Tổng quan về Thành Cát Tư Hãn

Thành Cát Tư Hãn sinh ra với tên Thiết Mộc Chân , họ Bột Nhi Chỉ Cân khoảng năm 1155/1162[1]/1167 và mất ngày 18 tháng 8 năm 1227, là Hãn vương của Mông Cổ và là người sáng lập ra Đế quốc Mông Cổ sau khi hợp nhất các bộ lạc độc lập ở vùng đông bắc châu Á năm 1206. Là một nhà lãnh đạo lỗi lạc và quan trọng của lịch sử thế giới, ông được người Mông Cổ dành cho sự tôn trọng cao nhất, như là một vị lãnh đạo đã loại bỏ hàng thế kỷ của các cuộc giao tranh, mang lại sự ổn định về chính trị và kinh tế cho khu vực Á-Âu trong lãnh thổ của ông, mặc dù đã gây ra những tổn thất to lớn đối với những người chống lại ông. Cháu nội của ông và là người kế tục sau này, đại hãn Hốt Tất Liệt đã thiết lập ra triều đại nhà Nguyên của Trung Quốc (1271–1368) sau khi lật đổ triều đại Nam Tống. Năm 1271 sau khi lập ra nhà Nguyên, Hốt Tất Liệt đã truy tôn Thành Cát Tư Hãn miếu hiệu là Thái Tổ, thụy hiệu Pháp Thiên Khải Vận Thánh Vũ Hoàng đế, nên ông còn được gọi là Nguyên Thái Tổ. Có rất nhiều nhân vật nổi tiếng được cho là hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn, là những kẻ đi xâm chiếm nhiều đất đai về tay mình như Timur Lenk, kẻ chinh phục dân Thổ Nhĩ Kỳ, Babur, người sáng lập ra Đế quốc Môgôn ở Ấn Độ. Những hậu duệ khác của Thành Cát Tư Hãn còn tiếp tục cai trị Mông Cổ đến thế kỷ 17 cho đến khi nó bị người Trung Quốc thống trị lại.

docx11 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2118 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tổng quan về Thành Cát Tư Hãn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thành Cát Tư Hãn Thành Cát Tư Hãn sinh ra với tên Thiết Mộc Chân , họ Bột Nhi Chỉ Cân khoảng năm 1155/1162[1]/1167 và mất ngày 18 tháng 8 năm 1227, là Hãn vương của Mông Cổ và là người sáng lập ra Đế quốc Mông Cổ sau khi hợp nhất các bộ lạc độc lập ở vùng đông bắc châu Á năm 1206. Là một nhà lãnh đạo lỗi lạc và quan trọng của lịch sử thế giới, ông được người Mông Cổ dành cho sự tôn trọng cao nhất, như là một vị lãnh đạo đã loại bỏ hàng thế kỷ của các cuộc giao tranh, mang lại sự ổn định về chính trị và kinh tế cho khu vực Á-Âu trong lãnh thổ của ông, mặc dù đã gây ra những tổn thất to lớn đối với những người chống lại ông. Cháu nội của ông và là người kế tục sau này, đại hãn Hốt Tất Liệt đã thiết lập ra triều đại nhà Nguyên của Trung Quốc (1271–1368) sau khi lật đổ triều đại Nam Tống. Năm 1271 sau khi lập ra nhà Nguyên, Hốt Tất Liệt đã truy tôn Thành Cát Tư Hãn miếu hiệu là Thái Tổ, thụy hiệu Pháp Thiên Khải Vận Thánh Vũ Hoàng đế, nên ông còn được gọi là Nguyên Thái Tổ. Có rất nhiều nhân vật nổi tiếng được cho là hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn, là những kẻ đi xâm chiếm nhiều đất đai về tay mình như Timur Lenk, kẻ chinh phục dân Thổ Nhĩ Kỳ, Babur, người sáng lập ra Đế quốc Môgôn ở Ấn Độ. Những hậu duệ khác của Thành Cát Tư Hãn còn tiếp tục cai trị Mông Cổ đến thế kỷ 17 cho đến khi nó bị người Trung Quốc thống trị lại. 1.Thời thơ ấu Thành Cát Tư Hãn sinh khoảng giữa 1155 (hay 1162) và 1167, [2] là con trai cả của Dã Tốc Cai (Yesükhei), một thủ lĩnh của bộ tộc Khất Nhan (Kiyad, )[3]. Dã Tốc Cai là người thuộc dòng họ Bột Nhi Chỉ Cân. Mẹ ông là bà Kha Nguyệt Luân (Oát Ngạch Lôn, U Luân hay Hoelun/Өэлүн) từ bộ lạc Hoằng Cát Thích (Olkunut/Олхуноуд, Олхонууд, Олгонууд). Ông là con trai cả của bà này. Theo Bí sử Mông Cổ, ông được đặt tên theo tên của một thủ lĩnh rất dũng cảm của một bộ tộc người Tatar đã bị cha ông đánh bại (Thiết Mộc Chân Ngột Cách). Thiết Mộc Chân có 3 em trai là Cáp Tát Nhi (Khasar hay Qasar), Hợp Xích Ôn (Khajiun), Thiết Mộc Cách (Temüge) và một em gái là Thiếp Mộc Lôn (Temülen hay Temülin), cùng hai anh/em cùng cha khác mẹ khác là Biệt Cách Thiếp Nhi (Bekhter) và Biệt Lặc Cổ Đài (Belgutei) do Tốc Xích Cát Lặc sinh ra. Thời thơ ấu của Thiết Mộc Chân cực kỳ khó khăn. Khi ông lên 9 tuổi, cha ông đã đưa ông đến gia đình vợ (Börte) tương lai và ông phải sống ở đó cho đến khi đủ tuổi lấy vợ là 12 tuổi. Một thời gian ngắn sau đó cha ông bị đầu độc bởi bộ lạc Tháp Tháp Nhi (Tartar) láng giềng trên đường trở về nhà và Thiết Mộc Chân đã trở thành thủ lĩnh của bộ lạc của mình. Bộ lạc của ông không chấp nhận ông do sự bất đồng về quyền lực và quyền lợi kinh tế. Trong những năm sau đó, ông và gia đình sống một cuộc đời du cư nghèo khó, sống được là nhờ các loài động vật gặm nhấm. Trong một lần đi săn bắn như vậy ông đã giết chết người anh/em cùng cha khác mẹ là Bekhter[4] trong một cuộc tranh giành chiến lợi phẩm. Một lần khác vào năm 1182, ông đã bị những người cùng bộ lạc cũ bắt trong một cuộc tập kích và bị giam cầm với gông trên cổ. Sau đó ông trốn thoát với sự trợ giúp của những người coi ngục có cảm tình. Mẹ ông đã dạy ông nhiều bài học từ sống sót trong những điều kiện thời tiết khắc nghiệt của Mông Cổ tới sự cần thiết của liên minh với những người khác, những bài học này đã hình thành nên sự hiểu biết của ông trong những năm sau này về sự cần thiết của thống nhất. Năm 16 tuổi, Thiết Mộc Chân lấy Bột Nhi Thiếp (Börte) của bộ tộc Ong-ki-rát (Qonggirat, Chunggirat hay Olkut'hun) sau này là Quang Hiến hoàng hậu, nhưng sau này ông còn nhiều cuộc hôn nhân khác[5]. Bà họ là Hoằng Cát Sắc (Angcatthat), và nhận được áo lông chồn đen như là của hồi môn; đây là tài sản ban đầu để ông tăng thêm sự giàu có về sau từ chiến tranh. Sau đó vợ ông bị bắt cóc trong một cuộc tập kích của bộ tộc Miệt Nhĩ (Merkits) và ông đã nhờ bạn (sau này là kẻ thù) là Trát Mộc Hợp (Jamuka) và người che chở cho ông là Thoát Lý (Toghril hay Toghrul) của bộ tộc Khắc Liệt (Kerait) để giải thoát cho vợ mình. Việc sinh đứa con đầu lòng là Truật Xích (Jochi, 1185-1226) quá sớm đã dẫn đến sự nghi ngờ của ông và Truật Xích cũng như hậu duệ của ông ta không bao giờ được coi là những người kế vị. Bên cạnh Truật Xích, Bột Nhi Thiếp còn sinh ra ba người con trai khác là Sát Hợp Đài (Chagatai, 1187-1241), Oa Khoát Đài (Ögedei, 1189-1241), Đà Lôi (Tolui, 1190-1232). Ông có thể còn nhiều con trai với các bà vợ khác nhưng họ không được liệt kê vào hàng kế vị, còn các con gái thì không có ghi chép cụ thể nào. 2.Thống nhất các bộ lạc Vùng cao nguyên Trung Á (miền bắc và tây bắc Trung Quốc) vào khoảng thời gian của Thiết Mộc Chân (cuối thế kỷ 12, đầu thế kỷ 13) được phân chia giữa một vài bộ lạc hay liên minh, trong số đó có Nãi Man (Naiman), Miệt Nhĩ Khất (Merkit), Duy Ngô Nhĩ (Uyghur), Đảng Hạng (Tangut), Tatar, Mông Cổ (Mongol) và Khắc Liệt (Kerait), thường có xung đột với nhau như được chứng thực bởi những cuộc đột kích, cướp bóc, trả thù ngẫu nhiên. Thiết Mộc Chân bắt đầu sự nghiệp của mình bằng cách liên kết với bạn của cha mình là Thoát Lý (Toghril, còn gọi là Thoát Oát Lân), một thủ lĩnh ở địa phương (có nguồn cho rằng ông là chư hầu cho Hãn vương này) được nhà Kim phong tước Hãn vương năm 1197. Mối quan hệ này ban đầu được tăng cường khi Bột Nhi Thiếp bị người Miệt Nhĩ Khất bắt (khoảng năm 1177 hay 1180 trước khi sinh ra Truật Xích) và Thiết Mộc Chân phải cần tới sự hỗ trợ của Thoát Lý. Đáp lại, Thoát Lý cho ông mượn 20.000 chiến binh Khắc Liệt của ông này và đề nghị ông mời cả người bạn thời thơ ấu là Trát Mộc Hợp, khi đó đang là thủ lĩnh (hãn) của bộ lạc mình (bộ lạc Trát Đáp Lan hay Jadaran)[6]. Mặc dù chiến dịch này thành công trong việc giải cứu Bột Nhi Thiếp và thất bại hoàn toàn của người Miệt Nhĩ Khất, nhưng nó cũng dọn đường cho sự chia rẽ giữa hai người bạn an đáp (huynh đệ) thời thơ ấu là Thiết Mộc Chân và Trát Mộc Hợp. Các kẻ thù chính của liên minh Mông Cổ vào khoảng năm 1190-1200 là Nãi Man ở phía tây, Miệt Nhĩ Khất ở phía bắc, Đảng Hạng ở phía nam và Kim cùng Tatar ở phía đông. Vào năm 1190, Thiết Mộc Chân cùng những người theo ông chỉ thống nhất được một lượng nhỏ người Mông Cổ. Trong các bộ lạc chiếm được, ông thực hiện việc cai trị theo cung cách khác với truyền thống của người Mông Cổ bằng cách ủy quyền cho những người xứng đáng và trung thành chứ không dựa trên quan hệ gia đình. Thiết Mộc Chân sau đó đã ban hành bộ luật bằng văn bản cho người Mông Cổ, gọi là Yassa, và ông ra lệnh phải tuân thủ bộ luật này một cách nghiêm ngặt để xây dựng tổ chức và quyền lực trong phạm vi vương quốc của mình.[7]. Như là sự khuyến khích cho việc phục tùng tuyệt đối và tuân thủ các quy tắc trong luật pháp của ông, bộ luật Yassa, Thiết Mộc Chân cam kết dành cho thần dân và binh lính sự giàu có từ các chiến lợi phẩm thu được trong tương lai. Khi đánh bại các bộ lạc thù địch, ông không ruồng bỏ binh lính của họ mà đặt các bộ lạc đó dưới sự bảo hộ của mình và hợp nhất các thành viên của các bộ lạc đó vào bộ lạc của mình. Mẹ ông còn nhận những đứa trẻ mồ côi từ các bộ lạc đó để nuôi. Những điểm mới trong chính sách của ông đã gây dựng được niềm tin và lòng trung thành từ những người bị chế ngự, làm cho Thiết Mộc Chân trở thành mạnh hơn sau mỗi chiến thắng[8]. Năm 1201, một kurultai do Hợp Đáp Cân cùng 11 bộ lạc khác tổ chức đã bầu Trát Mộc Hợp làm cổ nhân hãn (gur khan), một tước hiệu được những người trị vì hãn quốc Cáp Lạt Khiết Đan dùng, để liên binh tấn công Thiết Mộc Chân. Liên minh này bị liên minh giữa Thiết Mộc Chân với Thoát Lý đánh bại và Trát Mộc Hợp phải chạy sang hàng Thoát Lý. Con trai của Thoát Lý là Tang Côn (桑昆, Senggum) ghen tức với sức mạnh đang lên của Thiết Mộc Chân và sự thân mật của ông với cha mình. Ông này lập kế hoạch ám sát Thiết Mộc Chân. Thoát Lý, được cho là đã được Thiết Mộc Chân cứu mạng nhiều lần, lại ủng hộ con mình[9] và không hợp tác với Thiết Mộc Chân. Thiết Mộc Chân biết được ý đồ của Tang Côn và cuối cùng đã đánh bại Tang Côn cùng những người trung thành với ông này. Một trong những giọt nước cuối cùng làm đoạn tuyệt quan hệ giữa Thiết Mộc Chân và Thoát Lý là sự từ chối của Thoát Lý năm 1202 khi Thiết Mộc Chân đề nghị cưới con gái ông ta cho Truật Xích, con trai trưởng của ông, một dấu hiệu không tôn trọng trong văn hóa Mông Cổ. Hành động này dẫn tới sự chia cắt hai bên và là điềm báo một cuộc chiến tranh sẽ nổ ra. Thoát Lý liên minh với Trát Mộc Hợp, người khi đó đã chống lại Thiết Mộc Chân; tuy nhiên mâu thuẫn bên trong giữa Thoát Lý với Trát Mộc Hợp, cộng với sự chuyển hướng của một loạt các cựu liên minh sang phía Thiết Mộc Chân đã dẫn tới thất bại của Thoát Lý. Ông này chạy tới chỗ của Tháp Dương Hãn, thủ lĩnh bộ lạc Nãi Man, nhưng bị binh lính Nãi Man giết chết năm 1203. Thất bại này đã làm cho bộ lạc Khắc . Mối đe dọa trực tiếp kế tiếp đối với Thiết Mộc Chân là người Nãi Man, với Trát Mộc Hợp và những người theo ông này đã chạy tới đó tìm nơi nương tựa. Người Nãi Man đã không đầu hàng, mặc dù một bộ phận đã tình nguyện đứng về phía Thiết Mộc Chân. Trước khi Thiết Mộc Chân tấn công người Nãi Man và Trát Mộc Hợp thì thì một số tướng lĩnh của ông này đã chạy sang phía Thiết Mộc Chân, trong đó đáng chú ý có Tốc Bất Đài, sau trở thành một trong tứ khuyển nổi danh của ông. Sau một vài trận chiến, Thiết Mộc Chân đã đánh bại Tháp Dương hãn năm 1204 và Trát Mộc Hợp bị binh lính bắt trao cho Thiết Mộc Chân. Theo Bí sử Mông Cổ, Thiết Mộc Chân một lần nữa mong muốn duy trì quan hệ bạn bè với Trát Mộc Hợp và đề nghị ông này đứng về phía mình. Ông đã giết những kẻ bán đứng Trát Mộc Hợp vì không mong muốn có những kẻ phản trắc trong hàng ngũ. Tuy nhiên, Trát Mộc Hợp đã từ chối, nói rằng bầu trời chỉ có một mặt trời mà thôi và đề nghị được chết bằng một cái chết cao quý theo tập quán là chết không rơi máu và được đáp ứng bằng cách bẻ gẫy lưng. Phần còn lại của bộ lạc Miệt Nhĩ Khất đứng về phía người Nãi Man bị Tốc Bất Đài đánh bại. Thất bại của người Nãi Man đã làm cho Thiết Mộc Chân trở thành vị chúa tể duy nhất của bình nguyên Mông Cổ, nghĩa là tất cả các liên minh hùng mạnh khác hoặc là thất bại hoặc là bị hợp nhất dưới trướng của ông. Với nhu cầu phải bảo vệ biên giới từ các quốc gia phía nam như đế quốc Kim và Tây Hạ là những quốc gia trên địa bàn Trung Quốc ngày nay, ông đã tổ chức hệ thống của mình với sự tăng cường sức mạnh quân sự và đã không bị những người Trung Quốc, khi đó bắt đầu cảm thấy khó chịu với quốc gia mới nổi Mông Cổ dưới thời đại của Thiết Mộc Chân, đánh giá quá mức. Cuối cùng họ đã có những hành động như ngăn cản việc tiếp tế lương thực, thực phẩm đi qua Mông Cổ ngày nay. Với những phẩm chất cá nhân và ý chí mạnh mẽ, Thiết Mộc Chân cuối cùng đã thống nhất được các bộ lạc trong một hệ thống duy nhất, một nét đặc trưng vĩ đại của Mông Cổ, là đất nước có lịch sử lâu đời của những cảnh huynh đệ tương tàn và gian khó về kinh tế. Năm 1206 Thiết Mộc Chân đã liên kết thành công các bộ lạc Mông Cổ đang bị chia rẽ và tại hội nghị Kurultai (hội đồng các thủ lĩnh Mông Cổ) ông đã được phong là Thành Cát Tư Hãn (trong tiếng Mông Cổ thì Чингис Хаан có nghĩa là vua của cả thế giới). 3.Thành lập đế chế a.Trung Hoa Cùng thời điểm với hội nghị Kuriltai, Thành Cát Tư Hãn đã bị lôi cuốn vào cuộc tranh chấp với Tây Hạ là quốc gia bắt người Mông Cổ phải phục tùng và nộp cống phẩm hàng năm. Ông đã chiếm được một số thành trì được bảo vệ vững chắc của Tây Hạ. Năm 1209 khi hòa bình với Tây Hạ được ký kết, về thực chất ông đã thu phục được Tây Hạ, đã được vua Tây Hạ là Lý An Toàn thừa nhận là chúa tể, biến quốc gia này trở thành chư hầu chịu cống nộp cho người Mông Cổ và cung cấp binh lính cũng như hậu cần cho các chiến dịch trong tương lai của ông. Sau đó Tây Hạ cũng bị ông lật đổ (1227).[10] Mục đích chính của ông là xâm chiếm nhà Kim, vừa để trả thù những thất bại trước đây khi những người Mông Cổ còn thù hận lẫn nhau và giành lấy tài sản cùng sự giàu có của miền bắc Trung Quốc. Ông tuyên bố chiến tranh năm 1211, để cho nhà Kim không thể còn là sự đe dọa thường xuyên đối với Mông Cổ về lãnh thổ, tài sản ở phần biên giới phía nam. Mô hình của cuộc chiến tranh chống lại nhà Kim của người Nữ Chân cũng giống như cuộc chiến chống lại Tây Hạ. Kết quả của chiến thuật siêu đẳng và sự hoàn hảo của chiến lược là Thành Cát Tư Hãn đã xâm chiếm và hợp nhất phần lãnh thổ nhà Kim đến tận Vạn lý trường thành của Trung Quốc năm 1213. Cũng năm đó Hoàn Nhan Doãn Tế (hoàng đế nhà Kim) bị tướng Hồ Sa Hổ giết trong cuộc bạo loạn. Cháu của Hoàn Nhan Doãn Tế là Hoàn Nhan Tuần lên ngôi. Sau đó Thành Cát Tư Hãn chỉ huy ba cánh quân tiến vào phần trung tâm lãnh thổ Kim, giữa Vạn lý trường thành và sông Hoàng Hà. Giống như các vị vua khác tin mình là con trời (thiên tử), ông đã xâm chiếm phần miền bắc Trung Quốc, chiếm giữ hàng loạt thành phố và năm 1215 đã bao vây, chiếm giữ và cướp bóc kinh thành của nhà Kim là Yên Kinh (sau này là Bắc Kinh). Tuy vậy nhưng vua nhà Kim là Hoàn Nhan Tuần (完顏珣) tức vua Kim Tuyên Tông (宣宗) đã không đầu hàng mà chuyển kinh thành về Khai Phong (開封) vì sự lớn mạnh của người Mông Cổ ở phía bắc. Ở đó những vị vua cuối cùng của nhà Kim là Hoàn Nhan Thừa Lân (完顏承麟) hay Kim Mạt Đế (末帝) đã bị đánh bại vào năm 1234. b.Bá chủ thế giới Cùng thời gian đó Khuất Xuất Luật (Kuchlug), vị hãn bị phế truất của bộ tộc Nãi Man, đã chạy về phía tây và cướp hãn quốc Tây Liêu, đồng minh phía tây của Thành Cát Tư Hãn. Trong thời gian này, quân đội Mông Cổ đã mệt mỏi do hơn 10 năm chiến tranh chống lại Tây Hạ và Kim. Vì vậy Thành Cát Tư Hãn chỉ gửi khoảng 20.000 quân dưới sự chỉ huy của viên tướng trẻ Triết Biệt (者別 Jebe) để chống lại Khuất Xuất Luật. Một cuộc nổi dậy trong nước với sự giúp đỡ của người Mông Cổ và sau đó Triết Biệt tràn qua đất nước này. Lực lượng của Khuất Xuất Luật đã bị đánh bại ở phía tây của Kashgar; ông ta bị bắt sống và bị hành hình sau đó, Tây Liêu bị sáp nhập vào Mông Cổ. Năm 1218 vương quốc Mông Cổ mở rộng về phía tây tới hồ Balkhas và tiếp giáp với đế quốc Khwarezm (dịch theo tiếng Trung là Hoa Lạt Tử Mô), một quốc gia Hồi giáo trải dài từ biển Caspi ở phía tây và vịnh Ba Tư, biển Ả Rập ở phía nam. Năm 1218 Thành Cát Tư Hãn gửi một đoàn sứ giả sang tỉnh phía đông của đế quốc Khwarezm (Hoa Lạt Tử Mô) với mục đích thảo luận khả năng buôn bán với quốc gia này. Thống đốc của tỉnh này đã giết chết họ và làm Thành Cát Tư Hãn giận dữ. Ông đã cho 200.000 quân tràn sang để trả thù. Quân đội Mông Cổ với chiến lược và chiến thuật hơn hẳn đã nhanh chóng hạ thành phố này và hành hình viên thống đốc bằng cách đổ bạc nóng chảy vào tai và mắt ông ta để trả đũa hành động xúc phạm tới Thành Cát Tư Hãn và những ý định tốt đẹp ban đầu của người Mông Cổ. Cùng thời điểm này (1219) ông quyết định mở rộng ảnh hưởng của Mông Cổ đối với thế giới Hồi giáo. Quân đội Mông Cổ lần lượt hạ các thành phố chính của Khwarezm như Bukhara, Samarkand và Balkh, và hoàng đế Khwarezm là Ala ad-Din Muhammad II đã phải chuẩn bị lực lượng chống lại họ. Tuy nhiên, ông ta đã bị vượt qua bởi những người Mông Cổ nhanh nhẹn và lắm mưu kế hơn và phải liên tục rút lui. Cuối cùng, Ala ad-Din Muhammad II đã tìm cách đến ẩn náu ở Khorasan, nhưng bị viêm màng phổi chết ở một hòn đảo trên biển Caspi, gần cảng Abaskun năm 1220, và đế quốc Khwarezm sụp đổ. Sau đó quân đội Mông Cổ chia làm hai đạo quân, Thành Cát Tư Hãn chỉ huy một nhánh tràn vào Afghanistan và bắc Ấn Độ, nhánh kia do tướng Tốc Bất Đài (Subedei hay Subutai) chỉ huy tiến vào Kavkaz và Nga. Không một cánh quân nào bổ sung thêm lãnh thổ cho đế chế nhưng họ đã cướp bóc và đánh bại mọi đội quân mà họ gặp. Năm 1225 cả hai cánh quân đều quay trở lại Mông Cổ. Những cuộc xâm lăng này đã bổ sung thêm Transoxiana và Ba Tư vào đế chế vốn đã ghê ghớm và xác lập hình ảnh của Thành Cát Tư Hãn như một chiến binh khát máu trong những người không biết hoặc không muốn biết rằng ông là ông chủ thực sự của thế giới. Cánh quân của Tốc Bất Đài đã tiến vào Ba Tư và Armenia, với lực lượng 40.000 quân họ đã tiến sâu vào lãnh thổ Armenia và Azerbaijan (Xem phần Trung Á). Ở đây quân Mông Cổ đã tiêu diệt quân thập tự chinh Gruzia, chiếm pháo đài đầu mối giao thương thành quốc Genova ở Crimea và nghỉ qua mùa đông bên biển Đen. Trong khi đoàn quân này trở về Mông Cổ họ đã giao tranh với đội quân 80.000 người của Đại công tước Mstitslav của Kiev, trong trận chiến gọi là trận chiến sông Kalka năm 1223. Quân Mông Cổ đã đánh bại đại công tước Mstitslav và quân đội của ông ta. Đế chế chư hầu Tây Hạ đã từ chối không tham chiến chống lại đế chế Kharezm, và Thành Cát Tư Hãn đã thề giành cho họ sự trừng phạt. Trong khi ông đang ở Iran, Tây Hạ và Kim đã hình thành liên minh chống lại người Mông Cổ. Sau một thời gian nghỉ ngơi để chỉnh đốn quân đội, Thành Cát Tư Hãn chuẩn bị chiến tranh chống lại liên minh này. Cùng thời gian này, ông cũng phải suy nghĩ về việc chọn người kế nghiệp để xóa bỏ những cuộc tranh giành liên miên giữa các con; ông đã chọn người con trai thứ ba là Oa Khoát Đài (Ögedei) làm người kế nghiệp cũng như thiết lập cơ chế lựa chọn những người kế nghiệp trong tương lai với điều kiện họ phải là hậu duệ của ông. Ông đã nhận được những báo cáo tình báo về lực lượng Tây Hạ, Kim và chuẩn bị lực lượng 180.000 quân cho các chiến dịch mới. Năm 1226, Thành Cát Tư Hãn tấn công Tây Hạ với cớ là Tây Hạ chứa chấp kẻ thù của Mông Cổ và để trừng phạt sự phản bội của họ. Tháng 2, ông chiếm các thành phố Heisui, Cam Châu và Túc Châu và trong mùa thu năm đó ông chiếm phủ Tây Lương. Các tướng Tây Hạ đã đánh một trận lớn với quân Mông Cổ gần dãy núi Hạ Lan Sơn . Quân Tây Hạ đại bại. Tháng 11, ông bao vây thành Linh Châu và vượt qua sông Hoàng Hà đánh bại quân cứu viện của Tây Hạ. Năm 1227, ông tấn công kinh đô Tây Hạ, trong tháng 2 chiếm phủ Lintiao, tháng 3 chiếm quận Tây Ninh (tỉnh Thanh Hải ngày nay) và phủ Tín Đô . Trong tháng 4 chiếm quận Deshun. Tại Deshun, tướng Tây Hạ Mã Diên Long chống lại quân Mông Cổ trong nhiều ngày cả trong và ngoài thành. Mã Diên Long sau đó chết do bị tên bắn. Thành Cát Tư Hãn sau khi chiếm Deshun, tiến quân tới Lục Bàn Sơn (thuộc huyện Thanh Thủy tỉnh Cam Túc) để tránh mùa hè khắc nghiệt. Vua Tây Hạ mới, đã chính thức đầu hàng quân Mông Cổ năm 1227. Tây Hạ bị diệt sau khi tồn tại 190 năm, từ 1038 đến 1227. Quân Mông Cổ đã giết vua Tây Hạ và cả hoàng tộc này. Trước khi chết, Thành Cát Tư Hãn đã chia đế chế của ông cho bốn người con trai. Truật Xích là lớn nhất, nhưng đã chết và quan hệ huyết thống của ông ta cũng bị nghi ngờ, vì thế những vùng đất xa xôi nhất của đế quốc như miền nam Ruthenia đã được chia cho các con của ông này là Bạt Đô thủ lĩnh của Thanh Trướng hãn quốc, và Oát Nhi Đáp (Orda), thủ lĩnh của Bạc Trướng hãn quốc. Sát Hợp Đài (Chagatai) là con trai thứ hai, nhưng là người nóng nảy được chia vùng Trung Á và bắc Iran. Oa Khoát Đài (Ogedei), con trai thứ ba là Đại hãn và nhận được Trung Quốc. Đà Lôi (Tolui), trẻ nhất, nhận Mông Cổ.Tháng 8 năm 1227 sau khi nhận được tin hoàng tử Truật Xích ở Hôrazin qua đời,Thành Cát Tư Hãn bệnh nặng và qua đời. Trên giường bệnh, Thành Cát Tư Hãn phác thảo kế hoạch cho Đà Lôi, sau kế hoạch này được những người kế vị sử dụng để triệt hạ dứt điểm nhà Kim và thông báo người kế vị là Oa Khoát Đài. Trong chiến dịch cuối cùng của mình chống lại nhà Tây Hạ, Thành Cát Tư Hãn đã chết vào ngày 18 tháng 8 năm 1227. Nguyên nhân cái chết của ông vẫn chưa được sáng tỏ, nhiều người cho rằng do ông ngã ngựa vì tuổi già và suy giảm thể lực hay sự ám sát từ phía kẻ thù. Biên niên sử Galicia-Volhynia cho rằng ông bị những người Đảng Hạng giết chết, tuy nhiên đến ngày nay vẫn chưa ai biết rõ. Sau khi ông ta chết, thân xác ông được đưa về Mông Cổ và được cho là mang về nơi ông sinh ra ở aimag Khentii, là nơi mà nhiều người cho rằng ông đã được hỏa thiêu ở một nơi nào đó gần sông Onon. Đoàn hộ tống lễ tang đã giết hết mọi người và tiêu hủy mọi thứ lạc vào đường của họ tới nơi thiêu xác ông để không ai có thể khám phá ra nơi họ chôn cất người lãnh tụ đáng kính của mình. Trong đám tang của ông (để giữ bí mật) người ta cho rằng đã có ít nhất 40 cung nữ đã bị hỏa thiêu cùng với ông, vì thế ngay cả các bà mẹ của họ cũng không thể xác định được nơi mà các cung nữ đã b