Thế nào là ô nhiễm môi trường đất?

"Ô nhiễm môi trường đất được xem là tất cả các hiện tượng làm nhiễm bẩn môi trường đất bởi các chất ô nhiễm". Người ta có thể phân loại đất bị ô nhiễm theo các nguồn gốc phát sinh hoặc theo các tác nhân gây ô nhiễm. Nếu theo nguồn gốc phát sinh có: • Ô nhiễm đất do các chất thải sinh hoạt. • Ô nhiễm đất do chất thải công nghiệp. • Ô nhiễm đất do hoạt động nông nghiệp. Tuy nhiên, môi trường đất có những đặc thù và một số tác nhân gây ô nhiễm có thể cùng một nguồn gốc nhưng lại gây tác động bất lợi rất khác biệt. Do đó, người ta còn phân loại ô nhiễm đất theo các tác nhân gây ô nhiễm: • Ô nhiễm đất do tác nhân hoá học: Bao gồm phân bón N, P (dư lượng phân bón trong đất), thuốc trừ sâu (clo hữu cơ, DDT, lindan, aldrin, photpho hữu cơ v.v.), chất thải công nghiệp và sinh hoạt (kim loại nặng, độ kiềm, độ axit v.v.). • Ô nhiễm đất do tác nhân sinh học: Trực khuẩn lỵ, thương hàn, các loại ký sinh trùng (giun, sán v.v.).

doc19 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2109 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thế nào là ô nhiễm môi trường đất?, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thế nào là ô nhiễm môi trường đất? "Ô nhiễm môi trường đất được xem là tất cả các hiện tượng làm nhiễm bẩn môi trường đất bởi các chất ô nhiễm". Người ta có thể phân loại đất bị ô nhiễm theo các nguồn gốc phát sinh hoặc theo các tác nhân gây ô nhiễm. Nếu theo nguồn gốc phát sinh có: • Ô nhiễm đất do các chất thải sinh hoạt. • Ô nhiễm đất do chất thải công nghiệp. • Ô nhiễm đất do hoạt động nông nghiệp. Tuy nhiên, môi trường đất có những đặc thù và một số tác nhân gây ô nhiễm có thể cùng một nguồn gốc nhưng lại gây tác động bất lợi rất khác biệt. Do đó, người ta còn phân loại ô nhiễm đất theo các tác nhân gây ô nhiễm: • Ô nhiễm đất do tác nhân hoá học: Bao gồm phân bón N, P (dư lượng phân bón trong đất), thuốc trừ sâu (clo hữu cơ, DDT, lindan, aldrin, photpho hữu cơ v.v.), chất thải công nghiệp và sinh hoạt (kim loại nặng, độ kiềm, độ axit v.v...). • Ô nhiễm đất do tác nhân sinh học: Trực khuẩn lỵ, thương hàn, các loại ký sinh trùng (giun, sán v.v...). • Ô nhiễm đất do tác nhân vật lý: Nhiệt độ (ảnh hưởng đến tốc độ phân huỷ chất thải của sinh vật), chất phóng xạ (U ran, Thori, Sr90, I131, Cs137). Chất ô nhiễm đến với đất qua nhiều đầu vào, nhưng đầu ra thì rất ít. Đầu vào có nhiều vì chất ô nhiễm có thể từ trên trời rơi xuống, từ nước chảy vào, do con người trực tiếp "tặng" cho đất, mà cũng có thể không mời mà đến. Đầu ra rất ít vì nhiều chất ô nhiễm sau khi thấm vào đất sẽ lưu lại trong đó. Hiện tượng này khác xa với hiện tượng ô nhiễm nước sông, ở đây chỉ cần chất ô nhiễm ngừng xâm nhập thì khả năng tự vận động của không khí và nước sẽ nhanh chóng tống khứ chất ô nhiễm ra khỏi chúng. Đất không có khả năng này, nếu thành phần chất ô nhiễm quá nhiều, con người muốn khử ô nhiễm cho đất sẽ gặp rất nhiều khó khăn và tốn nhiều công sức. Các hệ thống sản xuất tác động đến môi trường đất như thế nào? Dân số trên trái đất tăng lên, đòi hỏi lượng lương thực, thực phẩm ngày càng nhiều và con người phải áp dụng những phương pháp để tăng mức sản xuất và cường độ khai thác độ phì của đất. Những biện pháp phổ biến nhất là: • Tăng cường sử dụng các chất hoá học trong nông, lâm nghiệp như phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ. • Sử dụng các chất tăng cường sinh trưởng để có lợi cho việc thu hoạch. • Sử dụng công cụ và kỹ thuật hiện đại. • Mở rộng mạng lưới tưới tiêu. Tất cả các biện pháp này đều tác động mạnh đến hệ sinh thái và môi trường đất: • Làm đảo lộn cân bằng sinh thái do sử dụng thuốc trừ sâu. • Làm ô nhiễm môi trường đất do sử dụng thuốc trừ sâu. • Làm mất cân bằng dinh dưỡng. • Làm xói mòn và thoái hoá đất. • Phá huỷ cấu trúc của đất và các tổ chức sinh học của chúng do sử dụng các thiết bị, máy móc nặng. • Làm mặn hoá hay chua phèn do chế độ tưới tiêu không hợp lý. Đất ở các khu vực công nghiệp và đô thị bị ô nhiễm như thế nào? Quá trình phát triển công nghiệp và đô thị cũng ảnh hưởng đến các tính chất vật lý và hoá học của đất. Những tác động về vật lý như xói mòn, nén chặt đất và phá huỷ cấu trúc đất do các hoạt động xây dựng, sản xuất và khai thác mỏ. Các chất thải rắn, lỏng và khí đều có tác động đến đất. Các chất thải có thể được tích luỹ trong đất trong thời gian dài gây ra nguy cơ tiềm tàng đối với môi trường. Người ta phân chia các chất thải gây ô nhiễm đất làm 4 nhóm: Chất thải xây dựng, chất thải kim loại, chất thải khí, chất thải hoá học và hữu cơ. • Chất thải xây dựng như gạch, ngói, thuỷ tinh, ống nhựa, dây cáp, bê tông,... trong đất rất khó bị phân huỷ. • Chất thải kim loại, đặc biệt là các kim loại nặng như Chì, Kẽm, Đồng, Ni ken, Cadimi... thường có nhiều ở các khu khai thác mỏ, các khu công nghiệp. Các kim loại này tích luỹ trong đất và thâm nhập vào cơ thể theo chuỗi thức ăn và nước uống, ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khoẻ. • Các chất thải khí và phóng xạ phát ra chủ yếu từ các nhà máy nhiệt điện, các khu vực khai thác than, các khu vực nhà máy điện nguyên tử, có khả năng tích luỹ cao trong các loại đất giàu khoáng sét và chất mùn. • Các chất thải gây ô nhiễm đất ở mức độ lớn là các chất tẩy rửa, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc nhuộm, mầu vẽ, công nghiệp sản xuất pin, thuộc da, công nghiệp sản xuất hoá chất. Nhiều loại chất hữu cơ đến từ nước cống, rãnh thành phố, nước thải công nghiệp được sử dụng làm nguồn nước tưới trong sản xuất cũng là tác nhân gây ô nhiễm đất. nhiễm đất đô thị - Nguy cơ từ TP.HCM(13:33 20/09/2006) Tài nguyên đất ở TP.HCM đa dạng và phong phú với nhiều nhóm đất chủ yếu: đất cát biển, đất mặn (ở Cần Giờ); đất phèn phân bố chủ yếu ở vùng trũng: nam Bình Chánh, Nhà Bè, ven sông Đồng Nai, bắc Cần Giờ; đất phù sa, đất xám và đất đỏ (ở Hóc Môn, Củ Chi, Thủ Đức). Từ trước đến nay, người ta thường quan tâm nhiều đến khía cạnh KT – XH của tài nguyên đất mà ít đề cập hơn đến khía cạnh ô nhiễm và suy thoái đất, cũng như một số ảnh hưởng có thể của đất hoang hóa. Ô nhiễm đất chính là việc đưa vào môi trường đất các thành phần có hại đối với sự sống của cộng đồng và hệ sinh vật. Trong đó, có hai nguồn gây ô nhiễm chủ yếu là tự nhiên và nhân tạo. Đối với nguồn ô nhiễm tự nhiên đa số là do xâm nhập mặn chủ yếu từ nước biển và nhiễm phèn hoặc là do nước mưa lôi kéo các chất bẩn bề mặt thấm qua lớp đất... Còn nguồn ô nhiễm nhân tạo chủ yếu do hoạt động của con người đang là vấn đề đáng được quan tâm. Thành phố hầu như chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung, nên được thải trực tiếp ra nguồn tiếp nhận, kênh rạch và sông ngòi, từ đó gây ô nhiễm nước, đồng thời cùng tác động đến ô nhiễm đất. Thời gian qua, thành phố cũng quan tâm nhiều đến vấn đề ô nhiễm công nghiệp, đã có những chỉ đạo cụ thể triển khai công trình sản xuất sạch hơn, xử lý các cơ sở công nghiệp gây ô nhiễm trầm trọng và xử lý cuối đường ống; đồng thời, đưa ra chính sách khuyến khích và ưu đãi DN vay vốn để triển khai. Tuy nhiên, vấn đề cải thiện môi trường do hoạt động công nghiệp còn hạn chế nên vẫn có tác động lớn đến ô nhiễm môi trường nước và đất. Ngoài ra, ô nhiễm đất còn do các chất thải nông nghiệp, nhất là việc sử dụng phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật; do khai thác nước ngầm thiếu quy hoạch, không kiểm soát, gây ô nhiễm nguồn nước ngầm, xâm nhập mặn, lún sụt đất; do khai thác đất, cát trái phép và không kiểm soát nổi, gây sạt lở đất và ảnh hưởng lớn đến dòng chảy; do sự cố tràn dầu có khả năng gây ô nhiễm nước, đất trầm trọng, đáng lưu ý vụ chìm tàu Gemini (1996) 72 tấn dầu thô... Ngoài ra, ô nhiễm đất còn do bụi và khí thải sinh ra từ quá trình đốt nhiên liệu trong công nghiệp, bay trong không khí sau đó ngưng tụ và quay trở lại mặt đất; do nước thải các chất hữu cơ, chất tẩy rửa, nước thải bệnh viện, các kim loại nặng, hóa chất nguy hại, dầu mỡ; do chất thải rắn, nhất là nước rỉ của các bãi rác chôn lấp ở ngoại thành... Việc bảo vệ đất chưa sử dụng như thế nào cũng là một vần đề rất đáng được quan tâm. Năm 2006, toàn thành phố có 1.806,15 ha đất chưa sử dụng theo kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 2006 - 2010 thì diện tích đất chưa sử dụng sẽ giảm dần và đến năm 2010 còn 930 ha. Như vậy, thành phố cố gắng hết sức để đất chưa sử dụng không trở thành hoang hóa. Bởi cũng như ô nhiễm đất, đất hoang hóa cũng đưa đến các hậu quả môi trường đáng ngại như gây tác hại lớn cho môi trường sinh thái; suy thoái về chất lượng đất, mất mát dinh dưỡng trong đất; tăng ô nhiễm do người dân không có ý thức coi đó là bãi đổ chất thải, phát sinh nhiều sinh vật có hại: chuột, ruồi, muỗi và gây phức tạp về mặt xã hội. Do đó, việc nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng đất hợp lý trong khu vực đô thị hóa của TP.HCM có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá đối với TP.HCM nói riêng và cả nước nói chung, nhất là khi dân số có xu hướng tăng cao mà quỹ đất lại có hạn. Bài toán đặt ra là quản lý và sử dụng đất có hiệu quả thiết thực, không để đất bị ô nhiễm, suy thoái và tác động xấu đến môi trường cần được đặc biệt quan tâm. Bên cạnh đó, vấn đề nâng cao nhận thức của cộng đồng về bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn nước... cũng góp phần đáng kể để chống ô nhiễm và suy thoái đất TP.HCM. Ô nhiễm đất Gs. Huỳnh Thu Hòa - Võ Văn Bé Ô NHIỄM ÐẤT BỞI NÔNG NGHIỆP HIỆN ÐẠI.  VẤN ÐỀ PHÂN BÓN.  Các loại phân bón. Ô nhiễm do phân bón.  Ô NHIỄM ÐẤT DO NÔNG DƯỢC.  Các loại nông dược ( Pesticides). Tính chất sinh thái học của nông dược.  RÁC THẢI.  HẬU QUẢ CỦA Ô NHIỄM.  Do phân bón. Ảnh hưởng của việc dùng nông dược. ÐẤU TRANH SINH HỌC.  Phương pháp ảnh hưởng tử suất. Phương pháp ảnh hưởng đến sinh suất. Quản lý tổng hợp các loài dịch hại (IPM). Ô nhiễm đất là do người ta sử dụng các loại hóa chất trong nông nghiệp và do người ta thải vào môi trường đất các chất thải đa dạng khác. Trong các chất thải này, có những chất khó hay không thể phân hủy sinh học và đặc biệt là những chất phóng xạ. Ðất cũng nhận những kim loại nặng từ khí quyển dưới dạng bụi (Pb, Hg, Cd, Mo...) và các chất phóng xạ. Rác từ đô thị, việc sử dụng phân tươi bón ruộng rẫy cũng góp phần làm ô nhiễm đất. Ðặc biệt đất là trung gian của khí quyển và thủy quyển, là vị trí chiến lược trong trao đổi với các môi trường khác. Ô nhiễm đất phần lớn là do sản xuất nông nghiệp hiện đại và các hoạt động khác của người. Các nhóm quốc gia khác nhau có các loại rác thải khác nhau (rác nhà giàu khác với rác nhà nghèo). Nhưng tất cả đều góp phần làm ô nhiễm đất trước tiên, nơi sinh sống của con người và của các sinh vật sống ở cạn khác. Sau đó lượng rác thải ngày càng tăng này còn gây ô nhiễm môi trường nước và không khí. I. Ô NHIỄM ÐẤT BỞI NÔNG NGHIỆP HIỆN ÐẠI Ô nhiễm đất xảy ra chủ yếu ở nông thôn. Trước hết là do sự bành trướng của kỹ thuật canh tác hiện đại. Nông nghiệp hiện nay phải sản xuất một lượng lớn thức ăn trong khi đất trồng trọt tính theo đầu người ngày càng giảm vì dân số gia tăng và cũng vì sự phát triển thành phố, kỹ nghệ và những sử dụng phi nông nghiệp. Người ta cần phải thâm canh mạnh hơn, dẫn tới việc làm xáo trộn dòng năng lượng và chu trình vật chất trong hệ sinh thái nông nghiệp. Phân bón hóa học chắc chắn đã gia tăng năng suất, nhưng việc sử dụng lặp lại, với liều rất cao gây ra sự ô nhiễm đất do các tạp chất lẫn vào. Hơn nữa Nitrat và Phosphat rải một cách dư thừa sẽ chảy theo nước mặt và làm ô nhiễm các mực thủy cấp. Cũng thế, nông dược vô cơ hay hữu cơ cũng có thể làm ô nhiễm đất và sinh khối. Trong nhiều hóa chất sử dụng trong nông nghiệp, người ta có thể phân biệt các chất khoáng (vô cơ) và các chất hữu cơ tổng hợp. Chúng là các chất gây ô nhiễm thượng nguồn của đất trồng. Nhưng sự gián đoạn của chu trình vật chất trong các hệ sinh thái nông nghiệp hiện đại còn gây một ô nhiễm ở hạ nguồn nơi một số đất đai. Thật vậy, các núi rác khổng lồ có nguồn gốc nông nghiệp, sản phẩm do sự khai thác hay sự tiêu thụ sản lượng động vật và thực vật thì được thấy ở tất cả các nước công nghiệp hóa. Các chất này không quay trở lại ruộng đồng, khác với lối canh tác cổ truyền. Chúng không bị tái sinh nhưng chất đống ở bãi rác với sự lên men hiếm khí tạo ra các hợp chất S và N độc, làm cho ô nhiễm đất gia tăng. Thâm canh không ngừng của nông nghiệp, sử dụng ngày càng nhiều các chất nhân tạo (phân hóa học, nông dược...) làm cho đất ô nhiễm tuy chậm nhưng chắc, không hoàn lại (irreversible), đất sẽ kém phì nhiêu đi.   II. VẤN ÐỀ PHÂN BÓN 1. Các loại phân bón Phân hóa học được rãi trong đất nhằm gia tăng năng suất cây trồng. Nguyên tắc là khi người ta lấy đi của đất các chất cần thiết cho cây thì người ta sẽ trả lại đất qua hình thức bón phân. Trong các phân hóa học sử dụng nhiều nhất, ta có thể kể phân đạm, phân lân và phân kali. Trong một số đất phèn người ta còn bón vôi, thạch cao. Do đó một số lượng lớn phân bón (chủ yếu là N, P, K) được rãi lên đất trồng. Sự tiêu thụ phân bón của thế giới gia tăng 16 lần từ năm 1964 - 1986 . 2. Ô nhiễm do phân bón Vì lý do lợi nhuận, các chất trên không được tinh khiết. Do đó chúng chứa nhiều tạp chất kim loại và á kim độc và ít di động trong đất (bảng 1). Chúng có thể tích tụ ở các tầng mặt của đất nơi có rễ cây. Bảng 1. Các tạp chất trong phân superphosphate (Theo Barrows, 1996) Arsenic 2,2 - 12 ppm Cadmium 50 - 170 Chlomium 66 - 243 Cobalt 0 - 9 Ðồng 4 - 79 Chì 7 - 92 Nicken 7 - 32 Selenium 0 - 4,5 Vanadium 20 - 180 Kẽm 50 - 1490 Ði tìm năng suất tối đa trong khai thác công nghiệp ở những diện tích rộng lớn là nhờ vào sự gia tăng tối đa lượng phân hóa học. Ðó là một nhân tố ô nhiễm mới cho đồng quê. Ðịnh luật về năng xuất giảm dần (Loi de rendements décroissants), dường như là không được biết bởi các nhà khai thác nông nghiệp, nhưng chúng được không biết một cách tự giác bởi những buôn bán phân bón là kẻ thường khuyên bảo nông dân. III. Ô NHIỄM ÐẤT DO NÔNG DƯỢC Sự sử dụng có hệ thống một lượng nông dược ngày càng tăng ở nông thôn là một dẫn chứng cho một thảm họa sinh thái từ việc sử dụng thiếu suy nghĩ của một kỹ thuật mới. Nông dược chiếm một vị trí nổi bật trong các ô nhiễm môi trường. Khác với các chất ô nhiễm khác, nông dược được rải một cách tự nguyện vào môi trường tự nhiên nhằm tiêu diệt các ký sinh của động vật nuôi và con người hay vào nông thôn để triệt hạ các loài phá hại mùa màng. Các diện tích có sử dụng thuốc (phun xịt) rất lớn. 5% lãnh thổ Hoa Kỳ có phun xịt. Ở Pháp, 18 triệu ha có sử dụng nông dược một lần một năm, chiếm 39% lãnh thổ.   1. Các loại nông dược ( Pesticides) Các nông dược hiện đại đa số là chất hữu cơ tổng hợp. Thuật ngữ pesticides là do từ tiếng Anh pest là loài gây hại, nên pesticides còn gọi là chất diệt dịch hay diệt họa. Ta phân biệt: - Thuốc trừ sâu (insectides) - Thuốc trừ nấm (fongicides) - Thuốc trừ cỏ (herbicides) - Thuốc trừ chuột (gặm nhấm = rodenticides) - Thuốc trừ tuyến trùng (nématocides) Số lượng nông dược gia tăng mạnh trong vài thập kỷ nay. Ở Pháp, có hơn 300 hợp chất, Mỹ hơn 900 và được thương mãi hóa dưới 60.000 tên gọi khác nhau. a. Thuốc trừ sâu (insecticides) Thuốc trừ sâu được chia ra làm 3 nhóm chính: Chất vô cơ, chất có gốc thực vật và chất hữu cơ tổng hợp. Thuốc trừ sâu hữu cơ tổng hợp được sử dụng nhiều nhất hiện nay. Chúng được chia làm 4 nhóm lớn: - Clor hữu cơ - Lân hữu cơ - Carbamates - Pyrethroides · Thuốc trừ sâu clor hữu cơ Ðây là một nhóm tương đối lớn của thuốc trừ sâu với sự đa dạng về cấu trúc, tính chất và công dụng. Ba loại chánh được kể ở đây. Ðó là DDT và các hợp chất tương cận, thuốc trừ sâu clor vòng (aldrin và dieldrin) và hexachlorohexane (HCHs) như lindane. Thuốc trừ sâu clor hữu cơ là chất rắn bền, ít tan trong nước và có ái lực mạnh với lipid (liphophilicity). Vài chất rất bền bỉ trong thể ban đầu hay như là chất biến dưỡng bền. Tất cả đều là chất độc thần kinh. DDT thương mại chứa 70 - 80% đồng phân sát trùng của ppDDT. Thuốc trừ sâu tương cận bao gồm rhotane (DDD) và methoxychlor. Tính chất sát trùng của DDT được khám phá bởi Paul Muller của công ty Ciba-Geigy năm 1939. DDT đã được dùng với qui mô nhỏ (trừ côn trùng mang mầm bịnh, vectors) trong thế chiến 2, nhưng sau đó được dùng rất rộng rải để trừ dịch hại nông nghiệp, sinh vật mang mầm bệnh (như muỗi gây sốt rét), ngoại ký sinh của gia súc, và côn trùng trong nhà và cơ sở kỹ nghệ. Do ít tan trong nước (< 1 mg/l), DDT được pha chế dưới dạng nhũ tương, tức là dung dịch của thuốc trong dung môi hữu cơ, dùng để phun xịt. DDT có LD50 là 113 - 450 mg/kg ở chuột và được cho là độc vừa phải. Hình 1. Các nông dược chính (I): thuốc trừ sâu; (H) thuốc diệt cơ; (F) thuốc trừ nấm Aldrin, dieldrin và heptachlor là các thuốc trừ sâu có vòng. Chúng giống DDT ở chổ là chất rắn bền, ưa lipid, ít tan trong nước, nhưng khác ở cách tác động. Chúng rất độc với hữu nhũ (LD50 là 40 - 60 mg/kg). Chúng được dùng từ những năm 1965 để chống lại các côn trùng, như là chất bảo vệ hạt giống và thuốc trừ sâu của đất. HCH được tiếp thị như là hỗn hợp thô của đồng phân BHC , nhưng rộng rải hơn ở dạng tinh chế có chứa chủ yếu đồng phân gamma, như (HCH, (BHC hay lindane. (HCH có cùng các đặc tính với các thuốc trừ sâu clor hữu cơ khác, nhưng nó phân cực hơn và tan trong nước nhiều hơn (7mg/l). Nhũ tương của HCH được dùng để trừ các dịch hại nông nghiệp và các ký sinh trùng của gia súc. Chúng cũng được dùng bảo vệ hạt giống. HCH chỉ độc vừa phải đối với chuột (LD50 là 60 - 250mg/kg) (Walker và CSV, 1996). · Thuốc trừ sâu lân hữu cơ Trong thế chiến lần thứ hai, hợp chất lân hữu cơ được dùng làm chất độc thần kinh (neurotoxin), vì chúng có khả năng ngăn trở enzim acetylcholinesteraz (AchE). Chúng được sản xuất vì hai công dụng chánh, là thuốc trừ sâu và vũ khí hóa học. Chúng là những ester hữu cơ của acid phosphoric. Ngày nay một số lượng lớn hợp chất lân hữu cơ được tiếp thị như là thuốc trừ sâu. Ða số thuốc trừ sâu lân hữu cơ là chất lỏng ưa lipid, vài loại bay hơi, một ít là chất rắn. Chúng ít bền vững hơn thuốc trừ sâu clor hữu cơ và bị phân hủy dễ hơn bởi các tác nhân hóa học hay sinh hóa học. Do đó, chúng phân hủy nhanh trong môi trường, nhưng độc tính cấp thời là đáng kể. Chúng phân cực và tan trong nước nhiều hơn thuốc trừ sâu clor hữu cơ. Các hoạt hóa của vài thứ thuốc trừ sâu lân hữu cơ hòa tan trong nước đủ để đạt đến nồng độ cao trong mô dẫn nhựa (phloem) của cây, gây độc cho côn trùng ăn phải (chất độc lưu dẫn ?). Dạng thức chế tạo của các hợp chất lân hữu cơ thì quan trọng trong ô nhiễm môi trường do chúng gây ra. Nhiều thứ được chế biến dưới dạng nhũ tương để phun xịt. Nhiều loại khác là chất bao bọc hạt giống hay dạng viên nhỏ. Dạng viên cần cho các thuốc trừ sâu lân hữu cơ độc tính cao, vì dạng này an toàn hơn dạng nhũ tương khi thao tác. Thuốc bị cầm giữ trong viên, và chỉ thoát từ từ ra môi trường. Trong nhiều quốc gia, thuốc trừ sâu lân hữu cơ hiện vẫn còn được sử dụng cho hoa màu dưới nhiều dạng thức khác nhau. Chúng được dùng để kiểm soát ngoại ký sinh của gia súc và cả nội ký sinh, cào cào, dịch hại các kho chứa, muỗi, ký sinh của cá... · Thuốc trừ sâu carbamate Ðây là các dẫn xuất của acid carbamic và phát triển gần đây hơn 2 nhóm thuốc trừ sâu nói trên. Giống như thuốc trừ sâu lân hữu cơ, chúng có tác động ngăn trở enzym acetylcholinesterase (AchE). Carbamate thường là thể rắn, vài thứ ở thể lỏng. Sự hòa tan vào nước thay đổi đáng kể. Giống như thuốc trừ sâu lân hữu cơ, chúng dễ bị phân hủy bởi các tác nhân hóa học hay sinh hóa học và thường không có vấn đề lưu tồn lâu dài. Ðộc tính cấp thời của chúng là điều đáng nói. Vài loại (aldicarb và carbofuran) tác động như thuốc lưu dẫn. Một ít (methiocarb) dùng diệt ốc sên. Cần phân biệt carbamate trừ sâu và carbamate trừ cỏ (propham, chlopropham) ít độc với động vật. Thuốc trừ sâu carbamate được chế biến như cách của thuốc trừ sâu lân hữu cơ, như các thứ cực độc (aldcarb và carbofuran) chỉ chế tạo ở dạng viên. Chúng được dùng để kiểm soát côn trùng trong nông nghiệp và hoa màu, trừ tuyến trùng (nematocides) và thân mềm (molluscides). · Thuốc trừ sâu pyrethroid Thuốc trừ sâu pyrethroid thiên nhiên được tìm thấy trong hoa đầu các cây cúc Chrysanthemum, từ đó gợi ý cho người ta làm các thuốc trừ sâu pyrethroid tổng hợp. Pyrethroid tổng hợp thì bền hơn pyrethroid thiên nhiên. Pyrethroid là chất rắn, ít tan trong nước, và là chất độc thần kinh như DDT. Chúng là các ester được tạo bởi một acid hữu cơ (thường là acid chrysanthemic) và một baz hữu cơ. Mặc dù pyrethroid bền hơn pyrethrin, nhưng chúng dễ bị phân hủy sinh học và không gây vấn đề thời gian bán hủy sinh học. Tuy nhiên, chúng có thể kết chặt với các hạt mịn của đất và chất trầm tích, và ở đó chúng sẽ lưu tồn lâu dài. Chúng chủ yếu gây độc tính cấp thời, có chọn lọc trong số các côn trùng, thú và chim. Vấn đề môi trường của chúng là độc tính đối với cá và các ÐVKXS không là đối tượng phòng trừ. Pyrethroids được chế tác chủ yếu thành nhũ tương để phun xịt. Chúng được dùng để kiểm soát một phổ rộng các côn trùng gây họa trong nông nghiệp và hoa màu, và được dùng phổ biến để trừ côn trùng mầm bịnh (muỗi tsetse ở Châu Phi). b. Thuốc trừ cỏ tổng hợp Các thuốc trừ cỏ phát triển mạnh vài chục năm nay. Các dẫn xuất của acid phenoxyacetic là những hợp chất đầu tiên được thương mại hóa. Chúng tác dụng giống như auxine