Ảnh hưởng của các chế độ ánh sáng đến tỷ lệ nở và sinh trưởng của ốc bươu đồng (pila polita)

TÓM TẮT Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá ảnh hưởng của ánh sáng đến tỷ lệ nở và sinh trưởng của ốc bươu đồng. Thí nghiệm 1 đánh giá ảnh hưởng của ánh sáng đến tỷ lệ nở của trứng ốc được tiến hành với 3 nghiệm thức và mỗi nghiệm thức có 8 lần lặp lại là: 1) Ánh sáng tự nhiên (NL); 2)Che 1 lớp lưới lan (OL) và 3). Che 2 lớp lưới lan (TL). Trong thí nghiệm 2, ốc bươu đồng mới nở được ương ở các chế độ ánh sáng tương tự thí nghiệm 1. Ốc giống có khối lượng và chiều cao ban đầu (0,03 g và 4,80 mm) được ương với mật độ 300 con/m2. Kết quả thí nghiệm cho thấy, trứng ốc bươu đồng đạt tỷ lệ nở cao nhất (83,3%) ở nghiệm thức OL (tương đương với cường độ ánh sáng từ 1000 đến 9000 lux) và cao hơn đáng kể so với các nghiệm thức còn lại (p<0,05). Sau 35 ngày ương, tỷ lệ sống của ốc trong các nghiệm thức biến động từ 98,1 đên 98,5% và không khác biệt nhau (p>0,05). Tuy nhiên, khối lượng và chiều cao trung bình của ốc (1,56 g và 20 mm) ở nghiệm thức TL cao hơn so với điều kiện bình thường (1,21 g và 18,23 mm) hoặc che 1 lớp lưới (1,22 g và 18,57 mm).

pdf7 trang | Chia sẻ: nguyenlinh90 | Lượt xem: 670 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của các chế độ ánh sáng đến tỷ lệ nở và sinh trưởng của ốc bươu đồng (pila polita), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần B: Nông nghiệp, Thủy sản và Công nghệ Sinh học: 38 (2015)(1): 73-79 73 ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC CHẾ ĐỘ ÁNH SÁNG ĐẾN TỶ LỆ NỞ VÀ SINH TRƯỞNG CỦA ỐC BƯƠU ĐỒNG (Pila polita) Ngô Thị Thu Thảo1 và Nguyễn Thị Nha Trang1 1 Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ Thông tin chung: Ngày nhận: 05/01/2015 Ngày chấp nhận: 09/06/2015 Title: Effects of different light conditions on the hatching rate, growth and survival of black apple snail, Pila polita Từ khóa: Ốc bươu đồng, ánh sáng, tỷ lệ nở, sinh trưởng Keywords: Pila polita, light, hatching rate, growth, survival ABSTRACT This study was conducted to evaluate the effects of light conditions on the hatching rate, growth and survival rate of black apple snail, Pila polita. The first experiment evaluated the influence of light conditions on the hatching rate of snail eggs with 3 treatments and 8 replicates in each treatment as follow: 1) Normal light condition (without net cover, NL); 2) 1 layer net cover (OL) and 3). 2 layer net cover (TL). In the second experiment, newly hatched snails with initial weight and shell height of 0.03 g and 4.8 mm were reared in the plastic tanks at the density of 300 ind/m2. The light conditions in second experiment was designed similarly to the first one. Results showed that black apple snail eggs reached highest hatching rate (83,8 %) in OL treatment with light intensity from 1000- 9000 lux and significantly higher than those from other treatments (p<0.05). After 35 days of culture period, the survival rate of snails varied in between 98,1 - 98,5% and it was not significant difference among treatments (p>0.05). However, in TL, snails reached highest body weight and shell height (1.56 g and 20.0 mm) compared to NL (1.21 g and 18.23 mm) or OL condition (1.22 g and 18.57 mm). TÓM TẮT Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá ảnh hưởng của ánh sáng đến tỷ lệ nở và sinh trưởng của ốc bươu đồng. Thí nghiệm 1 đánh giá ảnh hưởng của ánh sáng đến tỷ lệ nở của trứng ốc được tiến hành với 3 nghiệm thức và mỗi nghiệm thức có 8 lần lặp lại là: 1) Ánh sáng tự nhiên (NL); 2)Che 1 lớp lưới lan (OL) và 3). Che 2 lớp lưới lan (TL). Trong thí nghiệm 2, ốc bươu đồng mới nở được ương ở các chế độ ánh sáng tương tự thí nghiệm 1. Ốc giống có khối lượng và chiều cao ban đầu (0,03 g và 4,80 mm) được ương với mật độ 300 con/m2. Kết quả thí nghiệm cho thấy, trứng ốc bươu đồng đạt tỷ lệ nở cao nhất (83,3%) ở nghiệm thức OL (tương đương với cường độ ánh sáng từ 1000 đến 9000 lux) và cao hơn đáng kể so với các nghiệm thức còn lại (p<0,05). Sau 35 ngày ương, tỷ lệ sống của ốc trong các nghiệm thức biến động từ 98,1 đên 98,5% và không khác biệt nhau (p>0,05). Tuy nhiên, khối lượng và chiều cao trung bình của ốc (1,56 g và 20 mm) ở nghiệm thức TL cao hơn so với điều kiện bình thường (1,21 g và 18,23 mm) hoặc che 1 lớp lưới (1,22 g và 18,57 mm). 1 GIỚI THIỆU Ốc bươu đồng (Pila polita) là đối tượng nuôi khá mới, nhưng khá triển vọng cho nghề nuôi thủy sản vì lớn nhanh và dễ nuôi. Tuy nhiên nguồn lợi ốc bươu đồng trong tự nhiên ngày một giảm sút do sự xâm nhập của ốc bươu vàng, do khai thác quá Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần B: Nông nghiệp, Thủy sản và Công nghệ Sinh học: 38 (2015)(1): 73-79 74 mức và môi trường ngày càng bị ô nhiễm. Gần đây có một số nghiên cứu về kỹ thuật sản xuất giống (Nguyễn Thị Bình, 2011) và ương nuôi ốc bươu đồng (Nguyễn Thị Bình, 2011; Nguyễn Thị Diệu Linh, 2011). Tuy nhiên, trên thế giới và ở Việt Nam chưa có nhiều nghiên cứu về ảnh hưởng của các điều kiện môi trường nhất là ảnh hưởng của ánh sáng đến tỷ lệ nở và sinh trưởng của loài ốc này. Nghiên cứu áp dụng chế độ ánh sáng phù hợp với đặc điểm sinh học đồng thời phù hợp với điều kiện thực tế để ấp và ương nuôi ốc bươu đồng là vấn đề cần được quan tâm nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất giống. Kết quả của nghiên cứu sẽ đóng góp cơ sở để có thể khuyến cáo chế độ ánh sáng thích hợp trong quá trình ấp trứng và ương giống ốc bươu đồng. 2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 Vật liệu và phương pháp Trứng ốc bươu đồng được thu từ tự nhiên ở Đồng Tháp vận chuyển về ấp tại Trại Thực Nghiệm động vật thân mềm, Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ. Ốc bươu đồng sau khi nở 5 ngày được thu để bố trí thí nghiệm. 2.1.1 Ảnh hưởng của ánh sáng đến quá trình nở của trứng bươu đồng Bọc trứng được ấp trong bể nhựa hình tròn (đường kính 1 m × cao 1 m) đặt ngoài trời, mực nước trong bể ấp khoảng 7,0 cm. Mật độ ấp là 8 bọc trứng/bể, bọc trứng được để trên giá thể lục bình và đặt trong rổ nhựa hình chữ nhật, trong bể ấp có bố trí hệ thống sục khí cung cấp ôxy liên tục. Các điều kiện ánh sáng khác nhau được áp dụng trong quá trình ấp trứng là: 1). Ánh sáng bình thường (không che lưới), 2). Che bằng 1 lớp lưới lan và 3). Che bằng 2 lớp lưới lan. Mỗi chế độ ánh sáng được lặp lại 8 lần. Lưới che bể là loại lưới bằng sợi nilon màu đen được bán trên thị trường cho việc làm giàn trồng hoa lan. 2.1.2 Ảnh hưởng của các chế độ ánh sáng khác nhau đến tăng trưởng và tỷ lệ sống của ốc bươu đồng Thí nghiệm ương được bố trí trong bể composite hình chữ nhật có thể tích 200 lít (kích thước 80×60×80 cm). Chiều cao cột nước trong bể ương được duy trì ở mức khoảng 20 cm, bể được đặt ngoài trời và có gắn hệ thống sục khí liên tục trong quá trình ương. Mật độ ương là 300 con/m2, ốc giống có khối lượng và chiều cao tương ứng là 0,03 g và 4,80 mm. Trong quá trình ương có thay nước và giá thể rể cây lục bình theo định kỳ 7 ngày/lần. Các điều kiện ánh sáng khác nhau được áp dụng trong quá trình ương ốc giống tương tự như thí nghiệm 1. Mỗi điều kiện ánh sáng được lặp lại 3 lần. Thức ăn sử dụng trong thí nghiệm là thức ăn công nghiệp (18% đạm), ốc được cho ăn lượng thức ăn tương đương 3% khối lượng thân. Cho ăn 2 lần/ngày vào lúc 7 giờ sáng và 17 giờ chiều. 2.2 Các chỉ tiêu theo dõi 2.2.1 Các chỉ tiêu theo dõi trong thí nghiệm ấp trứng Các yếu tố môi trường: Cường độ ánh sáng được kiểm tra 4 lần/ngày (vào lúc 8, 10, 14 và 16 giờ) bằng máy đo cường độ ánh sáng (Foot Candle Lux Light Meter). Các yếu tố môi trường được thu thập như sau: nhiệt độ đo hằng ngày lúc 8 giờ sáng và 14 giờ chiều bằng nhiệt kế thủy ngân; pH, NH4+, NO2- và độ kiềm được xác định 5 ngày/lần bằng bộ Test SERA sản xuất tại Đức. Khối lượng của từng bọc trứng và 05 hạt trứng từ mỗi bọc trứng được cân để tính số hạt trứng/bọc. Số ốc mới nở được kiểm tra hàng ngày để tính tỷ lệ nở theo thời gian theo công thức: Tỷ lệ nở (%) = 100 × (Số ốc nở/Số trứng) Chiều cao ốc mới nở (mm) được đo từ đỉnh vỏ đến mép miệng và khối lượng ốc mới nở (g) được thu thập khi ốc mới nở ra hàng ngày. 2.2.2 Các chỉ tiêu theo dõi trong thí nghiệm ương Cường độ ánh sáng được đo giống như thí nghiệm 1, nhiệt độ được đo bằng nhiệt kế thủy ngân vào lúc 8 giờ và 14 giờ hằng ngày. Các yếu tố pH, NH3/NH4+, NO2- và độ kiềm được xác định 7 ngày/lần bằng bộ Test SERA sản xuất tại Đức. Kích thước, khối lượng và tỷ lệ sống ốc ương trong từng bể được xác định 7 ngày/lần để tính tốc độ tăng trưởng về khối lượng và chiều cao của ốc theo thời gian: Tốc độ tăng trưởng khối lượng tương đối: SGRw (%/ngày) = 100 × (LnW2 – LnW1)/t Tốc độ tăng trưởng khối lượng tuyệt đối: DGRw (mg/ngày) = (W2 – W1)/t Tốc độ tăng trưởng chiều cao tương đối: SGRL (%/ngày) = 100 × (Ln(L2) – Ln(L1))/t Tốc độ tăng trưởng chiều cao tuyệt đối: DWGL (mm/ngày) = (L2 – L1)/t Trong đó: W1, L1: Khối lượng và chiều cao tại thời điểm bố trí thí nghiệm W2, L2: Khối lượng và chiều cao tại thời điểm thu mẫu Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần B: Nông nghiệp, Thủy sản và Công nghệ Sinh học: 38 (2015)(1): 73-79 75 Tỷ lệ sống của ốc theo công thức: SR (%) = (N2×100)/N1 Trong đó: N1: Số cá thể thả ban đầu thí nghiệm; N2: Số cá thể tại thời điểm thu mẫu 2.3 Phương pháp phân tích số liệu Sử dụng phần mềm Excel để tính các giá trị trung bình, độ lệch chuẩn và chương trình SPSS 16.0 để so sánh thống kê các giá trị trung bình giữa các nghiệm thức ở mức p<0,05 bằng phép so sánh Duncan. 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1 Ảnh hưởng của các điều kiện ánh sáng đến quá trình nở của trứng bươu đồng 3.1.1 Biến động các yếu tố môi trường Cường độ ánh sáng cao nhất khi bể nuôi không che sáng (4328 - 29076 lux) và thấp nhất ở các nghiệm thức che 2 lớp lưới (516 - 3760 lux). Cường độ ánh sáng có xu hướng tăng vào buổi trưa và giảm vào buổi chiều. Bảng 1: Biến động cường độ ánh sáng ở từng nghiệm thức (Lux) Thời gian trong ngày (giờ) Điều kiện ánh sáng Bình thường 1 lớp lưới 2 lớp lưới 8 4967±2973 2672±3074 636±353 10 29076±22424 9190±10102 3646±3627 14 23680±21206 4721±4299 3760±5155 16 328±3251 152±707 516±308 Trong quá trình ấp trứng, nhiệt độ biến động trong khoảng 26-35,8oC. Nhìn chung, biên độ dao động nhiệt độ trong ngày lớn (2-6oC) có thể đã ảnh hưởng đến sự phát triển của trứng ốc bươu đồng. Theo Nguyễn Thị Bình (2011) trứng ốc bươu đồng được ấp trong điều kiện nhiệt độ 22,5-29,5oC thì sau 13-16 ngày ốc con sẽ thoát ra khỏi bọc trứng và bám vào giá thể trong môi trường nước. Việc che sáng bằng lưới lan đã ảnh hưởng nhiệt độ giữa các nghiệm thức (Bảng 2). Trong đó, nhiệt độ trong các bể không che lưới luôn duy trì cao hơn rất rõ so với các bể được che bằng một lớp lưới hoặc hai lớp lưới (p<0,05). Bảng 2: Biến động nhiệt độ giữa các nghiệm thức thí nghiệm (oC) Nhiệt độ (oC) Không khí Điều kiện ánh sáng Bình thường 1 lớp lưới 2 lớp lưới Buổi sáng 27,1±0,4b 26,2±0,3a 26,1±0,4a 26,0±0,3a Buổi chiều 35,8±4,2c 33,3±2,3bc 31,3±1,5ab 28,1±1,8a Các giá trị trong cùng hàng có chữ cái giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) Bảng 3: Biến động các yếu tố môi trường trong quá trình ấp trứng ốc bươu đồng Yếu tố môi trường Điều kiện ánh sáng Bình thường 1 lớp lưới 2 lớp lưới pH 8,6±0,3a 8,5±0,3a 8,4±0,3a NH4+ (mg/L) 0,10±0,0a 0,12±0,05a 0,12±0,05a NO2- (mg/L) 0,17±0,08a 0,20±0,1a 0,19±0,1a Độ kiềm (mg/L) 85,5±9a 80,0±10a 80,0±10a Các giá trị trong cùng hàng có chữ cái giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) Trung bình giá trị pH của nghiệm thức không che lưới (8,6) cao hơn so với nghiệm thức che một lớp lưới (8,5) và che hai lớp lưới (8,4), tuy nhiên không khác biệt nhau (p>0,05). Nhìn chung, pH trong quá trình thí nghiệm không biến động lớn và nằm trong khoảng thích hợp cho sinh trưởng của ốc. Hàm lượng NH4+ trong các nghiệm thức ở mức thấp và ít biến động (từ 0,10 đến 0,12 mg/L). Kết quả cho thấy biến động hàm lượng NH4+ trong các bể thí nghiệm không khác biệt nhau và nằm trong khoảng giới hạn cho phép. Trung bình hàm lượng NO2- ở các nghiệm thức tương đương nhau: không che lưới (0,17 mg/L), che 1 lớp lưới (0,20 mg/L) và che 2 lớp lưới (0,19 mg/L) và khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Độ kiềm trung bình giữa các nghiệm thức dao động trong khoảng 75,5 - 80mg CaCO3/L và không khác biệt giữa các nghiệm thức (p>0,05). 3.1.2 Tỷ lệ nở, thời gian nở và quá trình nở ốc bươu đồng Kết quả cho thấy tỷ lệ nở của trứng ốc bươu đồng có sự khác biệt rất rõ (p<0,05) trong các điều kiện ánh sáng khác nhau. Tỷ lệ nở của trứng đạt giá trị cao nhất khi che 1 lớp lưới (83,8%), thấp nhất khi không che (61,3%) hoặc che 2 lớp lưới (62,4%). Như vậy cường độ ánh sáng trong điều kiện che 1 lớp lưới (từ 1000 đến 9000 lux) cho kết quả tỷ lệ nở của trứng ốc cao hơn so với các điều kiện ánh sáng quá mạnh hoặc quá yếu. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần B: Nông nghiệp, Thủy sản và Công nghệ Sinh học: 38 (2015)(1): 73-79 76 Bảng 4: Tỷ lệ nở, thời gian nở và quá trình nở ốc bươu đồng trong các điều kiện ánh sáng khác nhau Điều kiện ánh sáng Bình thường 1 lớp lưới 2 lớp lưới Khối lượng bọc trứng (g/bọc) Số hạt trứng ban đầu (hạt) Số hạt trứng nở (hạt) Tỷ lệ nở (%) 8,69±2,72a 698±54,8a 501±37a 61,3±17,64a 8,55±0,99a 686±19,9a 667±20b 83,8±3,20b 9,11±2,94a 731±58,9a 520±49a 62,4±13,5a Thời gian bắt đầu nở (ngày) 10,2 ± 1,2a 9,2±0,5a 9,5± 1,0a Hoàn thành quá trình nở (ngày) 9,2 ± 0,9a 7,2±1,5a 8,2± 3,3a Các giá trị trong cùng hàng có chữ cái giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) Theo Nguyễn Thị Bình (2011) ốc bươu đồng con sống tốt khi nhiệt độ 27oC vào buổi sáng và 30oC vào buổi chiều. Kết quả nghiên cứu này cho thấy với khoảng biến động nhiệt 2oC trong điều kiện che một lớp lưới đã tỏ ra thuận lợi hơn cho quá trình phát triển phôi của ốc bươu đồng dẫn đến tỷ lệ nở cao hơn. Thời gian bắt đầu nở và hoàn tất quá trình nở trứng không có sự khác biệt (p>0,05) giữa các điều kiện ánh sáng khác nhau, tuy nhiên có thể thấy trứng ốc được ấp trong bể che 1 lớp lưới có thời gian nở sớm nhất (9,2 ngày) và hoàn thành quá trình nở nhanh nhất (7,2 ngày). Điều này chứng tỏ điều kiện ánh sáng có liên quan đến biến động nhiệt độ và đã ảnh hưởng nhất định đến tốc độ nở của trứng ốc bươu đồng. 3.1.3 Khối lượng và chiều cao ốc bươu đồng mới nở Khối lượng ốc bươu đồng giữa các nghiệm thức không có khác biệt (p>0,05). Tuy nhiên chiều cao ốc mới nở ở nghiệm thức che 2 lớp lưới đạt cao nhất (3,96 mm) và khác biệt có ý nghĩa thống kê so với không che (3,59 mm) hoặc che 1 lớp lưới (3,86 mm). Có thể do cường độ ánh sáng và nhiệt độ ở nghiệm thức không che lưới cao hơn làm cho quá trình phân cắt phôi của ốc diễn ra nhanh hơn hoặc có thể ốc giống vừa mới nở đã phải hao tốn nhiều năng lượng hơn cho quá trình điều hòa trao đổi chất do đó kích thước cơ thể nhỏ hơn. Bảng 5: Khối lượng và chiều cao ốc mới nở trong các điều kiện ánh sáng khác nhau Điều kiện ánh sáng Bình thường 1 lớp lưới 2 lớp lưới Khối lượng (g) 0,04±0,01a 0,05±0,01a 0,05±0,15a Chiều cao (mm) 3,59 ±0,32a 3,86±0,25ab 3,93±0,19b Các giá trị trong cùng hàng có chữ cái giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) 3.2 Ảnh hưởng của các điều kiện ánh sáng trong quá trình ương ốc bươu đồng 3.2.1 Biến động các yếu tố môi trường Bảng 6 cho thấy cường độ ánh sáng có xu hướng tăng vào buổi trưa và giảm dần vào buổi chiều. Cường độ ánh sáng cao nhất ở nghiệm thức không che lưới (61,024 lux) vào thời điểm 14 giờ chiều hàng ngày, trong khi đó ở các nghiệm thức có che lưới thì cường độ ánh sáng đạt cao nhất vào lúc 10h sáng và sau đó giảm dần. Bảng 6: Biến động cường độ ánh sáng (Lux) tương ứng với các nghiệm thức Thời gian trong ngày (giờ) Điều kiện ánh sáng Bình thường 1 lớp lưới 2 lớp lưới 8 5753±216 1862±160 714±39 10 57338±4343 20634±1613 7593±366 14 61024±1713 16263±299 4353±168 16 4778±111 1029±42 347±52 Trong quá trình thí nghiệm, nhiệt độ buổi sáng và buổi chiều dao động tùy thuộc vào điều kiện che sáng khác nhau (Bảng 7). Trong đó, các bể được che bằng 2 lớp lưới luôn duy trì nhiệt độ ổn định hơn rất rõ so với các nghiệm thức không che lưới hoặc che với 1 lớp lưới (p<0,05). Theo Nguyễn Thị Bình (2011) ốc bươu đồng con sống tốt khi nhiệt độ 27oC vào buổi sáng và 30oC buổi chiều. Nhiệt độ thích hợp cho sự sinh trưởng của ốc bươu đồng trong khoảng 20 - 32oC. Giá trị pH khá ổn định (từ 7,7 - 8,4) và không khác biệt giữa các nghiệm thức (p>0,05). Hàm lượng NH4+ trong các nghiệm thức che 2 lớp lưới (0,55 mg/L) cao hơn (p<0,05) so với nghiệm thức che 1 lớp lưới (0,33 mg/L) hoặc để tự nhiên (0,25 mg/L). Mặc dù có sục khí liên tục nhưng việc che 2 lớp lưới có thể đã ảnh hưởng đến quá trình chuyển hóa đạm trong bể ương hoặc cũng có thể ốc giống trong nghiệm thức này sinh trưởng tốt hơn và chất thải của chúng tích tụ nhiều hơn. Hàm lượng NO2- có xu hướng tăng cùng với thời gian thí Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần B: Nông nghiệp, Thủy sản và Công nghệ Sinh học: 38 (2015)(1): 73-79 77 nghiệm. Hàm lượng NO2- trong nghiệm thức che 2 lớp lưới đạt cao nhất (0,7 mg/L) và khác biệt (p<0,05) so với các nghiệm thức không che hoặc che 1 lớp lưới. Vào những ngày cuối của chu kỳ thay nước, ốc bươu đồng trong các nghiệm thức thường có biểu hiện mở rộng chân và treo mình lơ lửng trên bề mặt nước. Đây có thể là những biểu hiện phản ứng của ốc đối với những biến động bất lợi của điều kiện môi trường liên quan đến hàm lượng NO2- tăng cao. Độ kiềm trung bình ở các nghiệm thức tương đương nhau, dao động trong khoảng 35,6 -124,6 mgCaCO3/L và không khác biệt giữa các nghiệm thức (p>0,05). Bảng 7: Giá trị trung bình các yếu tố môi trường trong bể ương Yếu tố môi trường Điều kiện ánh sáng Bình thường 1 lớp lưới 2 lớp lưới Nhiệt độ sáng (oC) Nhiệt độ chiều (oC) pH NH4+ (mg/L) NO2- (mg/L) Kiềm (mg CaCO3/L) 23,0±0,4a 32,6±0,8b 8,0±0,2a 0,25±0,1a 0,32±0,2a 83±30a 23,1±0,2ab 31,7±0,9b 8,0±0,2a 0,33±0,1ab 0,47±0,3ab 83±29a 23,9±0,2b 29,7±0,5a 8,0±0,2a 0,55±0,3b 0,60±0,4b 86±29a Các giá trị trong cùng một hàng có chữ cái giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) 3.2.2 Tăng trưởng của ốc bươu đồng Tăng trưởng về chiều cao Khi bố trí thí nghiệm, ốc bươu đồng có chiều cao từ 4,77 - 4,81 mm, sau 35 ngày nuôi đạt cao nhất ở nghiệm thức che 2 lớp lưới (20 mm) và thấp nhất ở nghiệm thức không che (18,23 mm). Kết quả phân tích thống kê cho thấy trung bình tốc độ tăng trưởng chiều cao tuyệt đối của ốc bươu đồng đạt cao nhất khi che 2 lớp lưới (0,42 mm/ngày) khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nghiệm thức không che (0,37 mm/ngày) hoặc che 1 lớp lưới (0,38 mm/ngày). Bảng 8: Tăng trưởng chiều cao của ốc bươu đồng trong các điều kiện ánh sáng Ngày Tăng trưởng tuyệt đối (mm/ngày) Tăng trưởng tương đối (%/ngày) Bình thường 1 lớp lưới 2 lớp lưới Bình thường 1 lớp lưới 2 lớp lưới 1-7 0,32±0,03a 0,35±0,03ab 0,38±0,01b 5,43±0,34a 5,87±0,36ab 6,27±0,22b 8-14 0,38±0,03a 0,38±0,04a 0,40±0,01a 5,28±0,38a 5,33±0,37a 5,53±0,07a 15-21 0,39±0,02a 0,37±0,02a 0,44±0,01b 4,75±0,19a 4,64±0,14a 5,10±0,17b 22-28 0,37±0,01a 0,40±0,02a 0,44±0,02b 4,13±0,09a 4,31±0,13ab 4,51±0,09b 29-35 0,38±0,01a 0,39±0,01a 0,43±0,01b 3,81±0,09a 3,88±0,05ab 4,07±0,02b Các giá trị trong cùng một hàng có chữ cái giống nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) Tăng trưởng về khối lượng Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối ở nghiệm thức che 2 lớp lưới đạt cao nhất (27,2 mg/ngày), khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nghiệm thức không che (21,4 mg/ngày) hoặc che 1 lớp lưới (22,1 mg/ngày). Tốc độ tăng trưởng tương đối của ốc trong điều kiện không che lưới (12,5%/ngày) bằng với nghiệm thức che 1 lớp lưới (12,6%/ngày) và thấp hơn rất rõ (p<0,05) so với che 2 lớp lưới (13,6%/ngày). Khối lượng ốc giống khi bắt đầu thí nghiệm là 0,03 g/con, sau 35 ngày đạt đến 0,47-0,62 g/con. Điều này cho thấy ánh sáng và nhiệt độ ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng của ốc ở nghiệm thức không che lưới và che 1 lớp lưới, trong các nghiệm thức này môi trường sống của ốc bị biến động đột ngột ảnh hưởng đến khả năng bắt mồi và làm giảm tăng trưởng so với nghiệm thức che 2 lớp lưới. Ngô Thị Thu Thảo và ctv. (2012) nghiên cứu ảnh hưởng của dòng chảy và cường độ chiếu sáng đến tăng trưởng và tỷ lệ sống của Tu hài (Lutraria rhynchaena) cho thấy khi cường độ ánh sáng từ 2000 – 25000 lux kết hợp với điều kiện nước chảy (160 L/giờ) hoặc nước tĩnh thì Tu hài đạt tốc độ tăng trưởng khối lượng từ 4,14 đến 4,27%/ngày. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ Phần B: Nông nghiệp, Thủy sản và Công nghệ Sinh học: 38 (2015)(1): 73-79 78 Bảng 9: Tăng trưởng khối lượng của ốc bươu đồng trong các điều kiện ánh sáng Ngày Tăng trưởng tuyệt đối (mm/ngày) Tăng trưởng tương đối (%/ngày) Bình thư
Tài liệu liên quan