Việc vận dụng các công cụ điều hành chính sách tiện tệ của ngân hàng Nhà nước

Chính sách tiền tệ là một chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô cực kì quan trọng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường vì nó có ảnh hưởng lớn đến các biến số vĩ mô như: công ăn việc làm, tốc độ tăng trưởng, lạm phát Để đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ thì việc sử dụng các công cụ của nó có vai trò cơ bản, quyết định.đồng thời các chính sách đưa ra phải phù hợp theo diễn biến của nền kinh tế. Ở Việt Nam kể từ khi đổi mới đến nay, chính sách tiền tệ đặc biệt là các công cụ của nó đang từng bước hình thành, hoàn thiện và phát huy tác dụng đối với nền kinh tế. Với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam thì việc lựa chọn các công cụ nào, sử dụng nó ra sao ở các giai đoạn cụ thể của nền kinh tế luôn là một vấn đề thường xuyên phải quan tâm theo dõi và giải quyết đối với các nhà hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, các nhà nghiên cứu kinh tế. Đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế trong nước và quốc tế như hiện nay thì việc nghiên cứu về chính sách tiền tệ cụ thể là các công cụ của chính sách tiền tệ và tác động của nó vào nền kinh tế là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao.

doc53 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 1613 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Việc vận dụng các công cụ điều hành chính sách tiện tệ của ngân hàng Nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC A. CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG: 1) Khái niệm, vị trí của chính sách tiền tệ. a. Khái niệm chính sách tiền tệ b. Vị trí chính sách tiền tệ 2) Mục tiêu của chính sách tiền tệ . a. Ổn định giá trị đồng tiền b. Tăng công ăn việc làm c. Tăng trưởng kinh tế B. VIỆC VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỆN TỆ CỦA NHNN GIAI ĐOẠN 2009-2011 I. NĂM 2009 II. NĂM 2010 III. NĂM2011 C. KẾT LUẬN D. TÀI LIỆU THAM KHẢO GIỚI THIỆU Chính sách tiền tệ là một chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô cực kì quan trọng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường vì nó có ảnh hưởng lớn đến các biến số vĩ mô như: công ăn việc làm, tốc độ tăng trưởng, lạm phát… Để đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ thì việc sử dụng các công cụ của nó có vai trò cơ bản, quyết định.đồng thời các chính sách đưa ra phải phù hợp theo diễn biến của nền kinh tế. Ở Việt Nam kể từ khi đổi mới đến nay, chính sách tiền tệ đặc biệt là các công cụ của nó đang từng bước hình thành, hoàn thiện và phát huy tác dụng đối với nền kinh tế. Với đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam thì việc lựa chọn các công cụ nào, sử dụng nó ra sao ở các giai đoạn cụ thể của nền kinh tế luôn là một vấn đề thường xuyên phải quan tâm theo dõi và giải quyết đối với các nhà hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia, các nhà nghiên cứu kinh tế. Đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế trong nước và quốc tế như hiện nay thì việc nghiên cứu về chính sách tiền tệ cụ thể là các công cụ của chính sách tiền tệ và tác động của nó vào nền kinh tế là một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao. Trong quá trình sưu tập và làm bài, chúng em phân ra nhiều phần khac nhau để phân tích và có thể đứng ở một khía cạnh nào đó có thể hạn hẹp. Chính sách tiền tệ của NHNN VN trong giai đoạn 2009-2011 rất rộng lớn, có thể kiến thức của chúng em chưa đáp ứng được yêu cầu của các thầy (cô) yêu cầu. Chúng em rất mong sự đóng góp ý kiến từ các thầy (cô) và các bạn để bài tiểu luận của chúng em được tốt hơn nữa.  Chúng em xin chân thành cảm ơn! NỘI DUNG: A. CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 1) Khái niệm, vị trí của chính sách tiền tệ: a. Khái niệm chính sách tiền tệ :  Chính sách tiền tệ là một chính sách kinh tế vĩ mô do Ngân hàng trung ương khởi thảo và thực thi, thông qua các công cụ , biện pháp của mình nhằm đạt các mục tiêu :ổn định giá trị đồng tiền, tạo công ăn việc làm ,tăng trưởng kinh tế . Chúng ta có thể hiểu, chính sách tiền tệ là tổng hòa các phương thức mà NHNN VN (NHTW) thông qua các hoạt động của mình tác động đến khối lượng tiền tệ trong lưu thông, nhằm phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế -xã hội của đất nước trong một thời kì nhất định. Mặt khác, nó là một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách kinh tế - tài chính vĩ mô của chính phủ. Tuỳ điều kiện các nước, chính sách tiền tệ có thể được xác lập theo hai hướng: chính sách tiền tệ mở rộng (tăng cung tiền ,giảm lãi suất để thúc đẩy sản xuất kinh doanh ,giảm thất nghiệp nhưng lạm phát tăng -chính sách tiền tệ chống thất nghiệp) hoặc chính sách tiền tệ thắt chặt (giảm cung tiền , tăng lãi suất làm giảm đầu tư vào sản xuất kinh doanh từ đó làm giảm lạm phát nhưng thất nghiệp tăng-chính sách tiền tệ ổn định giá trị đồng tiền). b. Vị trí chính sách tiền tệ :  Trong hệ thống các công cụ đIều tiết vĩ mô của Nhà nước thì chính sách tiền tệ là một trong những chính sách quan trọng nhất vì nó tác động trực tiếp vào lĩnh vực lưu thông tiền tệ .Song nó cũng có quan hệ chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác như chính sách tài khoá,chính sách thu nhập,chính sách kinh tế đối ngoại. Đối với Ngân hàng trung ương ,việc hoạch định và thực thi chính sách chính sách tiền tệ là hoạt động cơ bản nhất ,mọi hoạt động của nó đều nhằm làm cho chính sách tiền tệ quốc gia được thực hiện có hiệu quả hơn. 2) Mục tiêu của chính sách tiền tệ : a. Ổn định giá trị đồng tiền : NHTW thông qua CSTT có thể tác động đến sự tăng hay giảm giá trị đồng tiền của nước mình. Giá trị đồng tiền ổn định được xem xét trên hai mặt: Sức mua đối nội của đồng tiền(chỉ số giá cả hàng hoá và dịch vụ trong nước)và sức mua đối ngoại (tỷ giá của đồng tiền nước mình so với ngoại tệ). Tuy vậy, CSTT hướng tới ổn định giá trị đồng tiền không có nghĩa là tỷ lệ lạm phát =0 vì như vậy nền kinh tế không thể phát triển được,để có một tỷ lệ lạm phát giảm phảI chấp nhận một tỷ lệ thất nghiệp tăng lên. b. Tăng công ăn việc làm: CSTT mở rộng hay thu hẹp có ảnh hưởng trực tiếp tới việc sử dụng có hiệu qủa các nguồn lực xã hội,quy mô sản xuất kinh doanh và từ đó ảnh hưởng tới tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế. Để có một tỷ lệ thất nghịêp giảm thì phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát tăng lên. Mặt khác, khi tăng trưởng kinh tế đạt được do kết quả của cuộc cải tiến kĩ thuật thì việc làm có thể không tăng mà còn giảm. Theo nhà kinh tế học Arthur Okun thì khi GNP thực tế giảm 2% so với GNP tiềm năng, thì mức thất nghiệp tăng 1%.  Từ những điều trên cho thấy, vai trò của NHTW khi thực hiện mục tiêu này : tăng cường đầu tư mở rộng sản xuất – kinh doanh, chống suy thoái kinh tế theo chu kỳ, tăng trưởng kinh tế ổn định, khống chế tỷ lệ thất nghiệp không vượt quá tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. c. Tăng trưởng kinh tế: Tăng trưởng kinh tế luôn là mục tiêu của mọi chính phủ trong việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô của mình, để giữ cho nhịp độ tăng trưởng đó ổn định, đặc biệt việc ổn định giá trị đồng bản tệ là rất quan trọng ,nó thể hiện lòng tin của dân chúng đối với Chính phủ.  Mục tiêu này chỉ đạt được khi kết quả hai mục tiêu trên đạt được một cách hài hoà. Mối quan hệ giữa các mục tiêu : Có mối quan hệ chặt chẽ,hỗ trợ nhau, không tách rời. Nhưng xem xét trong thời gian ngắn hạn thì các mục tiêu này có thể mâu thuẫn với nhau thậm chí triệt tiêu lẫn nhau. Vậyđể đạt được các mục tiêu trên một cách hài hoà thì NHTW trong khi thực hiện CSTT cần phải có sự phối hợp với các chính sách kinh tế vĩ mô khác. Mặt khác để biết các mục tiêu cuối cùng trên có thực hiện được không, thì các NHTW phải chờ thời gian dài ( một năm –khi kết thúc năm tài chính). B. VIỆC VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NHNN TRONG GIAI ĐOẠN 2009-2011 I. CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 2009 1. Tình hình kinh tế năm 2009: Một năm mà chính sách tiền tệ (CSTT) đã phải đối mặt với nhiều thách thức khó lường phát sinh từ những bất cập của nền kinh tế và tác động bất lợi của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế. Lạm phát cao năm 2008, cùng với sự đảo chiều của vốn đầu tư nước ngoài và thâm hụt mạnh cán cân thương mại (12,783 tỷ USD) đã có tác động mạnh đến tâm lý các nhà đầu tư trên thị trường ngoại hối, gây những biến động khó lường đến tỷ giá. Thêm vào đó, giải pháp hỗ trợ lãi suất có tác động tích cực hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi sản xuất, làm khởi sắc TTCK, bất động sản và thị trường tín dụng, nhưng cũng gây sức ép tăng khối lượng tiền trong nền kinh tế, tín dụng tăng trưởng cao và áp lực giảm giá VND. Trước những tác động bất lợi như vậy, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã thực thi CSTT một cách linh hoạt phối hợp đồng bộ với nhiều giải pháp khác để giữ bình ổn thị trường 2. Các biện pháp: Theo quyết định 3158/QĐ-NHNN ban hành ngày 19/12/2008 thì đến ngày 01/01/2009 tỉ lệ DTBB của các ngân hàng như sau: Loại TCTD Tiền gửi VND Không kỳ hạn và dưới 12 tháng Từ 12 tháng trở lên Các NHTM Nhà nước (không bao gồm NHNo & PTNT), NHTMCP đô thị, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính 5% 1% Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 2% 1% NHTMCP nông thôn, NH hợp tác, Quỹ tín dụng ND TW 1% 1% Ngày 23/01/2009 thống đốc NHNN ra quyết định số 173/QĐ-NHNN điều chỉnh giảm lãi suất, theo đó: Quy định các mức lãi suất của NHNN VN như sau: 1. Lãi suất tái cấp vốn: 8,0%/năm. 2. Lãi suất tái chiết khấu: 6,0%/năm. 3. Lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của NHNN VN đối với các ngân hàng: 8,0%/năm Việc giảm các loại lãi suất và giảm cả tỷ lệ DTBB giúp cho các tổ chức cá nhân tiếp cận với nguồn vốn từ ngân hàng trở nên dễ dàng hơn hay nói cách khác đó là động thái bơm tiền vào nền kinh tế của NHNN. Điều này cũng là dễ hiểu, bởi nền kinh tế bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính nên hành động này nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì sản xuất kinh doanh và tạo việc làm cho người lao động. Theo quyết định 379/QĐ-NHNN,từ 1/3/2009 giảm tỷ lệ DTBB đối với tiền gửi bằng VND của các tổ chức tín dụng. Cụ thể: Loại TCTD Tiền gửi VND Không kỳ hạn và dưới 12 tháng Từ 12 tháng trở lên Các NHTM Nhà nước (không bao gồm NHNo & PTNT), NHTMCP đô thị, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính 3% 1% Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 1% 1% NHTMCP nông thôn, NH hợp tác, Quỹ tín dụng ND TW 1% 1% Theo NHNN thì việc làm trên nhằm ổn định thì trường tiền tệ và hỗ trợ vốn khả dụng cho các tổ chức tài chính có điều kiện mở rộng huy động vốn và tín dụng có hiệu quả đối với nền kinh tế kể cả các dự án cho vay theo chương trình kích cầu của chính phủ. Ngày 10/04/2009 phó thống đốc Trần Minh Tuấn kí ban hành quyết định số 837/QĐ-NHNN điều chỉnh giảm lãi suất, quy định các mức lãi suất của NHNNVN như sau: 1.lãi suất tái cấp vốn: 7%/năm 2.lãi suất tái chiết khấu: 5%/năm 3.lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với các ngân hàng: 7%/năm Như vậy NHNN đang giảm đáng kể chi phí vay vốn của các NHTM từ NHNN từ đó khuyến khích, thúc đẩy các NHTM cho vay nhờ được hỗ trợ nguồn vốn dồi dào có chi phí thấp từ NHNN. Có thể thấy chính sách tiền tệ nới lỏng vẫn được thực hiện mạnh mẽ nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế. Hơn thế nữa tăng trưởng tín dụng trong 3 tháng đầu năm đạt thấp, chỉ hơn 2% so với cuối năm 2008, điều này là đáng thất vọng khi các chính sách kích thích nền kinh tế đang được đẩy mạnh như hiện nay. Ngày 25/11/2009 thống đốc NHNN ra các quyết định 2664/QĐ-NHNN điều chỉnh tăng các mức lãi suất như sau: 1.lãi suất tái cấp vốn: 8%/năm 2.lãi suất tái chiết khấu: 6%/năm 3.lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHNN đối với các ngân hàng: 8%/năm Diễn biến kinh tế những tháng cuối năm vẫn tiếp tục là thách thức cho thực thi CSTT như thâm hụt cán cân thương mại không được cải thiện mà vẫn tiếp tục gia tăng (theo số liệu của Tổng cục Hải quan 11 tháng tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước đạt 113,6 tỷ USD, giảm 14,7% so với cùng kỳ năm 2008, trong đó, xuất khẩu là 51,33 tỷ USD, giảm 11,5% và nhập khẩu là 62,28 tỷ USD, giảm 17%. Cán cân thương mại hàng hóa 11 tháng thâm hụt 10,95 tỷ USD bằng 21,3% xuất khẩu), nguồn bù đắp cho thâm hụt này suy giảm như nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm sút mạnh so với năm 2008, đầu tư gián tiếp nước ngoài không tăng mà còn giảm; nguồn kiều hối cũng giảm do khủng hoảng kinh tế toàn cầu... do vậy dẫn đến thâm hụt cán cân thanh toán, tình hình này tiếp tục gây bất lợi cho việc ổn định tỷ giá. Thêm vào đó, thâm hụt ngân sách tăng cao, năm 2009 mức thâm hụt ngân sách ở mức 6,5% GDP buộc ngân sách phải vay nợ nhiều, qua đó mà gây áp lực giảm giá VND. Trên thị trường tiền tệ xuất hiện những hiện tượng bất cập, mâu thuẫn nhau: Tốc độ tăng trưởng tín dụng cao, nhưng chưa đáp ứng đủ nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp, VND vẫn khan hiếm, biểu hiện ở áp lực tăng lãi suất, thanh khoản VND mỏng manh. Sự khan hiếm tiền đồng về mặt lý thuyết là làm cho VND lên giá. Nhưng chính sách điều tiết vĩ mô thì lãi suất lại thấp (lãi suất cho vay hỗ trợ, trần lãi suất cho vay..) gây áp lực giảm giá VND, đồng thời kích thích nhu cầu sử dụng tiền đồng, tăng nhu cầu tín dụng, gây ra vòng xoáy khan hiếm tiền đồng, gây áp lực cho NHNN phải cung ứng thêm tiền đồng. Điều này tiếp tục gây áp lực giảm giá VND. Đồng thời, sự biến động mạnh của giá vàng cũng có những tác động bất lợi đến tỷ giá. Trước tình hình này, ngày 26/11, NHNN đã kịp thời điều chỉnh tỷ giá, nâng tỷ giá công bố lên 17.980 đồng/usd, tăng 5,4% so với ngày trước đó, thu hẹp biên độ tỷ giá từ +/-5% xuống còn +/-3%, đồng thời yêu cầu các tổ chức tín dụng thực hiện nghiêm biên độ tỷ giá. Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng có trạng thái ngoại tệ từ âm 5% trở xuống lại được NHNN bán ngoại tệ hỗ trợ nhằm đảm bảo hệ thống ngân hàng cam kết cung cấp đủ ngoại tệ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, đặc biệt ưu tiên những mặt hàng nhập khẩu phục vụ sản xuất. . Ngoài ra, NHNN cần nâng cao chất lượng tín dụng, năng lực quản trị… tiếp tục hoàn thiện thể chế, tăng cường công tác thanh tra, giám sát… để các ngân hàng hoạt động an toàn. Một là, điều hành lượng tiền cung ứng ở mức hợp lý; trường hợp cần thiết hỗ trợ thanh khoản trực tiếp cho các Ngân hàng Thương mại (NHTM) thông qua mua ngoại tệ; trường hợp đặc biệt, NHNN sẽ tái cấp vốn trực tiếp cho tổ chức tín dụng (TCTD), đồng thời thành lập tổ kiểm soát tại chỗ đối với các TCTD này, kèm theo đó là các biện pháp tăng cường giám sát để đảm bảo an toàn hệ thống và ổn định thị trường tiền tệ. Hai là, giữ ổn định lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn và tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Ba là, điều hành tỷ giá trong mối quan hệ với lãi suất, chỉ số giá tiêu dùng, cán cân thanh toán quốc tế; điều chỉnh linh hoạt tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng tăng hoặc giảm ở mức độ hợp lý, phù hợp với tín hiệu của thị trường, có sự điều tiết của nhà nước, đảm bảo mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền VND. Bốn là, xử lý phù hợp tình hình thực tế về cho vay theo lãi suất thoả thuận đối với các nhu cầu vốn phục vụ đời sống và phát hành thẻ của các NHTM hiện nay và kiểm soát việc cho vay lãi suất thoả thuận của các NHTM theo đúng quy định của pháp luật hiện hành. Năm là, các NHTM thực hiện đúng chỉ đạo của Thống đốc NHNN tại chỉ thị số 01/CT-NHNN ngày 22/5/2009 về một số biện pháp đảm bảo an toàn, hiệu quả kinh doanh của TCTD; trong đó, phải đảm bảo cân đối giữa số vốn huy động và cho vay, cũng như cân đối về kỳ hạn, đảm bảo thanh khoản trong những tháng cuối năm và Tết Nguyên đán Canh Dần; 3. Đánh giá: a, Tích cực NHNN đã kịp thời chỉ đạo các ngân hàng thương mại thực hiện chương trình hỗ trợ lãi suất 4%.: tính đến 24/12/2009 dư nợ cho vây hỗ trợ lãi suất bằng đồng Việt Nam đạt hơn 412 nghìn tỷ đồng. Chính sách tiền tệ được điều chỉnh linh hoạt và hiệu quả: CSTT được điều chỉnh theo hướng nới lỏng thận trọng, tạo điều kiện cho hỗ trợ tín dụng mở rộng tín dụng hiệu quả. Trong bối cảnh nguồn cung ngoại tệ suy giảm do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, NHNN thực hiện điều hành linh hoạt tỷ giá bình quân liên ngân hàng phù hợp với tín hiệu thị trường và mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập siêu. Hạ nhiệt thị trường vàng: quyết định cho phép nhập khẩu vàng trong thời điểm nhạy cảm. Từ thời điển đó tỷ giá USD/VND trên thị trường đã được ổn định và nguồn cung vành không còn khan hiếm, giao dịch trên thị trường vàng diễn ra khá ổn định. Những biện pháp giảm áp lực giảm giá VND, nâng cao kỷ luật thị trường tiền tệ cùng với việc nâng tỷ giá công bố lên 5,4% tạo sự ổn định và thích ứng hơn với thị trường. Thêm vào đó những biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng, hướng việc mở rộng tín dụng vào những lĩnh vực sản suất, nông nghiệp nông thôn sẽ có tăng động tích cực đến tăng trưởng kinh tế năm 2010. Chính sách tài chính - tiền tệ năm 2009 đã tạo kết quả tích cực cho tăng trưởng kinh tế và thực hiện dự toán thu chi ngân sách, trong đó, số thu ngân sách Nhà nước vượt dự toán. Việc thực hiện chính sách miễn, giảm, giãn thuế tuy có làm giảm số thu ngân sách của nhiều địa phương, nhưng Chính phủ đã tích cực chỉ đạo nhiều biện pháp khắc phục, góp phần giảm số hụt thu của ngân sách Nhà nước so với Báo cáo đã trình QH; đáp ứng các nhiệm vụ chi phát sinh về đầu tư phát triển, an sinh xã hội và thực hiện các nhiệm vụ phòng chống thiên tai. Tốc độ tăng trưởng GDP là 5,32% Giảm lạm phát từ 19,98% năm 2008 xuống còn 6,52% hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức 5,2% và chính sách tiền tệ góp phần quan trọng vào việc ổn định kinh tể vĩ mô Tác dụng tích cực đến các doanh nghiệp phục hồi sản xuất, làm khởi sắ thị trường chính khoán, bất động sản, thị trường tín dụng b, Hạn chế: Chính sách tiền tệ nới lỏng gây sức ép khá lớn cho lạm phát và một số cân đối vĩ mô khác. VD việc hỗ trợ lãi suất giúp doanh nghiệp giảm chi phí, giảm giá thnàh qua đó giúp họ vượt qua thời kỳ khó khăn, nhưng lại đẩy tín dụng tăng cao, doanh nghiệp chuyển từ vay ngoại tệ sang Việt Nam đồng để hưởng lãi suất thấp hơn điều đó làm tăng sức ép lên tỷ giá VND. Mức tín dụng tăng trưởng tới gần 40% là hơi quá cao, tình trạng thị trường ngoại hối và tỷ giá chịu nhiều sức ép do cung cầu mất cân đối và tâm lý tích trữ ngoại tệ kéo dài quá lâu. Cuộc đua lãi suất của các NHTM có xu hướng nóng dần lên, một số NHTM bắt đầu gặp khó khăn về thanh khoản. tăng trưởng tín dụng “nóng”. Tình trạng khan hiếm ngoại tệ chưa được giải quyết triệt để, tỷ giá ngoại tệ còn diễn biến khá phức tạp. Tâm lý nắm giữ ngoại tệ của người dân vẫn chưa được giải tỏa triệt để. Giá vàng trên thế giới luôn diễn biến phức tạp, khó lường và đang cao xu hướng tăng. Báo cáo thẩm tra của UB Tài chính – Ngân sách của Ủy viên UBTVQH, Chủ nhiệm UB Phùng Quốc Hiển trình bày nêu rõ: chính sách tài chính - tiền tệ chưa tạo đòn bẩy để bước đầu chuyển đổi và tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng tích cực; gói kích thích kinh tế của Chính phủ còn mang tính bình quân và dàn đều, chưa có trật tự ưu tiên; triển khai quá nhiều mục tiêu nhưng giải ngân chậm. Các đối tượng khu vực nông nghiệp, nông thôn và nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa khó tiếp cận với chính sách cho vay hỗ trợ lãi suất làm giảm hiệu quả của chính sách tài khóa năm 2009. Lượng tiền bơm vào nền kinh tế lớn nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa cao, làm cho hệ số sử dụng vốn ICOR của toàn bộ nền kinh tế tăng lên rõ rệt, cùng với chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ được nới lỏng sẽ làm tăng nguy cơ lạm phát trong giai đoạn tới Gây sức ép tăng khối lượng tiền trong nền kinh tế, tín dụng tăng trưởng cao, gây áp lực giá VND Cán cân thương mại không được cải thiện mà vẫn tiếp tục gia tăng, nguồn bù đắp cho thâm hụt này suy giảm, đầu tư gián tiếp nước ngoài không tăng mà còn giảm, nguồn kiều hối cũng giảm dẫn đến thâm hụt cán cân thanh toán, gây bất lợi cho việc ổn định tỉ giá Tỉ giá USD/VND xuống thấp kỷ lục bởi USD giảm giá mạnh dẫn đến xuất khẩu hàng của Việt Nam gặp nhiều khó khăn. Với những quyết định nói trên có thể thấy đầu năm 2009 khi mà phải chịu áp lực của việc chỉ số lạm phát của năm 2008 tăng cao thì ngay trong đầu năm 2009 NHNN đã đưa ra các quyết định kịp thời để kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên những tháng cuối năm 2008 xảy cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới khiến cho tốc độ tăng trưởng bị hạn chế và để khắc phục điều này thì sau khi kiềm chế được lạm phát NHNN đã đưa ra hàng loạt các quyết định nhằm bơm tiền vào cho nền kinh tế tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đến những tháng cuối năm 2009, khi mà ở thời điểm này nhu cầu của người tiêu dùng lên cao rất đễ làm cho chỉ số lạm phát của cả năm tăng cao thì NHNN đã nhanh chóng ban hành các quyết định nhằm đạt được mục tiêu kiềm chế lạm phát của năm 2009. CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 2010: “Siết chặt sau nới lỏng!” Giảm mức tăng tổng phương tiện thanh toán, điều hành cung ứng tiền chặt chẽ hơn và tăng hệ số an toàn vốn gấp nhiều lần năm 2009 cho thấy một tín hiệu NHNN quyết tâm thực hiện mục tiêu siết chặt tăng trưởng tín dụng trong năm mới. Những con số Không hẳn phải chờ đến những ngày cuối cùng trong năm mới dò đoán được phương hướng chủ đạo trong các biện pháp điều hành chính sách tiền tệ của NHNN cho năm 2010. Ngay từ những tháng cuối năm 2009, những biện pháp điều hành chính sách tiền tệ của NHNN bắt đầu cho thấy dấu hiệu chuyển dần từ nới lỏng sang chính sách thắt chặt. Trong lúc thực hiện mở rộng tín dụng đối với nền kinh tế, phù hợp với mục tiêu tăng trưởng kinh tế và định hướng tăng trưởng tín
Tài liệu liên quan