Tiểu luận Những vấn đề chung về BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba

Trong nhịp độ phát triển không ngừng về kinh tế thì giao thông đóng vai trò quan trọng trong mọi sự phát triển, là huyết mạch, là một ngành kinh tế kỹ thuật có vị then chốt. Giao thông ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến các ngành kinh tế, kỹ thuật, an ninh, quốc phòng. 1.1. Tình hình phát triển phương tiện cơ giới Trong những năm gần đây, giao thông nước ta có sự phát triển vượt bậc với các hình thức vận chuyển ngày càng phong phú, từ vận chuyển bằng phương tiện thô sơ đến vận chuyển bằng phương tiện vận tải cơ giới. Do sự phát triển của cơ chế thị trường, hàng loạt xe cơ giới các loại được tham gia lưu hành trong giao thông. Có thể nhận xét sự gia tăng phương tiện cơ giới đường bộ của Việt Nam trong 10 năm qua ở những nét cơ bản sau: - Số lượng phương tiện tăng tương đối nhanh đặc biệt là ô tô. Từ năm 1990 đến năm 2000 bình quân hàng năm phương tiện cơ giới đường bộ tăng 17,8% trong đó ô tô tăng 7,6%, xe máy là xấp xỉ 19,5. Năm 2000 so với 1990 phương tiện cơ giới đường bộ tăng 4,5 lần; ôtô tăng 2,14 lần; xe máy tăng 4,63 lần trong đó năm 1993 phương tiện tăng cao nhất. Từ năm 1998 đến nay tỷ lệ này giảm khoảng 7%. - Vài năm gần đây mức độ tăng của các phương tiện cơ giới đường bộ của Việt Nam khá cao song mức cơ giới hoá vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực. Việt Nam có 75 xe/1.000 dân trong khi Thái Lan 190 xe/1.000 dân, Malasia 340 xe/1.000 dân. - Tỷ lệ xe cũ nát cao, điều kiện an toàn thấp, tổng số phương tiện ô tô vào kiểm định so với thực tế lưu hành còn qúa thấp (số phương tiện chạy bằng xăng là 45%,dicsel là 55%). Số lượng xe theo đăng ký chênh lệch với số xe thực tế hoạt động. Theo số liệu đăng ký thì tổng số ôtô năm 2000 là 750.000 xe nhưng số xe vào kiểm định (lưu hành trên đường) là chưa đến 500.000 xe. Theo dự đoán của các chuyên gia thì trong thập kỷ tới phương tiện cơ giới của nước ta vẫn tăng cao, mức tăng trưởng chỉ căn cứ dự báo theo GDP thì cứ mỗi năm khi GDP tăntg 1% thì tổng lượng vận tải đường bộ tăng từ 1.2% đến 1.5%, đặc biệt trong giai đoạn tới (2.006) nước ta thực hiện các cam kết cắt giảm thuế thì lượng xe tung ra càng nhiều.

doc46 trang | Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2016 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Những vấn đề chung về BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU  Cùng với sự phát triển ngày càng cao của khoa học kỹ thuật, phương tiện sử dụng trong ngành giao thông vận tải cũng được cải tiến đến chóng mặt cả về số lượng lẫn chất lượng. Hàng năm có hàng nghìn phương tiện hoạt động được điều khiển từ con người thu: xe đạp, xe máy, ôtô... Song song với sự tiến bộ này là tình hình giao thông đường bộ ngày càng phức tạp, tai nạn giao thông ngày càng nhiều gây thiệt hại lớn về tài sản tính mạng cho con người cũng như cho toàn xã hội. Để giảm bớt những thiệt hại đó nhằm đảm bảo an toàn cho xã hội đồng thời bảo vệ lợi ích hoạt động kinh doanh, Công ty Cổ phần Bảo hiểm Petrolimex gọi tắt PJICO đã triển khai loại hình “bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba “ (BHTNDS). BHTNDS là nghiệp vụ bảo hiểm quan trọng, nó đồng thời thực hiện hai mục tiêu là: - Thực hiện tốt nghị định 115/1997 NĐ/CP (quy định về chế độ bảo hiểm bắt buộc trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giớ nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp cHo những người bị thiệt hại về thân thể và tài sản do cơ giới gây ra, đồng thời giúp chủ xe cơ giới khắc phục được hậu quả). - Đóng góp không nhỏ trong tổng doanh thu hàng năm của công ty. PJICO mới tham gia hoạt động trên thị trường bảo hiểm được 6 năm nhưng đã khẳng định được vị trí của mình trên thị trường bảo hiểm và triển khai nghiệp vụ BHTNDS có hiệu quả. Mặc dù vậy công ty cũng không thể tránh khỏi những thiếu xót, vướng mắc trong quá trình hoạt động, triển khai nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự từ khâu khai thác đến khâu bồi thường. Để nhấn mạnh vai trò to lớn của nghiệp vụ BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba, qua thời gian thực tập tại văn phòng KVI -28C Lê Ngọc Hân cùng với thực tế công ty, em đã chọn đề tài: “Thực trạng và những giải pháp nhằm nâng cao tính bắt buộc trong nghiệp vụ BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại Công ty Cổ phần Bảo hiểm PJICO” cho chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Nội dung bài viết gồm: Chương I. Những vấn đề chung về BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. Chương II. Tình hình triển khai nghiệp vụ BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại Công ty Cổ phần Bảo hiểm PJICO giai đoạn 1995- 2000. Chương III. Những giải pháp nhằm thực hiện tốt nghiệp vụ BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba tại Công ty Cổ phần Bảo hiểm PJICO. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của thầy cô trong khoa bảo hiểm và cán bộ nhân viên văn phòng KVI - 28C Lê Ngọc Hân đã giúp em hoàn thành tốt đề tài. Bài viết này không tránh khỏi thiếu xót do tài liệu và thời gian có hạn. Em rất mong được sự góp ý chân thành của thầy cô đã giúp em hoàn thiện tốt hơn cho đề tài này. CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BHTNDS CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI ĐỐI VỚI NGƯỜI THỨ BA I. Sự cần thiết phải triển khai BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba 1. Đặc điểm hoạt động của xe cơ giới trong giao thông đường bộ Trong nhịp độ phát triển không ngừng về kinh tế thì giao thông đóng vai trò quan trọng trong mọi sự phát triển, là huyết mạch, là một ngành kinh tế kỹ thuật có vị then chốt. Giao thông ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến các ngành kinh tế, kỹ thuật, an ninh, quốc phòng... 1.1. Tình hình phát triển phương tiện cơ giới Trong những năm gần đây, giao thông nước ta có sự phát triển vượt bậc với các hình thức vận chuyển ngày càng phong phú, từ vận chuyển bằng phương tiện thô sơ đến vận chuyển bằng phương tiện vận tải cơ giới. Do sự phát triển của cơ chế thị trường, hàng loạt xe cơ giới các loại được tham gia lưu hành trong giao thông. Có thể nhận xét sự gia tăng phương tiện cơ giới đường bộ của Việt Nam trong 10 năm qua ở những nét cơ bản sau: - Số lượng phương tiện tăng tương đối nhanh đặc biệt là ô tô. Từ năm 1990 đến năm 2000 bình quân hàng năm phương tiện cơ giới đường bộ tăng 17,8% trong đó ô tô tăng 7,6%, xe máy là xấp xỉ 19,5. Năm 2000 so với 1990 phương tiện cơ giới đường bộ tăng 4,5 lần; ôtô tăng 2,14 lần; xe máy tăng 4,63 lần trong đó năm 1993 phương tiện tăng cao nhất. Từ năm 1998 đến nay tỷ lệ này giảm khoảng 7%. - Vài năm gần đây mức độ tăng của các phương tiện cơ giới đường bộ của Việt Nam khá cao song mức cơ giới hoá vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực. Việt Nam có 75 xe/1.000 dân trong khi Thái Lan 190 xe/1.000 dân, Malasia 340 xe/1.000 dân. - Tỷ lệ xe cũ nát cao, điều kiện an toàn thấp, tổng số phương tiện ô tô vào kiểm định so với thực tế lưu hành còn qúa thấp (số phương tiện chạy bằng xăng là 45%,dicsel là 55%). Số lượng xe theo đăng ký chênh lệch với số xe thực tế hoạt động. Theo số liệu đăng ký thì tổng số ôtô năm 2000 là 750.000 xe nhưng số xe vào kiểm định (lưu hành trên đường) là chưa đến 500.000 xe. Theo dự đoán của các chuyên gia thì trong thập kỷ tới phương tiện cơ giới của nước ta vẫn tăng cao, mức tăng trưởng chỉ căn cứ dự báo theo GDP thì cứ mỗi năm khi GDP tăntg 1% thì tổng lượng vận tải đường bộ tăng từ 1.2% đến 1.5%, đặc biệt trong giai đoạn tới (2.006) nước ta thực hiện các cam kết cắt giảm thuế thì lượng xe tung ra càng nhiều. Bảng 1: Viện chiến lược bộ GTVT dự báo phương tiện cơ giới đường bộ Năm 2000 2010 2020 Tổng số xe các loại (chiếc) 750.000 1.400.000 3.200.000 Tổng số xe máy (chiếc) 6.000.000 8.000.000 12.000.000 (Nguồn: Theo báo cáo thống kê của Uỷ Ban An Toàn Quốc Gia) 1.2. Tình hình tai nạn giao thông và nguyên nhân Tai nạn giao thông là một vấn đề mang tính xã hội: Hầu hết các nước trên thế giới đều phải đối mặt với tình trạng tai nạn giao thông gia tăng (dù ở các mức độ khác nhau) cũng như đối mặt với các vấn đề xã hội khác. Theo số liệu thống kê của Liên hiệp Quốc thì hàng năm trên thế giới có khoảng 250 ngàn người bị chết và khoảng 7 triệu người bị thương vì tai nạn giao thông do ôtô gây ra. Tình hình tai nạn giao thông ở Việt Nam (số liệu thống kê tai nạn giao thông từ năm 1999 đến năm 2000) cho thấy: - Mỗi năm thường xảy ra 5.150 vụ tai nạn, làm khoảng 2.080 người bị chết, trên 5.100 người bị thương (từ năm 1988 - 1991). - Giai đoạn 1992 - 1996 kể từ sau khi có nghị định 36/CP, Chính phủ đã có nhiều biện pháp tăng cường đảm bảo an toàn giao thông thì bình quân tỷ lệ gia tăng tai nạn giao thông năm nay so với năm trước như sau: 7,97% về số vụ; 5,53% số người chết; 9,5% về số người bị thương. Năm 1999 tỉ lệ số người bị thương chết vì tai nạn giao thông tăng nhanh và 8 tháng đầu năm 2.000 tỉ lệ này vẫn tiếp tục gia tăng có tới 15.370 vụ tai nạn giao thông làm 5.274 người chết, 16.19 người bị thương. Tám tháng đầu năm 2.000 xảy ra 47 vụ tai nạn ôtô chở khách làm chết 12 người, bị thương 479 người. Điển hình là tai nạn trên quốc lộ 46 ở Thanh Chương Nghệ An làm 17 người chết, vụ tai nạn ở Khánh Hoà làm 12 người chết.. Trong đó cả năm 1999 xảy ra 52 vụ tai nạn ôtô hành khách làm chết 146 người, bị thương 474 người. Như vậy tai nạn ôtô khách đang trở thành một vấn đề cần được quan tâm đặc biệt, những vụ tai nạn này không chỉ làm chết người mà còn làm cho mọi người dân thực sự lo ngại. 2. Sự cần thiết khách quan phải triển khai BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba Lịch sử phát triển bao đời nay đã cho thấy những rủi ro bất ngờ luôn xảy ra ngoài ý muốn của con người. Mà tính mạng con người là vô giá không thể tính toán bằng tiền cụ thể, cũng khó có thể đánh giá được thiệt hại về sức khoẻ một cách chính xác. Công cuộc phát triển về giao thông vận tải đã đem lại sự phồn vinh cho toàn xã hội song điều đó lại cũng chính là nguyên nhân gây ra tai nạn, làm thiệt hại đến tính mạng sức khoẻ, tinh thần, tài sản của con người và của toàn xã hội, gây nên khó khăn về kinh tế, tình cảm cho người bị nạn. Như vậy tai nạn giao thông là mối đe dọa từng ngày từng giờ đối với các chủ phương tiện, mặc dù nhà nước ta đã có nhiều biện pháp ngăn ngừa, hạn chế tai nạn một cách tích cực song vẫn không thể tránh khỏi. Khi tai nạn xảy ra thì việc giải quyết hậu quả thường phức tạp, kéo dài, cho dù nhà nước có quy định rõ chủ phương tiện phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại về sức khoẻ, tính mạng và tài sản do việc lưu hành xe của mình gây ra theo nguyên tắc “gây thiệt hại bao nhiêu thì phải bồi thường bấy nhiêu”. Phần lớn các vụ tai nạn xảy ra đều được bồi thường theo thoả thuận giữa chủ phương tiện và người bị hại nên dẫn đến nhiều khúc mắc trong việc bồi thường (hoặc bồi thường không xứng đáng hoặc bồi thường không đúng thiệt hại thực tế), có những vụ tai nạn chủ xe không có điều kiện để giải quyết bồi thường, nhiều trường hợp lái xe bị chết trong vụ tai nạn đó cho nên việc giải quyết tai nạn trở nên khó khăn hơn. Nhằm đảm bảo lợi ích cho người bị hại và giảm bớt gánh nặng cho chủ xe BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba ra đời và đáp ứng kịp thời nhu cầu của xã hội. Chính phủ đã ban hành NĐ30/HĐBT và hiện nay được thay bằng NĐ 115/CP/1997 “về chế độ thực hiện bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe cơ giới”. Như vậy càng khẳng định quyết tâm của Chính phủ thực hiện triệt để loại hình bảo hiểm này. Đây là cơ sở pháp lý cao nhất để các công ty bảo hiểm đẩy mạnh công tác bảo hiểm cho chủ xe cơ giới tại Việt Nam. 3. Tác dụng của BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba 3.1. Đối với chủ xe BHTNDS của chủ xe cơ giới không chỉ đóng vai trò to lớn đối với người bị thiệt hại mà còn đối với cả xã hội, nó là tấm lá chắn vững chắc cho các chủ xe khi tham gia giao thông. - Tạo tâm lý yên tâm, thoải mái, tự tin, khi điểu khiển các phương tiện tham gia giao thông. - Bồi thường chủ động, kịp thời cho chủ xe khi phát sinh TNDS, trong đó có lỗi của chủ xe thì công ty bảo hiểm nơi mả chủ xe tham gia ký kết bảo hiểm tiến hành bồi thường nhanh chóng để các chủ xe phục hồi lại tinh thần, ổn định sản xuất., phát huy quyền tự chủ về tài chính, tránh thiệt hại về kinh tế cho chủ xe. - Có tác dụng giúp cho chủ xe có ý thức hơn trong việc đề ra các biện pháp hạn chế, ngăn ngừa tai nạn bằng cách thông qua bảo hiểm TNDS của chủ xe. - Góp phần xoa dịu, làm giảm bớt căng thẳng giữa chủ xe và người bị nạn. Đây là mục đích cao cả trong nghiệp vụ bảo hiểm TNDS của chủ xe đối với người thứ ba. 3.2. Đối với người thứ ba - Thay mặt người thứ ba bảo vệ quyền lợi chính đáng cho họ. Vì khi chủ xe gây tai nạn thì công ty thay mặt của xe bồi thường những thiệt hại cho nạn nhân một cách nhanh chóng, kịp thời mà không phụ thuộc vào tài chính của chủ xe. - BHTNDS cũng giúp cho người thứ ba ổn định về mặt tài chính cũng như về mặt tinh thần, tránh gây ra căng thẳng hay sự cố bất thường từ phía người nhà nạn nhân (trong trường hợp người thứ ba bị chết). 3.3. Đối với xã hội - Từ công tác giám định cũng như công tác bồi thường sau mỗi một vụ tai nạn, công ty bảo hiểm sẽ thống kê được các rủi ro và nguyên nhân gây ra rủi ro để từ đó đề ra biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất một cách hiệu quả nhất, giảm bớt những đáng kể do hậu quả tai nạn giao thông gây ra cho mỗi người, giảm bớt thiệt hại cho toàn xã hội. Đây là một hoạt động thể hiện phương châm "phòng bệnh hơn chữa bệnh". - BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba còn làm giảm nhẹ gánh nặng cho ngân sách nhà nước, đồng thời làm tăng thu cho ngân sách cho nhà nước. Việc đóng phí sẽ là nguồn chủ yếu để chi trả bồi thường cho người thứ ba. Đây là mục đích chủ yếu của nghiệp vụ của nhà nước Việt Nam, nó thể hiện vai trò trung gian hoà giải có tính chất pháp lý của công ty bảo hiểm. Với tư cách là một nghiệp vụ bảo hiểm, BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội, thể hiện tính nhân đạo, nhân văn cao cả trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Một lần nữa BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba lại khẳng định sự cần thiết khách quan cũng như tính bắt buộc của nghiệp vụ BHTN dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. II. Nội dung cơ bản của BHTNDS chủ xe cơ giới đối với người thứ ba 1. Đối tượng bảo hiểm 1.1. Đối tượng được bảo hiểm Theo điều 5 chương II của NĐ 115 CP/1997. * Đối tượng được bảo hiểm là trách nhiệm dân cư của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba. Trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là trách nhiệm bồi thường hay nghĩa vụ ngoài hợp đồng của chủ xe hay lái xe cho người thứ ba do việc lưu hành xe gây tai nạn. * Điều kiện để được bảo hiểm. Đối tượng bảo hiểm không được xác định trước, chỉ khi nào việc lưu hành xe gây tai nạn có phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba thì đối tượng này mới được xác định cụ thể. 1.2. Điều kiện để phát sinh bảo hiểm trách nhiệm dân sự Thông thường phải có đủ bốn điều kiện sau: - Điều kiện thứ nhất: Phải có thiệt hại về tài sản, tính mạng hay sức khoẻ của bên thứ ba. - Điều kiện thứ hai: Chủ xe (lái xe) phải có hành vi trái pháp luật. Có thể do vô tình hay cố ý mà lái xe vi phạm luật giao thông đường bộ, hoặc vi phạm quy định khác của Nhà nước. - Điều kiện thứ ba: Phải có mối quan hệ nhân quả của hành vi trái pháp luật của chủ xe (lái xe) với những thiệt hại của người thứ ba. - Điều kiện thứ tư: Chủ xe (lái xe) phải có lỗi. Thực tế chỉ cần thực hiện ba điều kiện thứ 1,2,3 là phát sinh trách nhiệm dân sự đối với người thứ ba của chủ xe (lái xe). Nếu thiếu một trong ba điều kiện trên trách nhiệm dân sự của chủ xe sẽ không phát sinh, và do đó sẽ không phát sinh trách nhiệm của bảo hiểm. Điều kiện thứ tư có thể có hoặc có thể không vì nhiều khi tai nạn xảy ra là do tính nguy hiểm cao độ của xe cơ giới mà không hoàn toàn do lỗi của chủ xe. Ví dụ ôtô đang chạy với tốc độ lớn trên đường thì bị làm văng lốp xe ra ngoài làm bắn vào người đi đường gây tai nạn chết người. Trong trường hợp này trách nhiệm dân sự có thể phát sinh nếu có đủ 3 điều kiện đầu tiên. Trong BHTNDS chủ xe cơ giới đối với người thứ ba, khi xảy ra tai nạn thiệt hại cho người thứ ba thì người được bảo hiểm bồi thường là chủ xe hoặc người đi diện chi chủ xe được pháp luật công nhận. Người thứ ba của BHTNDS chủ xe cơ giới có thể là người đi bộ hay đi xe đạp hoặc các phương tiện cơ giới khác nhưng không bao gồm những trường hợp sau đây: - Thiệt hại xảy ra do bản thân phương tiện được bảo hiểm. - Thiệt hại về tính mạng sức khoẻ xảy ra do bản thân người được bảo hiểm, người điều khiển xe hay bất kỳ người nào khác đi trên đường. - Thiệt hại mà phương tiện gây ra cho những người mà chủ xe có nghĩa vụ nuôi dưỡng. - Thiệt hại do hai xe cùng chủ đâm vào nhau. - Trách nhiệm hành chính, trách nhiệm hình sự của lái xe. - Các khoản phạt mà lái xe hoặc chủ xe phải chịu. 2. Phạm vi bảo hiểm 2.1. Các rủi ro được bảo hiểm Người bảo hiểm nhận bảo hiểm cho các rủi ro bất ngờ không lường trước được gây ra tai nạn và làm phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe. Công ty bảo hiểm bồi thường những thiệt hại về vật chất, về người, về tài sản được tính toán theo những nguyên tắc cụ thể nhất định. Theo mục 3 điều 11 chương II thì công ty bảo hiểm còn phải thanh toán cho chủ xe những chi phí mà họ đã chi ra nhằm phòng ngừa hạn chế thiệt hại. Những chi phí này chỉ được bồi thường nếu phát sinh sau khi tai nạn xảy ra và được coi là khoản chi phí cần thiết và hợp lý. Trách nhiệm bồi thường của công ty bảo hiểm được hạn mức trong mức trách nhiệm ghi trong hợp đồng hay giấy chứng nhận bảo hiểm. Như vậy bản thân chủ xe phải tự bảo hiểm cho phần trách nhiệm vượt quá mức này (theo mục 3 điều 2 chương I QĐ số 299/QĐ - BTC/1998). Trong BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba, các thiệt hại nằm trong phạm vi trách nhiệm của người bảo hiểm bao gồm: - Thiệt hại về tính mạng và tình trạng sức khoẻ của bên thứ ba. - Thiệt hại về tài sản hàng hoá của bên thứ ba. - Thiệt hại về tài sản làm thiệt hại đến kết quả kinh doanh hoặc giảm thu nhập. - Các chi phí cần thiết và hợp lý để thực hiện các biện pháp ngăn ngừa hạn chế thiệt hại, các chi phí đề xuất của cơ quan bảo hiểm (kể cả biện pháp không mang lại hiệu quả). Những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ của những người tham gia cứu chữa, ngăn ngừa tai nạn, chi phí cấp cứu và chăm sóc nạn nhân người được bảo hiểm mà công ty bảo hiểm có thẻ mở rộng phạm vi bảo hiểm của mình cho những rủi ro khác. Những bảo đảm bổ sung trong BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba kéo theo một khoản phí đóng thêm của người khác được bảo hiểm. 2.2. Các rủi ro loại trừ: theo điều 13 chương II QĐ 299/1998/QĐ - BTC Người được bảo hiểm không chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của các vụ tai nạn mặc dù có phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe trong các trường hợp sau: - Tai nạn xảy ra do hành động xấu, cố ý của chủ xe, lái xe. - Tai nạn xảy ra do hành động xấu, cố ý của người thứ ba. - Xe không có giấy phép lưu hành. - Lái xe chưa đủ tuổi lái xe theo quy định của pháp luật. - Lái xe không có bằng lái hoặc có những không hợp lệ hoặc bằng lái xe bị đình chỉ hay tạm giữ. - Điều khiển xe trong tình trạng say rượu, bia, ma tuý, hay các chất kích thích tương tự khác... - Lái xe sử dụng không được sự đồng ý của chủ xe. - Xe được sử dụng để chuyên chở chất cháy, chất nổ trái phép. - Xe trở quá trọng tải hoặc quá số khách quy định. - Xe có hệ thống lái ben phải. - Xe sử dụng để tập lái hoặc đua thể thao. - Xe đang sửa chữa hay đang trong thời gian chạy thử sau khi sửa chữa. - Xe không đủ điều kiện kỹ thuật và thiết bị an toàn để lưu hành. - Đồ vật trở trên xe rơi xuống đường gây thiệt hại cho người thứ ba. - Thiệt hại đối với tài sản bị mất cắp, bị cướp trong tai nạn. - Thiệt hại đối với người không phải là người thứ ba như đã nêu ở phần đối tượng bảo hiểm. - Thiệt hại gián tiếp do xe bị tai nạn làm ngưng trệ hoạt động sản xuất kinh doanh, giảm giá thương mại. - Chiến tranh và các nguyên nhân tương tự khác chiến tranh. - Tai nạn xảy ra ngoài phạm vi lãnh thổ nước sở tại tham gia bảo hiểm (trừ một số trường hợp có thoả thuận từ trước) - Lái xe gây tai nạn bỏ trốn. Ngoài ra người bảo hiểm không chịu trách nhiệm đối với tài sản đặc biệt như: vàng, bạc, đá, quý, tiền đồ cổ, tranh ảnh quý, thi hài, hài cốt... Sở dĩ các công ty bảo hiểm phải đưa ra các điều khoản loại trừ như vậy là để tránh tình trạng những lái xe ẩu, vô trách nhiệm coi thường pháp luật đặc biệt là coi thường luật lệ giao thông của các chủ xe và lái xe. Hơn nữa các công ty bảo hiểm còn tránh tình trạng trục lợi bảo hiểm, làm như vậy thì bảo hiểm mới có tác dụng theo đúng nguyên tắc “chỉ bảo hiểm cho những rủi ro ngẫu nhiên”. 3. Phí bảo hiểm 3.1. Phí bảo hiểm Phí bảo hiểm là một khoản tiền mà chủ xe phải nộp cho nhà bảo hiểm để thành lập nên một quỹ tiền tệ tập trung đủ lớn để bồi thường thiệt hại xảy ra trong năm nghiệp vụ theo pham vi bảo hiểm. Có thể coi phí bảo hiểm là giá cả của sản phẩm bảo hiểm nên nó có thể tăng giảm phụ thuộc vào tình hình cung, cầu trên thị trường. Biểu phí nghiệp vụ BHTNDS do Bộ Tài Chính quy định ngoài ra doanh nghiệp bảo hiểm có thể thoả thuận với chủ xe cơ giới để đảm bảo theo biểu phí cao hơn hoặc phạm vi rủi ro bảo hiểm rộng theo quy tắc bảo hiểm, biểu phí mà doanh nghiệp bảo hiểm đã đăng ký với Bộ Tài Chính. Phí bảo hiểm trong nghiệp vụ BHTNDS được tính theo đầu phương tiện. Người tham gia bảo hiểm đóng phí BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba theo số lượng đầu phương tiện của mình. Mặt khác, các đầu phương tiện khác nhau về chủng loại, về độ lớn có xác suất gây ra tai nạn khác nhau. Do đó phí bảo hiểm được tính riêng cho từng loại phương tiện (hoặc nhóm phương tiện) tuỳ theo mỗi đầu phương tiện. 3.2. Phương pháp tính phí Do phí BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba được thu theo mỗi đầu phương tiện hay thu theo số lượng mỗi loại phương tiện hoạt động. Các phương tiện khác nhau có xác suất gây ra tai nạn khác nhau. Nên phí bảo hiểm được tính riêng cho từng loại phương tiện (thường tính theo năm) là: P =f +d. Trong đó: p - phí bảo hiểm/phương tiện. f - phí thuẩn. d - phụ phí. Phí thuần được xác định theo công thức. F =  { eqf (Σdi* Ti; Σci) } Trong đó: Si - số vụ tai nạn xảy ra có phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe được bảo hiểm bồi thường trong năm i. Ti - số tiền bồi thường bình quân một vụ tai nạn trong năm i/ Ci - số đầu phương tiện tham gia bảo hiểm trong năm i. n - số năm thống kê thường từ 3 -5 năm i = (1,n) Như vậy thực chất là số tiền bồi thường bình quân trong thời kỳ năm cho mỗi đầu
Tài liệu liên quan