Tiểu luận Hiệu lực của hợp đồng dân sự

Hợp đồng dân sự là một trong những phương thức hữu hiệu để các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Hơn nữa, đã hơn một năm qua Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới, đang trên đà hội nhập nền kinh tế toàn cầu, quá trình hội nhập mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng có nhiều thách thức. Các tranh chấp về hợp đồng dân sự cũng ngày một gia tăng và mức độ phức tạp ngày càng cao đòi hỏi pháp luật về hợp đồng dân sự phải hoàn thiện hơn để giải quyết một cách triệt để

doc19 trang | Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 5415 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Hiệu lực của hợp đồng dân sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Hợp đồng dân sự là một trong những phương thức hữu hiệu để các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Hơn nữa, đã hơn một năm qua Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới, đang trên đà hội nhập nền kinh tế toàn cầu, quá trình hội nhập mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng có nhiều thách thức. Các tranh chấp về hợp đồng dân sự cũng ngày một gia tăng và mức độ phức tạp ngày càng cao đòi hỏi pháp luật về hợp đồng dân sự phải hoàn thiện hơn để giải quyết một cách triệt để. Khó khăn trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến hợp đồng dân sự là do các bên không tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng. Vì vậy, những quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh những quan hệ giao lưu dân sự của nền kinh tế thị trường, vì vậy để hiểu thêm về “hiệu lực hợp đồng dân sự” nội dung bài viết của em sẽ đi tìm hiểu về vấn đề này. NỘI DUNG I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG 1. Khái niệm hợp đồng. Điều 388- Bộ luật dân sự 2005: “hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Khái niệm hợp đồng được đưa ra một cách khái quát hơn theo đó hợp đồng chính là sự thoả thuận giữa các bên, từ sự thoả thuận ấy làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quyền, nghĩa vụ dân sự và đối tượng của hợp đồng là việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự. 2. Đặc điểm của hợp đồng. 2.1. Hợp đồng là hành vi pháp lí song phương Hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên – như vậy, hợp đồng là hành vi pháp lí song phương. Hành vi pháp lí này đòi hỏi sự thể hiện và thống nhất ý chí của hai hay nhiều bên làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. 2.2. Hợp đồng- nguồn chủ yếu làm phát sinh nghĩa vụ Dù nhìn nhận hợp đồng với các góc độ khác nhau nhưng nhìn chung hợp đồng chính là căn cứ chủ yếu làm phát sinh nghĩa vụ. Theo Điều 13-khoản 1 Bộ luật dân sự 2005, giao dịch dân sự là một trong những căn cứ xác lập quyền và nghĩa vụ dân sự. Cũng theo Điều 281-khoản 1 Bộ luật dân sự 2005 căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự là hợp đồng dân sự. Hợp đồng là kết quả của sự thống nhất ý chí tự nguyện, trở thành nguồn chủ yếu làm phát sinh nghĩa vụ. II. ĐIỀU KIỆN CÓ HIỆU LỰC CỦA HỢP ĐỒNG. 1.Điều kiện về chủ thể tham gia hợp đồng Phạm vi người tham gia quan hệ hợp đồng bao gồm: cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. Điều kiện để hợp đồng có hiệu lực là “ người tham gia hợp đồng có năng lực hành vi dân sự”- như vậy “ người” ở đây phải được nhìn nhận dưới góc độ pháp lí tức là không chỉ là cá nhân mà còn bao gồm pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. 1.1. Chủ thể tham gia hợp đồng là cá nhân Pháp luật dân sự quy định chủ thể tham gia hợp đồng phải có năng lực hành vi. Điều17- Bộ luật dân sự 2005 quy định: “năng lực hành vi của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự”. Năng lực hành vi là khả năng hành động của chính chủ thể để tạo ra các quyền, thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ. Chỉ có những người có năng lực hành vi mới có ý chí riêng và khả năng nhận thức được hành vi của họ để có thể tự mình xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự phát sinh từ hợp đồng và tự mình chịu trách nhiệm trong hợp đồng. Bộ luật dân sự Việt Nam cũng không quy định cá nhân tham gia hợp đồng phải có năng lực hành vi dân sự đẩy đủ mà đối với cá nhân ở các độ tuổi khác nhau sẽ có năng lực hành vi dân sự khác nhau và từ đó sẽ có khả năng tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng khác nhau. Đối với những người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ là những người đã thành niên (từ đủ 18 tuổi trở lên) trừ trường hợp bị Toà Án tuyên bố mất năng lực hành vi, tuyên bố hạn chế năng lực hành vi thì được toàn quyền xác lập mọi hợp đồng. Như vậy, pháp luật chỉ quy định độ tuổi tối thiểu mà không quy định độ tuổi tối đa của người tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng. Họ có đủ tư cách chủ thể, toàn quyền tham gia xác lập hợp đồng và tự mình chịu trách nhiệm về những hành vi do họ thực hiện. Tuy nhiên,theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình đối với nữ từ 18 tuổi (17 tuổi + 1 ngày) trở lên có quyền kết hôn nhưng người phụ nữ dù đủ tuổi kết hôn vẫn chưa có đủ năng lực hành vi dân sự. Vì vậy, khi họ tham gia vào quan hệ hợp đồng phải được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật nếu không hợp đồng sẽ bị vô hiệu. Mặt khác, quy định có người năng lực hành vi là một trong những điều kiện có hiệu lực của hợp đồng không được hiểu theo nghĩa cứ có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì có thể tham gia mọi giao dịch mà trên thực tế vẫn có những quy định mang tính hạn chế người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ tham gia vào một số giao dịch nhất định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của những người liên quan. Đó là các trường hợp được quy định tại Điều 144- Bộ luật dân sự 2005 về người đại diện không được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với người thứ ba mà mình cũng là người đại diện của người đó hay các giao dịch dân sự giữa người giám hộ và người được giám hộ đều vô hiệu chỉ trừ trường hợp giao dịch được thực hiện vì lợi ích của người được giám hộ và có sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ. Hay tại khoản 3, Điều 69- Bộ luật dân sự 2005 quy định: “các giao dịch dân sự giữa người giám hộ và người được giám hộ có liên quan đến tài sản của người được giám hộ đều vô hiệu, trừ trường hợp giao dịch được thực hiện vì lợi ích của người được giám hộ và có sự đồng ý của người giám sát việc giám hộ”. Ngoài ra, đối với những cá nhân tuy có đủ năng lực hành vi dân sự nhưng có thể tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng thông qua người đại diện theo quy định của pháp luật trừ trường hợp pháp luật quy định cá nhân đó phải tự mình tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng đó. Đối với người có năng lực hành vi dân sự một phần chỉ có thể xác lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ trong một giới hạn nhất định do pháp luật dân sự quy định. Đó là những người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi khi tham gia xác lập, thực hiện hợp đồng phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật. Cá nhân từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi là những người có năng lực hành vi một phần. Họ có thể bằng hành vi của mình tạo ra quyền và phải chịu những nghĩa vụ khi tham gia hợp đồng để phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày phù hợp với lứa tuổi. Nhưng pháp luật lại không quy định rõ những giao dịch nào là giao dịch “phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày và phù hợp với lứa tuổi” nhưng có thể hiểu rằng đó là các giao dịch mang các đặc điểm sau : - Có giá trị nhỏ; - Mục đích của hợp đồng là phục vụ nhu cầu sinh hoạt, học tập hằng ngày. Đối với các giao dịch này được coi là những người đại diện của họ cho phép thực hiện mà không cần sự đồng ý trực tiếp của những người đại diện. Trừ các giao dịch có tính chất trên, các giao dịch do người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi xác lập, thực hiện phải được người đại diện đồng ý- đồng ý việc thực hiện giao dịch cũng như nội dung của giao dịch đó. Thời điểm đồng ý không có ý nghĩa quyết định. Nếu người được đại diện đã thực hiện giao dịch không có sự đồng ý của người đại diện thì với tư cách là người đại diện, họ có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu theo quy định của pháp luật. Tại khoản 2 - Điều 20 Bộ luật dân sự 2005 quy định: “Trong trường hợp người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có tài sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập, thực hiện giao dịch mà không cần phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật”. Quy định này xuất phát từ thực tế người từ đủ 15 tuổi có quyền giao kết hợp đồng lao động và có thu nhập riêng hợp pháp, tạo điều kiện cho họ thực sự trở thành chủ thể độc lập trong đời sống kinh tế - xã hội. Nhưng cũng cần lưu ý pháp luật dân sự quy định một số giao dịch cụ thể chỉ có thể do người đã thành niên xác lập mới có hiệu lực, đặc biệt là các hợp đồng pháp luật bắt buộc phải có công chứng. Trong trường hợp đó người chưa thành niên dù có tài sản riêng cũng không có năng lực hành vi dân sự để giao kết hợp đồng. Đối với người không có năng lực hành vi dân sự là người chưa đủ 6 tuổi. Họ không có quyền tham gia bất cứ một giao dịch nào. Mọi giao dịch của những người này phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện. Nguyên nhân là do họ chưa đủ ý chí cũng như lý trí để hiểu được hành vi và hậu quả của những hành vi đó. Đối với người bị mất năng lực hành vi theo Điều 22 - Bộ luật dân sự 2005 là người “do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình”. Như vậy, người thành niên có thể bị tuyên bố mất năng lực hành vi khi có những điều kiện, với trình tự, thủ tục nhất định và trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định có thẩm quyền, Toà án có thể tuyên bố một người bị mất năng lực hành vi theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan. Vì vậy, với những người bị mất năng lực hành vi khi tham gia xác lập, thực hiện giao dịch họ đều phải thông qua người đại diện theo pháp luật. Đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự theo Điều 23 Bộ luật dân sự 2005 là người “nghiện ma tuý, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình” thì giao dịch dân sự liên qua đến tài sản của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày. Người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện do Toà án quyết định. Đại diện theo pháp luật của cá nhân có năng lực hành vi dân sự một phần, cá nhân không có năng lực hành vi dân sự, cá nhân bị mất năng lực hành vi dân sự hay bị hạn chế năng lực hành vi dân sự được xác lập theo quy định của pháp luật hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Thẩm quyền đại diện theo pháp luật được pháp luật quy định hoặc thể hiện trong quyết định cử đại diện của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc xác lập đại diện này thường không phụ thuộc vào ý chí cuả người được đại diện. Người đại diện theo pháp luật có thẩm quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch vì lợi ích của người được đại diện trừ trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền có quyết định khác. Tuy nhiên, trường hợp đại diện người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự có một số nét đặc biệt riêng. Thẩm quyền đại diện đối với người bị hạn chế năng lực hành vi khác thẩm quyền đại diện đối với người bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc có năng lực hành vi dân sự một phần. Người đại diện cho người bị hạn chế năng lực hành vi không thể tự mình xác lập giao dịch thay cho người bị hạn chế mà chỉ có quyền “đồng ý” hay “ không đồng ý”. Chính người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự vẫn trực tiếp tham gia giao kết hợp đồng nhưng với sự chấp thuận của người đại diện. Người đại diện chỉ đóng vai trò giám sát, đồng ý hay không đồng ý mà thôi. Nếu giao dịch đó không làm ảnh hưởng đến lợi ích của chính người đại diện của những người thân thích trong gia đình của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì người đại diện theo pháp luật cho phép người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự được xác lập, thực hiện giao dịch. Tuy nhiên, một trường hợp đã được dự liệu trong pháp luật dân sự tại điều 133 là trường hợp người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, không bị hạn chế năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập, thực hiện giao dịch vào đúng thời điểm không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì sẽ bị tuyên là vô hiệu. Đây có thể được coi là trường hợp ngoại lệ của trường họp người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ không bị mất năng lực hành vi dân sự hay bị hạn chế năng lực hành vi dân sự song đã xác lập giao dịch trái với ý chí của họ nên họ có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình bởi khi đó đã vi phạm tính tự nguyện khi tham gia giao dịch. Như vậy, nếu cá nhân tham gia hợp đồng không có năng lực hành vi dân sự thì hợp đồng sẽ vô hiệu. Trong trường hợp này hợp đồng vô hiệu tương đối (vô hiệu bị tuyên) chỉ khi các bên hoặc những người đại diện của họ yêu cầu Toà án tuyên bố vô hiệu thì Toà án mới xem xét và quyết định. Bên yêu cầu phải có nghĩa vụ chứng minh trước Toà cơ sở của yêu cầu là do đã tham gia xác lập hợp đồng với người không có năng lực hành vi dân sự. Điều 130- Bộ luật dân sự 2005 quy định hợp đồng do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện sẽ vô hiệu. Theo Điều 136- Bộ luật dân sự 2005 thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu trong trường hợp này là 2 năm kể từ ngày xác lập hợp đồng. So với quy định tại Điều 145- Bộ luật dân sự 1995 thì Bộ luật dân sự 2005 đã có sự thay thế cụm từ “thời hạn” bằng cụm từ thời hiệu cho chính xác hơn và đã tăng thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu từ 1 năm lên thành 2 năm. Việc quy định thời hiệu 1 năm như trước đây tương đối ngắn, chưa phù hợp thực tế và không bảo đảm được quyền, lợi ích hợp pháp của bên không có lỗi khi tham gia hợp đồng nên việc tăng thời hạn thành 2 năm là hoàn toàn hợp lí. Về nguyên tắc, hợp đồng dân sự vô hiệu không phát sinh quyền, nghiã vụ nhưng không phải lúc nào các bên tham gia hợp đồng cũng phát hiện ra các vi phạm là điều kiện dẫn đến hợp đồng vô hiệu. Thông thường chỉ có một bên có quyền lợi trong việc huỷ bỏ hợp đồng vô hiệu nên việc giải quyết hợp đồng vô hiệu thường được thông qua con đường tố tụng tại Toà án. Do đó, việc quy định thời hiệu để các bên yêu cầu Toà án tuyên bố một hợp đồng vô hiệu có ý nghĩa lớn về lí luận và thực tiễn. Cơ sở lí luận của việc xác định thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên hợp đồng vô hiệu dựa trên: -Thời gian có thể làm cho hợp đồng vi phạm điều kiện mà pháp luật quy định trở thành hợp đồng có hiệu lực được không; -Quyền tự định đoạt của các bên trong hợp đồng sau một thời gian nhất định; -Nhu cầu bảo vệ sự ổn định của hợp đồng nhằm bảo đảm hài hoà giữa lợi ích của nhà nước và công dân. Từ những cở sở đó, căn cứ vào quyền tự định đoạt của các bên tham gia hợp đồng thì thời hạn để những người này quyết định việc có yêu cầu Toà án bảo vệ hay không là 2 năm. Nếu họ không khởi kiện trong thời hạn này thì có nghĩa là họ từ chối quyền yêu cầu được pháp luật bảo vệ. Nhưng thời hiệu 2 năm lại được tính từ thời điểm hợp đồng được xác lập. Trong khi đó, Bộ luật dân sự Pháp lại quy định thời hiệu khởi kiện huỷ hợp đồng vô hiệu tương đối là 5 năm- thời hiệu dài hơn rất nhiều so với quy định của Bộ luật dân sự Việt Nam và cũng theo nguyên tắc tính từ ngày hợp đồng được kí kết nhưng lại quy định thêm trường hợp ngoại lệ: “Đối với hợp đồng được giao kết có chủ thể là người không có, bị mất, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự: nếu chủ thể là người chưa thành niên thì thời hiệu kiện huỷ hợp đồng được tính từ ngày người đó đủ tuổi thành niên. Nếu chủ thể là người đã thành niên bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự, thì thời hiệu khởi kiện được tính từ ngày người đó có đầy đủ năng lực hành vi dân sự”. Theo em, Bộ luật dân sự Việt Nam nên tiếp cận cách tính thời hiệu như vậy sẽ bảo vệ tối đa hơn quyền, lợi ích hợp pháp của bên bị vi phạm. Thực tiễn: Các loại hợp đồng do chủ thể là cá nhân thực hiện rất nhiều, song cũng có những trường hợp thực hiện không đúng qui định của pháp luật đặc biệt là trường hợp bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Họ không biết được pháp luật qui định chủ thể bị hạn chế năng lực hành vi dân giao kết hợp đồng sẽ bị vô hịêu. Mặt khác có trường hợp lại lợi dụng những chủ thể như vậy để lừa đảo chiems đoạt tài sản. 1.2. Chủ thể tham gia hợp đồng là pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác pháp nhân theo Điều 84 Bộ luật dân sự là một thực thể độc lập thống nhất, được thành lập hợp pháp, có tài sản riêng và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình, nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập. Năng lực pháp luật của pháp nhân được hiểu là khả năng của pháp nhân có các quyền và nghĩa vụ dân sự phù hợp mục đích hoạt động của mình. Năng lực pháp luật của pháp nhân phát sinh từ thời điểm pháp nhân được thành lập và chấm dứt từ thời điểm chấm dứt pháp nhân. Hộ gia đình theo quy định tại Điều 106- Bộ luật dân sự 2005 được hình thành trên cơ sở các thành viên có tài sản chung, cùng đóng góp công sức để hoạt động kinh tế chung trong sản xuất. Tổ hợp tác theo quy định tại Điều 111- Bộ luật dân sự 2005 “được hình thành trên cơ sở hợp đồng hợp tác có chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn từ ba cá nhân trở lên, cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện những công việc nhất định, cùng hưởng hoa lợi và cùng chịu trách nhiệm là chủ thể trong các quan hệ dân sự”. Với quy định “người tham gia hợp đồng có năng lực hành vi dân sự” chúng ta có thể hiểu năng lực hành vi của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác được xem xét thông qua vai trò của người đại diện. Người đại diện xác lập, thực hiện hợp đồng nhân danh pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác sẽ làm phát sinh quyền, nghĩa vụ cho pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. Theo quy định của pháp luật, pháp nhân chỉ tham gia hợp đồng phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của pháp nhân; hộ gia đình chỉ tham gia hợp đồng liên quan đến quyền sử dụng đất, hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và một số lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác theo quy định của pháp luật. Tổ hợp tác chỉ tham gia các hợp đồng liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của tổ được xác định trong hoạt động hợp tác. Người đại diện cho các chủ thể này có thể thực hiện thông qua 2 cơ chế đại diện. Đó là: - Đại diện theo pháp luật: Trường hợp người đại diện cho pháp nhân là người đứng đầu pháp nhân được quy định trong điều lệ của pháp nhân hoặc trong quyết định thành lập pháp nhân; trường hợp người đại diện cho hộ gia đình là chủ hộ trong đó cha hoặc mẹ hoặc một thành viên khác đã thành niên có thể là chủ hộ. Đối với người đại diện cho tổ hợp tác đại diện theo pháp luật là tổ trưởng do các tổ viên cử ra. Giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện sẽ không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với bên được đại diện là pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác trừ trường hợp ngươi đại diện cho pháp nhân, họ gia đình, tổ hợp tác đó đồng ý. - Đại diện theo uỷ quyền: đối với hình thức này ngưòi đại diện có thể là bất cứ ai và phải dựa trên hợp đồng uỷ quyền. Trường hợp này, người đại diện chỉ được xác lập, thực hiện những hợp đồng trong phạm vi đại diện. Nếu người đại diện theo uỷ quyền của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác xác lập, thực hiện những hợp đồng vượt quá phạm vi đại diện hoặc không nằm trong phạm vi đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác đối với phần giao dịch được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện hoặc không nằm trong phạm vi đại diện. Người đã giao dịch với người đại diện có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hoặc huỷ bỏ giao dịch dân sự đối với phần vượt quá phạm vi đại diện hoặc toàn bộ giao dịch dân sự và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp này, nếu người đại diện cho pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác khi tham gia xác lập hợp đồng không có năng lực hành vi dân sự thì hợp đồng bị vô hiệu tương đối và thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu cũng là 2 năm kể từ ngày xác lập hợp đồng. Thực tiễn: Hiện nay do tình hình kinh tế phát triển nên có nhiều hợp đồng được thực hiện bởi những chủ thể này, tuy nhiên đây không phải là đại diện cho cá nhân mà đại diện cho tập thể nên trong thực tế có hợp đồng được ký không đúng thẩm quyền làm cho hợp đồng bị vô hiệu, gây thiệt hại cho một trong các bên tham gia. Vì thế khi ký kết với các chủ thể này cần xác định đúng người có thẩm quyền ký kết. 2. Điều kiện về mục đích, nội dung của hợp đồng Bộ luật dân sự quy định điều kiện có hiệu lực của hợp đồng là: “mục đích, nội dung của hợp đồng không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội”. Theo Điều 123 Bộ luật dân sự 2005: “Mục đích của hợp đồng là lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt được”. Lợi ích hợp pháp là các hành vi mà các bên trong hợp đồng sẽ thực hiện để đem lại một kết quả nhất định. Hợp đồng lại là căn cứ phát sinh nghĩa vụ mà đối tượng của nghĩ