phương Tây hoàn toàn có khả năng gánh vác được sứ mệnh lịch sử là giải phóng giai cấp công nhân và giải phóng xã hội. - Quan điểm của Hồ Chí Minh về sự ra đời của Đảng Cộng sản ở một nước thuộc địa như Việt Nam: Từ sự tài ba cùng những kinh nghiệm của mình, đồng thời vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đưa ra quan điểm của mình về sự thành lập Đảng Cộng sản ở một nước thuộc địa – nửa phong kiến như nước ta thì trước hết Đảng phải đáp ứng được ba yêu cầu: Thứ nhất: Đảng phải là một tổ chức chính trị tiên phong, vững mạnh, có khả năng đề ra được đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn. Các phong trào yêu nước ở Việt Nam cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX đều thật bại do chưa có đường lối cách mạng đúng đắn, chưa xuất phát từ thực tiễn xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Thứ hai: Đảng phải có khả năng vận động, đoàn kết toàn dân, tập hợp đông đảo lực lượng quần chúng tham gia vào sự nghiệp cách mạng. Điều này cũng được đặt ra từ thực tiễn nước ta do đã không huy động, phát huy được sức mạnh toàn dân tộc nên các phong trào đấu tranh của các giai cấp trong xã hội Việt Nam lúc bấy giờ đều đi đến thất bại. Thứ ba: Đảng phải gắn cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng vô sản thế giới. Xây dựng mối đoàn kết quốc tế nhằm tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của quốc tế đối với cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Không những thế, Đảng còn có nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc, thực hiện làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản; giải quyết triệt để hai mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam là đánh đuổi thực dân đế quốc, lật đổ phong kiến, tư sản và đem lại ruộng đất cho dân cày. Như vậy, có thể thấy chủ nghĩa Mác - Lênin là “mặt trời soi sáng” con đường cách mạng Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin đã trở thành “cốt”, trở thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng Cộng Sản Việt Nam sau này. 2. Phong trào công nhân và phong trào yêu nước: Khác với quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm của Hồ Chí Minh về sự ra đời của Đảng Cộng sản là sản phẩm kết hợp của ba yếu tố: Chủ nghĩa Mác – Lênin; phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Ÿ Phong trào công nhân: Ngoài việc chỉ rõ vai trò to lớn của chủ nghĩa Mác – Lênin đối với quá trình hình thành Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh còn đánh giá cao vị trí, vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam. Về ưu điểm: Giai cấp công nhân Việt Nam là sản phẩm của công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp nên bên cạnh những đặc điểm của giai cấp công nhân thế giới, giai cấp công nhân Việt Nam còn có những đặc điểm riêng như: Chịu ba tầng áp bức bóc lột của đế quốc, phong kiến và tư sản; là giai cấp ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc nên có ưu thế vươn lên giành quyền lãnh đạo cách mạng; là giai cấp nông dân bị bần cùng hóa nên giai cấp công nhân có mối liên hệ chặt chẽ với giai cấp nông dân. Tuy nhiên, ưu điểm lớn nhất của giai cấp công nhân Việt Nam đó là giai cấp kiên quyết nhất, triệt để nhất trong mọi cuộc đấu tranh cách mạng, đây còn là giai cấp tiên tiến nhất trong lực lượng sản xuất, có tổ chức, có kỷ luật, được tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lê nin nên có đường lối đấu tranh đúng đắn. Về hạn chế: Vì là sản phẩm của công cuộc khai thác thuộc địa nên giai cấp công nhân Việt Nam ra đời muộn hơn các giai cấp khác nên còn mỏng về số lượng, non yếu và chưa có kinh nghiệm trong các phong trào đấu tranh cách mạng. Ÿ Phong trào yêu nước: Về ưu điểm: Chủ nghĩa yêu nước là giá trị tinh thần trường tồn trong suốt tiến trình lịch sử của dân tộc Việt Nam và cũng là nhân tố chủ đạo quyết định đến thắng lợi của dân tộc ta trong công cuộc chống ngoại xâm. Phong trào yêu nước có trước phong trào công nhân nên đã phát triển trên một phạm vi rộng lớn, lôi cuốn được đông đảo mọi tầng lớp nhân dân, mà chủ yếu là nông dân tham gia vào cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, phong kiến giành lại độc lập dân tộc. Điều này cũng góp phần khắc phục được hạn chế của phong trào công nhân. Về hạn chế: Lịch sử nước ta từ khi bị thực dân Pháp xâm lược đến những nǎm hai mươi của thế kỷ XIX đã chứng kiến rất nhiều cuộc đấu tranh hết sức anh dũng của dân tộc ta chống lại ách thống trị của thực dân Pháp xâm lược. Thế nhưng cuối cùng các cuộc đấu tranh ấy đều không giành được thắng lợi. Có thể nhận thấy nguyên nhân thất bại là do thiếu đường lối đúng đắn, chưa liên kết được đông đảo các tầng lớp nhân dân, thiếu một tổ chức cách mạng có khả nǎng dắt dẫn dân tộc đến thắng lợi. Mặt khác, phong trào yêu nước Việt Nam chưa có tính triệt để, kiên quyết, dễ thỏa hiệp với thực dân và phong kiến. Ÿ Sự kết hợp của phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam: Phong trào công nhân phải kết hợp với phong trào yêu nước. Trên cơ sở của những ưu điểm và hạn chế của hai phong trào này có thể nhận thấy: Trong tình hình Việt Nam lúc bấy giờ, nếu như phong trào công nhân không kết hợp với phong trào yêu nước thì phong trào công nhân sẽ không đủ lực lượng để tiến hành cách mạng. Ngược lại, phong trào yêu nước không kết hợp và được dẫn dắt bởi phong trào công nhân với đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam thì các cuộc đấu tranh của phong trào yêu nước sẽ không có đường lối đúng đắn để đưa cuộc đấu tranh của mình đi đến thắng lợi. Vì vậy, phong trào công nhân phải kết hợp với phong trào yêu nước. Mặt khác, phong trào công nhân kết hợp được với phong trào yêu nước bởi vì hai phong trào đó đều có chung một mục tiêu. Khi giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và có phong trào đấu tranh thì hai phong trào này đã có sự kết hợp với nhau trên các lĩnh vực như kinh tế, chính trị… Cơ sở của việc kết hợp ngay từ đầu, liên tục và chặt chẽ giữa hai phong trào này là do xã hội nước ta tồn tại mâu thuẫn cơ bản giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với bọn đế quốc và tay sai. Vì vậy giữa hai phong trào này đều có mục tiêu chung, yêu cầu chung: giải phóng dân tộc, làm cho Việt Nam được hoàn toàn độc lập, xây dựng đất nước. Hơn nữa, phong trào công nhân xét về nghĩa nào đó lại mang tính chất của phong trào yêu nước vì phong trào đấu tranh của công nhân không những chống lại ách áp bức giai cấp của đế quốc, tư sản mà còn chống lại ách áp bức dân tộc của phong kiến. Thực tiễn đã chứng minh việc kết hợp hai phong trào đã tạo ra sức mạnh to lớn cho sự hình thành của Đảng Cộng sản Việt Nam và những hoạt động của Đảng ta trong suốt cuộc kháng chiến kiến quốc của nhân dân ta. 3. Những hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh để chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản: Sau khi đọc được bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường cứu nước mới cho cách mạng Việt Nam. Người khẳng định: Muốn giải phóng dân tộc thành công “Trước hết phải có đảng cách mạng, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững mạnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”2. Từ đó, Người đã có những hoạt động để chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Năm 1920, tại Đại hội lần thứ II của Đảng Xã Hội Pháp họp tại Tua, Người đã bỏ phiếu tán thành ra nhập Quốc tế Cộng sản và tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Cũng từ đây, Người đã ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin về Việt Nam, chuẩn bị cho việc thành lập chính đảng vô sản ở nước ta. Năm 1921, Người đã tham gia sáng lập Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa tại nước Pháp. Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa ra đời nhằm mục đích vận động, liên kết các dân tộc bị áp bức trên thế giới đồng thời tuyên truyền một cách sâu rộng cho nhân dân các dân tộc thuộc địa về bản chất của chủ nghĩa đế quốc. Người còn viết nhiều sách báo, đặc biệt là báo Người cùng khổ, tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp. Các sách báo này đã lên án mạnh mẽ chế độ thực dân, thức tỉnh lòng yêu nước của nhân dân các dân tộc bị áp bức và tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin sâu rộng hơn trong nhân dân. Năm 1925, Người đã thành lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông cũng nhằm liên kết các dân tộc bị áp bức ở Á Đông nói riêng. Cũng trong năm này, Nguyễn Ái Quốc đã thành lập Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên với hạt nhân là Cộng sản đoàn. Hội có nhiệm vụ đào tạo một đội ngũ cán bộ, đem chủ nghĩa Mác – Lê nin, đường lối giải phóng dân tộc mới truyền bá vào trong nước… Tuy chưa phải là Đảng Cộng sản nhưng tôn chỉ, mục đích và chương trình hoạt động của Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên đã thể hiện quan điểm, lập trường của giai cấp công nhân trong việc giải quyết những nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam. Đây là tổ chức cách mạng đầu tiên ở Việt Nam có chương trình, điều lệ rõ ràng, có hệ thống tổ chức chặt chẽ, khác với các tổ chức chính trị khác lúc bấy giờ. Có thể nói Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên là tổ chức tiền thân của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Ngoài việc thành lập các tổ chức nêu trên, Người còn ra báo Thanh Niên, tiếp tục viết nhiều tài liệu, bài giảng để huấn luyện cán bộ. Các tài liệu đó đã được tập hợp thành tác phẩm Đường kách mệnh. Tác phẩm này được coi như kim chỉ nam cho những người làm cách mạng theo khuynh hướng vô sản ở Việt Nam, dạy cho các cán bộ cách mạng Việt Nam những tri thức cách mạng thế giới, đặc biệt là vấn đề tư tưởng và lý luận về cách mạng vô sản, cách mạng giải phóng dân tộc theo chủ nghĩa Mác – Lênin. Từ cuối năm 1928 đầu năm 1929, trong phong trào dân tộc dân chủ, nhất là phong trào công nhân ở Việt Nam đã đặt ra yêu cầu gấp rút cần có một chính đảng của giai cấp vô sản để kịp thời lãnh đạo, đưa cách mạng nước ta tiến lên những bước mới. Trước tình hình đó, Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên đã không đáp ứng được những yêu cầu của cách mạng lúc đó. Tình hình trên đã tác động mạnh mẽ đến những phần tử tiên tiến trong lực lượng cách mạng nước ta, trước hết là trong nội bộ của Hội Việt Nam Cách Mạng Thanh Niên từ đó dẫn đến sự phân rẽ của tổ chức này dẫn đến sự ra đời của ba tổ chức cộng sản là Đông Dương Cộng Sản Đảng (6/1929), An Nam Cộng Sản Đảng (7/1929) và Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn (9/1929). Chỉ trong vòng chưa đầy 4 tháng đã có 3 tổ chức Cộng sản ở Việt Nam lần lượt được thành lập. Các tổ chức Cộng sản trên đã nhanh chóng xây dựng cơ sở Đảng tại nhiều địa phương trong khắp cả nước và trực tiếp lãnh đạo nhiều cuộc đấu tranh của nhân dân. Tuy nhiên, các tổ chức này lại không có sự thống nhất với nhau, hoạt động riêng rẽ, công kích lẫn nhau, tranh giành quần chúng của nhau gây ảnh hưởng không tốt tới phong trào cách mạng nước ta. Yêu cầu cấp thiết của cách mạng Việt Nam lúc này là phải có một Đảng Cộng sản thống nhất lãnh đạo trong cả nước. Trước tình hình đó, đầu năm 1930 với tư cách là đặc phái viên của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã về Hương Cảng (Trung Quốc) chủ trì hội nghị hợp nhất 3 tổ chức cộng sản thành một Đảng Cộng sản duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là một mốc lớn đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Chấm dứt thời kỳ khủng hoảng sâu sắc về giai cấp lãnh đạo và đường lối cứu nước ở nước ta. Sự kiện đó cũng chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với cương lĩnh cách mạng đúng đắn, là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính quyết định cho những thắng lợi của cách mạng Việt Nam sau này. KẾT LUẬN Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930 là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp ở Việt Nam trong thời đại mới. Là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ trước. Khác với quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin cũng như giai cấp vô sản thế giới về sự ra đời của Đảng Cộng sản, Hồ Chí Minh đã dựa trên tình hình thực tiễn và có những quan điểm sáng tạo về sự ra đời của Đảng Cộng sản ở một nước thuộc địa - nửa phong kiến như Việt Nam rằng Đảng Cộng sản ra đời phải dựa trên 3 yếu tố là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Điều này cũng thể hiện rõ quan niệm của Hồ Chí Minh luôn đặt lợi ích của dân tộc lên trên lợi ích của giai cấp.
Tài liệu liên quan