Bài giảng Côn trùng học

- Côn trùng học là môn khoa học chuyên nghiên cứu về côn trùng - Côn trùng là những động vật thuộc ngành chân đốt hay còn gọi là tiết túc (Athropoda) với những đặc điểm sau: + Cơ thể chia ra 3 phần: đầu, ngực, bụng; giữa đầu và ngực nối với nhau bằng 1 màng mỏng gọi là cổ. Toàn bộ cơ thể được bao bọc bởi 1 lớp da cứng có tác dụng như "bộ xương ngoài" của côn trùng. + Đầu có 1 đôi râu đầu, miệng, 1 đôi mắt kép, 2-3 mắt đơn (1 số loài không có như loài bọ xít mù xanh). + Ngực chia 3 đốt, mỗi đốt mang 1 đôi chân. Trưởng thành mang 1 - 2 đôi cánh ở đốt giữa và đốt sau, có loài thoái hóa hoàn toàn. Muỗi có 1 đôi, cào cào có 2 đôi cánh, chấy không có cánh.

doc82 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 7317 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Côn trùng học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài giảng Côn trùng học MỤC LỤC BÀI MỞ ĐẦU (0.5 tiết) 1. KHÁI NIỆM - Côn trùng học là môn khoa học chuyên nghiên cứu về côn trùng - Côn trùng là những động vật thuộc ngành chân đốt hay còn gọi là tiết túc (Athropoda) với những đặc điểm sau: + Cơ thể chia ra 3 phần: đầu, ngực, bụng; giữa đầu và ngực nối với nhau bằng 1 màng mỏng gọi là cổ. Toàn bộ cơ thể được bao bọc bởi 1 lớp da cứng có tác dụng như "bộ xương ngoài" của côn trùng. + Đầu có 1 đôi râu đầu, miệng, 1 đôi mắt kép, 2-3 mắt đơn (1 số loài không có như loài bọ xít mù xanh). + Ngực chia 3 đốt, mỗi đốt mang 1 đôi chân. Trưởng thành mang 1 - 2 đôi cánh ở đốt giữa và đốt sau, có loài thoái hóa hoàn toàn. Muỗi có 1 đôi, cào cào có 2 đôi cánh, chấy không có cánh. + Hô hấp bằng hệ thống khí quản và lỗ thở. + Lỗ sinh dục và hậu môn ở phía cuối bụng, hệ tuần hoàn hở + Trong quá trình sinh trưởng có biến thái bên trong và biến thái bên ngoài - Nguồn gốc của côn trùng: Đọc tài liệu 2. Một số đặc điểm của lớp côn trùng - Gồm nhiều loài: Số loài côn trùng đã biết chiếm 2/3-3/4 tổng số loài của giới động vật trên trái đất. Hiện đã xác định được 900 nghìn loài côn trùng trong tổng số 1 triệu 150 nghìn loài động vật. - Đông về số lượng cá thể. 1 tổ kiến Atlas có đến 50 vạn con 1 tổ ong lớn có 6-8 vạn con - Phân bố ở khắp mọi nơi do: +Kích thước côn trùng nhỏ nên dễ thỏa mãn nhu cầu thức ăn, dễ tìm kiếm nơi ẩn náu để trốn tránh kẻ thù. +Là lớp duy nhất của ngành động vật không xương sống có cánh nên tiện lợi cho việc mở rộng phạm vi phân bố, tìm kiếm thức ăn, giao phối và trốn tránh kẻ thù. + Có khả năng sinh sản nhanh, mạnh, hoàn thành một thế hệ tương đối ngắn. Vì vậy côn trùng có số lượng loài và cá thể nhiều, đồng thời phân bố rộng. + Côn trùng thuộc động vật máu lạnh, nhiệt độ cơ thể biến đổi theo nhiệt độ môi trường, do đó có thể sống sót trong điều kiện khí hậu bất lợi. Mặc dù số lượng côn trùng nhiều, nhưng thực ra số loài sâu hại chỉ chiếm 10% tổng số các loài côn trùng, sâu hại nghiêm trọng chiếm không quá 1%. 3. VAI TRÒ CỦA CÔN TRÙNG ĐỐI VỚI CÂY TRỒNG, CON NGƯỜI VÀ XÃ HỘI (Đọc sgk) 3.1. Tác hại của côn trùng 3.2. Lợi ích của côn trùng PHẦN I. CÔN TRÙNG ĐẠI CƯƠNG CHƯƠNG I. HÌNH THÁI HỌC CÔN TRÙNG (2 tiết) 1. KHÁI NIỆM VÀ NHIỆM VỤ - Hình thái học côn trùng là môn khoa học nghiên cứu cấu tạo bên ngoài cơ thể côn trùng. - Nhiệm vụ: + Không chỉ nghiên cứu đơn thuần cấu tạo của cơ thể côn trùng mà đồng thời phải nghiên cứu nguồn gốc, nguyên nhân hình thành các cấu tạo ấy + Nghiên cứu mối tương quan giữa các cấu tạo với nhau + Nghiên cứu mối tương quan giữa các cấu tạo ấy với hoạt động của cơ quan bên trong cơ thể côn trùng. + Nghiên cứu mối tương quan của các cấu tạo ấy với hoàn cảnh sống và đặc tính sinh vật học của từng loài. Từ những hiểu biết về đặc điểm chung, riêng của cấu tạo hình thái côn trùng là cơ sở cho công tác phân loại, nhận biết côn trùng có ích và phòng trừ côn trùng gây hại. 2. CẤU TẠO CHI TIẾT TỪNG PHẦN CƠ THỂ CÔN TRÙNG 2.1. Đầu và các phần phụ của đầu. 2.1.1. Cấu tạo của đầu côn trùng - Đầu là phần thứ nhất của cơ thể côn trùng, trên đó mang 1 đôi râu đầu, 1 đôi mắt kép, 2-3 mắt đơn và bộ phận miệng. - Đầu là trung tâm của cảm giác và lấy thức ăn. Cơ quan cảm giác có đôi râu đầu, có mắt kép và mắt đơn. Cơ quan lấy thức ăn chủ yếu là miệng. - Đầu côn trùng được phân chia thành các khu vực và các mảnh nhờ có đường ngấn lột xác hình chữ Y và các ngấn khác như ngấn trán chân môi, ngấn má, ngấn ót. Giai đoạn trưởng thàng ngấn lột xác không nhìn thấy hoặc thấy rất mờ. + Khu trán - chân môi: Là khu được tạo bởi mặt trước vỏ đầu và được chia làm 2 phần: phía trên là trán, phía dưới là chân môi. Giữa 2 bộ phận này là ngấn trán - chân môi (còn gọi là ngấn trên miệng). Trên trán có mắt đơn, thường là 3 chiếc xếp hình tam giác đảo ngược. + Khu cạnh - đỉnh đầu: Khu này được tạo thành bởi mặt bên của vỏ đầu và đỉnh đầu, giới hạn ra phía sau của khu này là ngấn ót. Mắt kép nằm trong khu này, phía dưới là phần má. + Khu gáy và gáy sau: Khu này là mặt sau của đầu, được tạo thành bởi 2 phiến cứng hình vòng cung vây quanh lỗ sọ, nơi nối tiếp giữa phần đầu và ngực. Phiến gần lỗ sọ gọi là gáy sau (ót sau), phiến ngoài tạo nên gáy côn trùng. + Khu dưới má: Đây là phần tiếp theo về phía dưới 2 má, được phân định bởi ngấn dưới má. Mép dưới khu dưới má là nơi có mấu nối với hàm trên và hàm dưới của côn trùng. + Môi trên: Là một phiến hình nắp cử động được, đính lên mép dưới của khu chân môi, mặt ngoài môi trên cứng, mặt trong mềm 2.1.2. Các kiểu đầu của côn trùng Dựa vào vị trí của miệng côn trùng ta có thể chia ra 3 kiểu đầu như sau: + Đầu miệng dưới: Là kiểu đầu phổ biến nhất với miệng nằm phía dưới đầu, trục dọc của đầu (mắt-miệng) gần như vuông góc với trục dọc cơ thể. Kiểu này thường gặp ở côn trùng miệng gặm nhai như châu chấu, dế mèn, xén tóc... (Hình 1B). + Đầu miệng trước: Miệng nhô ra phía trước, trục dọc của đầu cùng thẳng hàng hoặc song song trên mặt phẳng nằm ngang với trục dọc của mình sâu. Kiểu này thường gặp ở một số loài côn trùng như họ vòi voi (Curculionidae), mối lính (bộ Isoptera) (Hình 1 A). + Đầu miệng sau: Miệng kéo dài ra về phía mặt bụng, trục dọc của đầu với trục dọc của mình sâu tạo thành một góc nhọn, thường gặp ở ve sầu (họ Cicadidae), bọ xít (họ Pentatomidae), bọ rầy (họ Jassidae), rệp muội (họ Aphididae). (Hình 1C). 2.1.3 Các phần phụ của đầu (Râu và miệng) 2.1.3.1 Râu đầu và các dạng râu: Hầu hết các loài đều có một số đôi râu đầu mọc giữa hai mắt kép thuộc khu trán., có thể cử động được. Râu đầu côn trùng có kích thươc, hình dạng rất khác nhau tuỳ loài, song về cơ bản đều có cấu tạo giống nhau. - Cấu tạo cơ bản của râu đầu: Chân râu, cuống râu và roi râu + Chân râu: là đốt gốc của râu, mọc từ ổ chân râu, có hình dạng to, thô và ngắn hơn các đốt khác, bên trong có cơ thịt điều khiển hoạt động. + Cuống râu: là đốt thứ 2 của râu, thường ngắn nhất và cũng có cơ điều khiển + Roi râu là phần tiếp sau cuống râu, được chia làm nhiều đốt nhỏ, hình dạng thay đổi tuỳ theo loài côn trùng, không có cơ điều khiển hoạt động. - Chức năng của râu đầu: Là cơ quan xúc giác, khứu giác và 1 số chức năng khác như là cơ quan thính giác làm nhiệm vụ tìm kiếm, báo hiệu cho nhau. Ví dụ: + Chức năng thính giác như muỗi đực + Chức năng khứu giác như râu đầu của ngài sâu róm chè, bọ hung, ruồi... + Một số chức năng khác: Niềng niễng dùng râu để bắt mồi, ban miêu dùng râu quặp con cái khi giao phối, râu đầu có tác dụng cân bằng khi bơi của loại bọ bơi ngửa (Notonecta) - Các dạng râu đầu: (Nói qua) Hình dạng râu đầu của côn trùng khác nhau tuỳ theo loài côn trùng, giới tính. Có thể phân chia các dạng hình râu đầu chính như sau: + Râu sợi chỉ:Ví dụ: Râu đầu của châu chấu + Râu lông cứng: Ví dụ: Râu của chuồn chuồn, ve sầu, bộ rầy xanh... + Râu chuỗi hạt: Ví dụ: Râu đầu mối thợ, họ chân dệt ... + Râu răng cưa: Râu ban miêu đực, đom đóm... + Râu đầu gối: Râu của kiến, ong... + Râu dùi đục: Râu đầu của bướm. + Râu hình lá lợp: bọ hung. + Râu lông nhỏ (Râu ruồi): Ruồi nhà. + Râu cầu lông: Râu đầu của muỗi đực + Râu răng lược kép: Râu của ngài đực sâu róm hại chè. + Râu hình chuỳ: Ví dụ: Râu đầu của ve sầu, bướm, muội nâu... 2.1.3.2 Miệng Cấu tạo của miệng: Căn cứ vào tính ăn của côn trùng chia ra 2 kiểu miệng chính: Miệng gặm nhai và miệng hút. Miệng gặm nhai là loại hình nguyên thuỷ và các loại miệng khác do miệng gặm nhai biến hoá thành. Miệng gặm nhai: là kiểu miệng ăn các thức ăn động, thực vật dạng thể rắn. Ví dụ: cào cào, chấu chấu, chuồn chuồn… - Cấu tạo miệng nhai: Gồm 5 phần: Môi trên, đôi hàm trên, đôi hàm dưới, môi dưới và lưỡi. + Môi trên: là một mảnh cứng, cử động được để đậy kín mặt trước miệng côn trùng. + Hàm trên: là đôi xương cứng nằm ngay phía dưới môi trên và được chia làm hai phần: phía trước hàm là răng cắn, phía sau hàm là răng nhai. Răng nhai thô và to, dùng để nghiền nát thức ăn. + Hàm dưới: Là đôi xương cứng nằm phía dưới hàm trên. Hàm dưới gồm 5 phần: Đốt chân hàm, đốt thân hàm, lá trong hàm, lá ngoài hàm, râu hàm dưới. Râu hàm dưới có 1-5 đốt dùng để nếm hoặc ngửi thức ăn + Môi dưới: chia làm 5 phần: cằm sau, cằm trước, lá giữa môi, lá cạnh môi và đôi râu môi dưới. + Lưỡi: là phần u lồi nằm giữa hàm trên và hàm dưới. Lưỡi không phải là phần phụ của đầu nhưng cũng tham gia cấu tạo miệng. Miệng hút: Là kiểu miệng ăn các thức ăn động, thực vật ở thể lỏng Đặc điểm chung là các chi phụ đều kéo dài thành dạng ngòi châm để lấy thức ăn ở dạng lỏng. Có nhiều kiểu miệng hút khác nhau: Kiểu miệng hút biến dạng thành miệng gặm hút ở ong, miệng chích hút ở rầy, bọ xít, miệng liếm hút ở ruồi, miệng hút ở các loài bướm, miệng giũa hút ở bọ trĩ, cứa liếm ở ruồi trâu. - Miệng gặm hút: như ở ong. Đặc điểm cơ bản của kiểu miệng này là hàm trên, môi trên còn giữ theo kiểu miệng nhai; hàm dưới, môi dưới kéo dài ra. - Miệng chích hút: Thường gặp ở côn trùng bộ cánh đều Homoptera như rầy, rệp muội; bộ cánh nửa như bọ xít hoặc bộ hai cánh như các loài muỗi. - Miệng giũa hút: Bọ trĩ - Miệng liếm hút: Ruồi nhà. - Miệng cứa liếm: Ruồi trâu Ý nghĩa của việc n.cứu miệng côn trùng trong công tác phòng trừ sâu hại Từ triệu chứng hại ta có thể loại chọn các loại thuốc như; + Với sâu miệng nhai dùng thuốc có tác dụng tiếp xúc, xông hơi, nội hấp, vị độc. + Với sâu miệng chích hút dùng thuốc nội hấp là có tác dụng nhất và có thể dùng kết hợp các loại thuốc trên. Ví dụ dùng thuốc Bi58 trừ rầy xanh hại chè. 2.2. Ngực và các phần phụ của ngực 2.2.1 Cấu tạo của ngực Ngực côn trùng là trung tâm của sự vận động. Ngực chia làm 3 đốt: Đốt ngực trước, đốt ngực giữa và đốt ngực sau, mỗi đốt mang một đôi chân. Hai bên về phía lưng của đốt ngực giữa và ngực sau còn có hai đôi cánh. Đôi cánh ở ngực giữa gọi là cánh trước, đôi cánh ở ngực sau gọi là cánh sau Mỗi đốt ngực được cấu tạo bởi 4 mảnh: 1 mảnh lưng, 2 mảnh bên và 1mảnh bụng. 2.2.2. Phần phụ của ngực (Chân và cánh) 2.2.2.1. Chân ngực Cấu tạo: Chân ngực gồm 6 đốt gồm: Đốt chậu, đốt chuyển, đốt đùi, đốt chày (đốt ống), đốt bàn chân và đốt cuối bàn (còn gọi là móng hoặc vuốt). Các đốt được nối với nhau bởi các phần bằng chất màng (Hình 2). + Đốt chậu: Thường to, thô, ngắn hơn đốt khác, có hình trụ hoặc hình chóp đảo ngược. + Đốt chuyển: Thường ngắn, hẹp (một số loài như chuồn chuồn đốt chuyển gồm 2 đốt gắn chặt vào nhau). + Đốt đùi: To và mập hơn các đốt khác. Đốt này có nhiều bắp thịt. + Đốt chày (đốt ống) : Thường dài, mảnh, hai bên có hàng gai, cuối đốt có khi có cựa cử động được. + Đốt bàn chân: gồm 2-5 đốt nhỏ, giữa các đốt nối với nhau bằng màng mỏng, mặt bụng đốt bàn chân có thể có đệm mịn. + Đốt cuối bàn thường có 2 móng (hoặc vuốt) cử động được. Hình 3: Các kiểu chân A - Chân bò ; B - Chân nhẩy ; C - Chân bắt mồi ; D - Chân đào bới ; E - Chân bơi; F - Chân kẹp leo; G - Chân bám hút ; H - Chân lấy phấn Chân ngực của côn trùng phần lớn dùng để đậu, bám hoặc đi lại nhưng do hoàn cảnh sinh sống khác nhau (trong nước, đất...) hoặc do tập quán sống khác nhau (bắt mồi, lấy phấn...) mà hình dáng, kích thước của chân ngực có những biến dạng cho phù hợp. Chân ngực sâu non nói chung cũng có cấu tạo tương tự chân ngực sâu trưởng thành, chỉ khác là đốt bàn chân thường có 1 đốt, đốt cuối bàn có 1 móng, màng nối giữa các đốt chân tương đối rõ ràng hơn. Các dạng chân ngực: (Đọc sgk) 2.2.2.2. Cánh côn trùng Cánh được hình thành do da 2 bên của mảnh lưng ngực phát triển kéo dài ra Cánh có cấu tạo bằng da dẹp, mỏng hình tam giác. Trên cánh có nhiều mạch cánh (còn gọi là gân cánh) có tác dụng làm giá chống đỡ, trong gân có mạch máu, dây thần kinh và khí quản. Gân cánh có gân dọc và gân ngang, gân dọc là gân chạy từ gốc cánh theo chiều dọc của cánh ra mép cánh. Gân ngang là gân ngắn nối liền giữa hai gân dọc. Cánh côn trùng có các nếp gấp để chia cánh ra làm 4 khu và 3 góc (hình 4) + Khu chính cánh + Khu nách + Khu mông + Khu đuôi + Góc vai + Góc đỉnh + Góc mông Hình 4: Sơ đồ cấu tạo cánh côn trùng 1. Mép trước, 2. Mép ngoài, 3. Mép sau, 4. Góc vai, 5. Góc đỉnh, 6. Góc mông, 7. Nếp gấp mông, 8. Nếp gấp đuôi, 9. Nếp gấp gốc, 10. Nếp gấp nách, 11. Khu chính cánh, 12. Khu mông, 13. Khu nách, 14. Khu đuôi Cánh côn trùng khi không hoạt động thì xếp bằng hay chếch trên lưng hoặc xếp dựng đứng. Khi bay thì cánh côn trùng dao động từ phía trên xuống dưới và từ phía trước về phía sau. Để thích nghi với phương thức sinh sống khác nhau và mức độ phát triển mà chất cánh có nhiều thay đổi, đây cũng là cơ sở để phân loại côn trùng. + Cánh cứng: cánh trước cứng như sừng, luôn che phủ bảo vệ cánh sau như cánh trước của bọ hung, bọ rùa thuộc bộ cánh cứng (Coleoptera). + Cánh màng: của chuồn chuồn, ong và phần lớn cánh sau của côn trùng bằng chất màng mỏng, trong suốt hoặc mờ gọi là cánh màng + Cánh da: Thường là cánh trước, cánh này trở lên dày hơn bằng chất sừng gần giống da. Cánh trước của châu chấu, gián. + Cánh nửa cứng: Nửa phía gốc của cặp cánh trước dày, cứng, nửa sau của cánh là phần cánh màng, mềm như cánh trước bọ xít thuộc bộ cánh nửa (Hemiptera). + Cánh vảy: Cấu tạo bằng chất màng mỏng phủ đầy vảy. Cánh của các loài ngài, bướm. 2.3. Bụng và phần phụ của bụng 2.3.1 Cấu tạo Bụng là trung tâm của qúa trình trao đổi chất và sinh dục gồm 5-12 đốt hợp lại, côn trùng cấp cao không vượt quá 10 đốt. Các đốt bụng nối với nhau bằng 1 lớp màng mỏng, đầu của đốt sau lồng vào dưới mép sau của đốt trước. Nhờ đó mà bụng côn trùng có thể kéo dài ra hoặc co ngắn lại khi côn trùng vận động. Hơn nữa, ở mỗi đốt chỉ có mảnh lưng và mảnh bụng hoá cứng, còn 2 mảnh bên là da mềm. Vì vậy bụng côn trùng có thể phồng lên hay xẹp xuống khi hô hấp. 2.3.2 Phần phụ của bụng (Lông đuôi và bộ phận sinh dục ngoài) Lông đuôi: Là phần phụ của đốt bụng thứ 11 được mọc từ mảnh trên hoặc mảnh bên hậu môn. Lông đuôi nói chung chia đốt, dài, mảnh. Có loài lông đuôi biến thành dạng gọng kìm. Lông đuôi của côn trùng là cơ quan cảm giác. Bộ phận sinh dục ngoài: Lỗ sinh dục của côn trùng giống cái phần nhiều ở đốt thứ 8 hay thứ 9 của bụng, lỗ sinh dục của giống đực phần nhiều ở giữa đốt thứ 9 và thứ 10 của bụng. Vì vậy chi phụ trên đốt thứ 8 - 9 của bụng côn trùng biến hoá thành bộ phận sinh dục ngoài. * Bộ phận sinh dục ngoài của giống đực: Gồm dương cụ và bộ phận quặp âm cụ con cái (ở 1 số loài côn trùng). + Dương cụ: Có cấu tạo hình ống trong có ống phóng tinh. Dương cụ là bộ phận để đưa tinh trùng vào con cái. + Bộ phận quặp âm cụ: có tác dụng giữ chặt bộ phận sinh dục của con cái khi giao phối. * Bộ phận sinh dục ngoài của giống cái: Là bộ phận đẻ trứng. Đa số côn trùng có 3 đôi phiến đẻ trứng gồm: + 1 đôi phiến đẻ trứng dưới (van đẻ trứng 1) do chi phụ đốt bụng thứ 8 hình thành. + 1 đôi phiến đẻ trứng giữa (van đẻ trứng 2) do chi phụ đốt bụng thứ 9 hình thành. + 1 đôi phiến đẻ trứng trên (van đẻ trứng 3) do chi phụ đốt bụng thứ 9 hình thành. Bộ phận đẻ trứng thường do 2 trong 3 đôi phiến đẻ trứng cấu tạo thành (gọi là ống đẻ trứng). Côn trùng khác nhau có số đôi val đẻ trứng khác nhau. Ví dụ: Chấu chấu có phiến đẻ trứng dưới và trên. Ve sầu, phiến đẻ trứng dưới và đôi phiến đẻ trứng giữa. Đối với các loài ong như ong mật, ong vàng thì nọc độc cuối bụng cũng chính là phiến đẻ trứng dưới và giữa biến hoá thành. Tuy nhiên, cũng không phải tất cả các loài côn trùng đều có ống đẻ trứng như bộ cánh cứng, bộ cánh vảy, bộ hai cánh...như bướm, ruồi. Phần phụ của bụng ở giai đoạn sâu non. Điển hình là chân bụng của sâu non bộ cánh vảy và họ ong lá (Tenthredinidae) thuộc bộ cánh màng. Đại bộ phận trên các đốt bụng 3 đến 6 của sâu non bộ cánh vảy đều có 1 đôi chân bụng, trên đốt bụng thứ 10 có 1 đôi chân mông. Chân bụng của sâu non bộ cánh vảy có các đốt: đốt chậu, đốt chậu phụ, đốt bàn và đốt cuối bàn. Trên đốt cuối bàn có những dãy móc câu gọi là móc móng. 2.4. Da và vật phụ của da 2.4.1 Cấu tạo da Lớp men Biểu bì trên Lớp sáp Biểu bì Biểu bì ngoài Lớp Poliphenol Da côn trùng: TB nội bì Biểu bì trong Màng đáy Sơ đồ cấu trúc da côn trùng 2.4.1.1. Lớp biểu bì : Là lớp ngoài cùng của cơ thể côn trùng, không có cấu tạo tế bào, được hình thành bởi các chất tiết ra của tế bào nội bì. - Biểu bì da côn trùng lại được chia làm 3 lớp nhỏ: * Biểu bì trên: Là lớp ngoài cùng, mỏng nhất, chỉ chiếm 1-7 % độ dày da. Gồm 3 lớp là lớp men, lớp sáp và lớp Poliphenol. Thành phần hoá học của biểu bì trên chủ yếu là Lipoprotein nên lớp này có chức năng là ngăn ngừa nước và chất hoà tan từ ngoài thấm vào cơ thể, đồng thời hạn chế sự thoát hơi nước của cơ thể ra ngoài. * Biểu bì ngoài: Là lớp cứng nhất của da côn trùng do lớp này có chứa kitin kết hợp với loại protein hoá cứng (sclerotin) theo cấu trúc mạng lưới * Biểu bì trong: Là lớp dày nhất của biểu bì song không cứng như biểu bì ngoài, mà có tính dẻo và đàn hồi. 2.4.1.2. Lớp TB nội bì Là 1 lớp tế bào đơn thường có dạng hình trụ, giữa các tế bào có xen kẽ những tế bào hình thành lông và tế bào hình thành các tuyến. Nhiệm vụ của lớp nội bì: - Tiết ra vật chất để hình thành lớp biểu bì - Tiết ra dịch lột xác để phân huỷ lớp biểu bì trong trước khi côn trùng lột xác, đồng thời hấp thụ lại 1 số chất đã phân giải để tái tạo lớp biểu bì mới. - Sản sinh ra vật chất hàn gắn các vết thương trên da côn trùng - Một số tế bào phân hoá tạo thành các cơ quan cảm giác và các tuyến. 2.4.1.3 Lớp màng đáy Là lớp màng mỏng nằm sát ngay dưới đáy lớp tế bào nội bì và có cấu trúc không định hình. Vi khí quản và đầu mút các dây thần kinh cảm giác phân bố rất nhiều ở đây. 2.4.2. Vật phụ của da và các tuyến (Đọc sách) 2.4.3. Màu sắc da côn trùng - Màu sắc hoá học: Là do các sắc tố quyết định. Da côn trùng có các sắc tố có thể hấp phụ một loại ánh sáng nào đó nó phản xạ lại tạo thành màu sắc hoá học. - Màu sắc vật lý: Do trên da côn trùng có điểm, vết, vân lồi, lõm khi ánh sáng chiếu vào sẽ bị khúc xạ, phản xạ lại tạo ra màu sắc khác nhau. - Màu hỗn hợp. * Ý nghĩa của việc nghiên cứu da côn trùng trong công tác phòng trừ sâu hại (Đọc giáo trình) Da côn trùng có tác dụng bảo vệ rất lớn, nó có tác dụng chống đỡ rất tốt với thuốc hoá học. + Côn trùng có da mềm tiếp xúc với thuốc dễ chết hơn da cứng. Khi dùng thuốc cần hoà tan chất béo trong thuốc tiếp xúc để tăng thêm tính thẩm thấu của da, hoặc tăng thêm bột trơ để cọ xát biểu bì làm thuốc dễ xâm nhập vào cơ thể côn trùng. + Cùng một loài côn trùng, tuổi nhỏ da côn trùng dễ thẩm thấu hơn tuổi lớn nên dễ chết hơn. Do vậy khi phun thuốc trừ sâu khi côn trùng ở tuổi nhỏ sẽ hiệu quả hơn. Khi côn trùng lột xác tính thẩm thấu ở da lớn, nên dùng thuốc phòng trừ lúc này là hiệu quả nhất đặc biệt là thuốc tiếp xúc. * Ý nghĩa của mầu sắc da côn trùng đối với đời sống côn trùng. (Đọc giáo trình) CÂU HỎI ÔN TẬP: 1. Khái niệm về côn trùng học, côn trùng ? 2. Vai trò của côn trùng đối với đời sống cây trồng, con người và xã hội ? 3. Những đặc điểm nổi bật nhất của lớp côn trùng ? 4. Cấu tạo đầu và các chi phụ của đầu côn trùng ? Ý nghĩa của việc nghiên cứu miệng trong công tác phòng trừ sâu hại ? 5. Cấu tạo ngực và các chi phụ của ngực ? 6. Cấu tạo bụng và các chi phụ của bụng ? 7. Đặc điểm cấu tạo da và chức năng sinh học của da côn trùng ? Ý nghĩa của việc nghiên cứu da trong công tác phòng trừ sâu hại ? 8. Màu sắc da côn trùng ? Ý nghĩa màu sắc da đối với đời sống côn trùng ? CHƯƠNG II. SINH LÝ GIẢI PHẪU CÔN TRÙNG (2 tiết) Sinh lý giải phẫu là môn khoa học nghiên cứu về cấu tạo và hoạt động của các bộ máy bên trong của cơ thể côn trùng. 1. THỂ XOANG VÀ VỊ TRÍ CÁC BỘ MÁY BÊN TRONG (giới thiệu qua) - Thể xoang là khoảng cách do vỏ cơ thể tạo thành và chứa các bộ máy bên trong. Trong xoang có 2 vách mỏng (màng ngăn) dọc cơ thể tạo thành ba phần xoang nhỏ là: Xoang máu lưng, xoang máu bụng và xoang máu quanh ruột (hình 5). Hình 5. Cấu tạo thể xoang (mặt cắt ngang phần bụng) 1. Đường tiêu hóa; 2. Xoang máu lưng; 3. Màng ngăn lưng; 4. Xoang ruột; 5. Màng ngăn bụng ; 6. Xoang máu bụng; 7. Chuỗi thần kinh; 8. Thể mỡ; 9. Tế bào quanh tim; 10. Tuần hoàn (Vẽ theo Snodgrass) - Trong xoang chứa đầy máu và c
Tài liệu liên quan