Câu hỏi đề cương tư tưởng Hồ Chí Minh

Khái niệm tư tưởng HCM: Tư tưởng HCM là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những v/đề cơ bản của CM VN, từ CM dtộc dân chủ nhân dân đến CM XHCN; là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển CN Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nc ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải fóng dtộc, g/fóng g/c và g/fóng con ng. Tư tưởng HCM là sản fẩm của sự kết hợp chủ nghĩa yêu nc truyền thống văn hóa , nhân nghĩa và thực tiễn CMVN với tinh hoa văn hóa nhân loại, đc nâng lên tầm cao mới dưới ánh sáng của CN Mác – Lênin . Tư tưởng HCM đã trở thành ngọn cờ thắng lợi của CM VN trong suốt hơn 70 năm qua và tiếp tục soi sáng con đường chúng ta tiến lên xd một nc VN hòa bình, thống nhất, đlập, dân chủ và XHCN, dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN. Ý nghĩa của việc học tập, nghiên cứu tư tưởng HCM: Tư tưởng HCM là chủ nghĩa Mác – Lênin ở VN: Tư tưởng HCM đc hình thành trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận của CNML. HCM đã vận dụng sáng tạo và phát triển CNML vào điều kiện cụ thể của nc ta, fù hợp với LS, VH VN, xuất fát từ đ/nc và con ng VN. Có nắm đc tư tưởng HCM mới hiểu đc đường lối của CMVN Tư tưởng HCM đã và đang soi đường cho cuộc đ/tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, trở thành giá trị bền vững của dtộc VN và lan tỏa ra TG. Khi các thế lực thì địch đang ra sức tấn công nền tảng tư tưởng của Đảng nhằm đầy chúng ta đi chệch hướng thì đ/tranh bảo vệ, fát triển và vận dụng sáng tạo CNML, tư tưởng HCM là vấn đề quan trọng, nhiệm vụ hàng đầu trong công tác c/trị tư tưởng và lý luận của toàn Đảng, toàn dân ta. Học tập và nghiên cứu tư tưởng HCM là để kiên định mục tiêu, nâng cao nhận thức- tư tưởng, cải tiến phương pháp và phong cách công tác của chúng ta, góp phần để công cuộc đổi mới đi tới thắng lại ngày càng to lớn hơn nữa. Cốt lõi tư tưởng HCM là đlập dtộc gắn liền với CNXH: Đổi mới, mở cửa, hội nhập, hợp tác liên quốc gia, liên khu vực là một xu thế tất yếu, trong đó các đối tác vừa hợp tác vừa cạnh tranh nhau một cách gay gắt. Các thế lực fản động, thù địch ko từ bỏ âm mưu “diễn biến hòa bình ” nhằm xóa bỏ CNXH đối với nc ta thông qua ktế thị trường và trao đổi, giao lưu văn hóa. Trong điều kiện đó, để mởi cửa, hợp tác, liên doanh, phát triển ktế mà vẫn giữ vững đlập, chủ quyền dtộc, ko đi chệch mục tiêu,b/c CNXH, chúng ta fải tạo ra đc những năng lực nhất định làm nền tảng bền vững cho sự phát triển của đ/nc. Một trong những năng lực nhất định đó về mặt định hướng giá trị là tư tưởng HCM. Vì vậy học tập, nghiên cứu tư tưởng HCM trc hết là nhằm quán triệt quan điểm cơ bản này. Tư tưởng HCM là mẫu mực của tinh thần đlập , tự chủ, đổi mới và sáng tạo: Khi chúng ta đứng vững trên tinh thần đlập, tự chủ và sáng tạo, biết học tập có chọn lọc và cải biến kinh nghiệm của các nc, chúng ta sẽ thành công. Nếu ngc lại chúng ta ko tránh khỏi những sai lầm thất bại Ngày nay, TG đang diễn biến theo xu hướng khu vực hóa, toàn cầu hóa.quan niệm về CNXH và con đg đi lên CNXH cũng có nhiều điểm khác. Vì vậy chúng ta cần fải học tập tinh thần CM và khoa học, tinh thần biện chứng của CNML để giải quyết tốt những vấn đề đặt ra trong thực tiễn đổi mới hiện nay, fải luôn gắn lý luận với thực tiễn, từ tổng kết thực tiễn mà bổ xung, làm fong fú thêm lý luận Tóm lại, học tập và nghiên cứu tư tưởng HCM là để thấm nhuần sâu sắc hệ thống quan điểm và phương pháp CM HCM, nâng cao thêm lòng yêu nc, tinh thần fục vụ nhân dân, đạo đức CM của mỗi ng, để làm cho CNML, tư tưởng HCM thực sự trở thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của chúng ta.

doc12 trang | Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2614 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Câu hỏi đề cương tư tưởng Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Câu 1&2: Phân tích khái niệm và ý nghĩa của việc học tập, nghiên cứu tư tưởng HCM. Khái niệm tư tưởng HCM: Tư tưởng HCM là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những v/đề cơ bản của CM VN, từ CM dtộc dân chủ nhân dân đến CM XHCN; là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển CN Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nc ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải fóng dtộc, g/fóng g/c và g/fóng con ng. Tư tưởng HCM là sản fẩm của sự kết hợp chủ nghĩa yêu nc truyền thống văn hóa , nhân nghĩa và thực tiễn CMVN với tinh hoa văn hóa nhân loại, đc nâng lên tầm cao mới dưới ánh sáng của CN Mác – Lênin . Tư tưởng HCM đã trở thành ngọn cờ thắng lợi của CM VN trong suốt hơn 70 năm qua và tiếp tục soi sáng con đường chúng ta tiến lên xd một nc VN hòa bình, thống nhất, đlập, dân chủ và XHCN, dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN. Ý nghĩa của việc học tập, nghiên cứu tư tưởng HCM: Tư tưởng HCM là chủ nghĩa Mác – Lênin ở VN: Tư tưởng HCM đc hình thành trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận của CNML. HCM đã vận dụng sáng tạo và phát triển CNML vào điều kiện cụ thể của nc ta, fù hợp với LS, VH VN, xuất fát từ đ/nc và con ng VN. Có nắm đc tư tưởng HCM mới hiểu đc đường lối của CMVN Tư tưởng HCM đã và đang soi đường cho cuộc đ/tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, trở thành giá trị bền vững của dtộc VN và lan tỏa ra TG. Khi các thế lực thì địch đang ra sức tấn công nền tảng tư tưởng của Đảng nhằm đầy chúng ta đi chệch hướng thì đ/tranh bảo vệ, fát triển và vận dụng sáng tạo CNML, tư tưởng HCM là vấn đề quan trọng, nhiệm vụ hàng đầu trong công tác c/trị tư tưởng và lý luận của toàn Đảng, toàn dân ta. Học tập và nghiên cứu tư tưởng HCM là để kiên định mục tiêu, nâng cao nhận thức- tư tưởng, cải tiến phương pháp và phong cách công tác của chúng ta, góp phần để công cuộc đổi mới đi tới thắng lại ngày càng to lớn hơn nữa. Cốt lõi tư tưởng HCM là đlập dtộc gắn liền với CNXH: Đổi mới, mở cửa, hội nhập, hợp tác liên quốc gia, liên khu vực là một xu thế tất yếu, trong đó các đối tác vừa hợp tác vừa cạnh tranh nhau một cách gay gắt. Các thế lực fản động, thù địch ko từ bỏ âm mưu “diễn biến hòa bình ” nhằm xóa bỏ CNXH đối với nc ta thông qua ktế thị trường và trao đổi, giao lưu văn hóa. Trong điều kiện đó, để mởi cửa, hợp tác, liên doanh, phát triển ktế mà vẫn giữ vững đlập, chủ quyền dtộc, ko đi chệch mục tiêu,b/c CNXH, chúng ta fải tạo ra đc những năng lực nhất định làm nền tảng bền vững cho sự phát triển của đ/nc. Một trong những năng lực nhất định đó về mặt định hướng giá trị là tư tưởng HCM. Vì vậy học tập, nghiên cứu tư tưởng HCM trc hết là nhằm quán triệt quan điểm cơ bản này. Tư tưởng HCM là mẫu mực của tinh thần đlập , tự chủ, đổi mới và sáng tạo: Khi chúng ta đứng vững trên tinh thần đlập, tự chủ và sáng tạo, biết học tập có chọn lọc và cải biến kinh nghiệm của các nc, chúng ta sẽ thành công. Nếu ngc lại chúng ta ko tránh khỏi những sai lầm thất bại Ngày nay, TG đang diễn biến theo xu hướng khu vực hóa, toàn cầu hóa..quan niệm về CNXH và con đg đi lên CNXH cũng có nhiều điểm khác. Vì vậy chúng ta cần fải học tập tinh thần CM và khoa học, tinh thần biện chứng của CNML để giải quyết tốt những vấn đề đặt ra trong thực tiễn đổi mới hiện nay, fải luôn gắn lý luận với thực tiễn, từ tổng kết thực tiễn mà bổ xung, làm fong fú thêm lý luận… Tóm lại, học tập và nghiên cứu tư tưởng HCM là để thấm nhuần sâu sắc hệ thống quan điểm và phương pháp CM HCM, nâng cao thêm lòng yêu nc, tinh thần fục vụ nhân dân, đạo đức CM của mỗi ng, để làm cho CNML, tư tưởng HCM thực sự trở thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của chúng ta. Câu 3&4: Trình bày điều kiện lịch sử - xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX tác động đến quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh: Xã hội VN - Xã hội VN thế kỷ XIX cho đến khi trước khi Pháp xâm lược vẫn là một xã hội phong kiến, nông nghiệp lạc hậu, trì trệ. Sau khi lật đổ nhà Tây Sơn triều đình nhà Nguyễn đã thi hành một chính sách đối nội, đối ngoại bảo thủ, phản động. Điều đó đã làm cho nước ta vốn đã lạc hậu càng lạc hậu hơn. - Năm 1858, Pháp chính thức xâm lược VN, triều đình nhà Nguyễn thối nát bạc nhược dưới sức ép của nhân dân đã kháng cự một cách yếu ớt dần dần từng bước thỏa hiệp, nhượng bộ và cuối cùng là cam chịu đầu hàng, đẩy nhân dân ta vào cảnh cực kỳ khó khăn, một cổ hai tròng (phong kiến và thực dân). - Trước tình cảnh đó, có hàng loạt các cuộc khởi nghĩa nổ ra ở khắp mọi nơi theo nhiều xu hướng khác nhau nhưng cuối cùng đều bị thất bại (Hoàng Hoa Thám, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu,…). Con đường cách mạng Việt Nam lâm vào cảnh bế tắc về đường lối, chưa có lối thoát. - Chính lúc đó Nguyễn Ái Quốc đã xuất hiện. Vượt lên trên những hạn chế của các nhà yêu nước đương thời, Người đã đến được với CN Mác-Lênin và con đường cứu nước đúng đắn Quê hương và gia đình. - Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà Nho yêu nước, gần gũi với nhân dân, chủ trương lấy dân làm hậu thuẫn cho mọi cải cách về chính trị, xã hội của mình. Hồ Chí Minh đã tiếp thu một cách sâu sắc tư tưởng thương dân của người cha. Sau này gặp trào lưu tư tưởng mới của thời đại đã được nâng lên thành tư tưởng cốt lõi trong đường lối chính trị của Người “lấy dân làm gốc”. - Nghệ Tĩnh, nơi Người sinh ra cũng là mảnh đất giàu truyền thống yêu nước, chống giặc ngoại xâm và cũng là quê hương của nhiều anh hùng nổi tiếng trong lịch sử chống giặc ngoại xâm. Hơn nữa ngay từ nhỏ Người đã đau xót chứng kiến cuộc sống nghèo khổ, bị bóc lột đến cùng cực của đồng bào mình ngay trên mảnh đất quê hương. Tất cả những điều đó đã thôi thúc Người phải sớm ra đi tìm một con đường mới để cứu dân, cứu nước. Thời đại. CN Tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn Tư bản độc quyền (tức là chủ nghĩa Đế quốc) đã xác lập được địa vị thống trị của mình trên phạm vi thế giới. Vì vậy cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc sang thế kỷ XX không còn là hành động riêng rẽ của nước này chống lại sự xâm lược và thống trị của nước khác như trước kia nữa mà đã trở thành cuộc đấu tranh chung của các dân tộc thuộc địa chống chủ nghĩa Đế quốc, chủ nghĩa Thực dân gắn liền với phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản. Trong điều kiện lịch sử mới, mỗi thuộc địa là một mắt khâu của hệ thống đế quốc, do đó cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của mỗi nước nếu chỉ tiến hành riêng rẽ thì không thể nào giành thắng lợi. Khi còn ở trong nước, Nguyễn Ái Quốc tuy chưa nhận thức được đặc điểm của thời đại, nhưng từ thực tế lịch sử, Người đã thấy rõ con đường của các bậc cha anh là cũ và không đem lại kết quả. Người quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước. - Cuối 1917, Nguyễn Ái Quốc từ Anh trở về Pháp, đến sống và hoạt động ở Pari. Đây là một sự kiện rất quan trọng trong cuộc đời Người. Tham gia phong trào lao động Pháp, sát cánh với những người yêu nước Việt Nam và những Người cách mạng từ các nước thuộc địa của Pháp, Người đã gia nhập Đảng Xã hội Pháp, một chính đảng duy nhất của nước bênh vực các dân tộc thuộc địa - 1917 cách mạng tháng 10 Nga thành công đã mở ra cho nhân loại một con đường mới để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc nhằm giải phóng triệt để loài người khỏi mọi ách áp bức bất công. Nguyễn Ái Quốc đã nhanh chóng đưa con đường cách mạng Việt Nam đi theo con đường cách mạng vô sản mà cách mạng tháng 10 Nga đã vạch ra. Chính vì vậy mà Người đã khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.” - Điều đó được khẳng định rõ hơn khi Người đọc bản luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa năm 1920. Chính luận cương Lênin đã giúp Người tìm ra con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. - Năm 1920, tại Đại hội Tua người đã tham gia sáng lập Đảng cộng sản Pháp. Sự kiện này đã đánh dấu bước chuyển biến trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lê nin, từ người yêu nước trở thành người cộng sản. Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước, Người thấy tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng của cách mạng vô sản phù hợp với con đường để có thể cứu dân tộc mình. Chính vì vậy Người đã tham gia cách mạng, đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đánh dấu sự chuyển biến từ người yêu nước thành người cộng sản. Và Người từ người đi tìm đường cứu nước đã thành người dẫn đường cho cả dân tộc đi theo. Câu 5:Trình bày những fẩm chất cá nhân ảnh hưởng đến quá trình hình thành và fát triển tư tưởng HCM: - Thứ nhất, đó là tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo cộng với đầu óc phê phán tinh tường, sáng suốt trong việc nghiên cứu các cuộc cách mạng tư sản hiện đại không bị đánh lừa bởi hào nhoáng bên ngoài. Người thấy rằng cách mạng tư sản về cơ bản vẫn chưa thể giải phóng loài người, vẫn còn người bóc lột người. - Thứ hai, đó là sự khổ công học tập chiếm lĩnh vốn tri thức vốn có của thời đại, vốn kinh nghiệm đấu tranh của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào công nhân quốc tế để có thể tiếp cận với chủ nghĩa Mác-Lênin, khoa học về cách mạng của giai cấp vô sản quốc tế. - Thứ ba, đó là tâm hồn của một nhà yêu nước, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành cách mạng, một trái tim yêu nước thương dân, thương yêu những người cùng khổ, sẵn sàng chịu đựng những hy sinh cao nhất vì độc lập của Tổ quốc, vì tự do và hạnh phúc của đồng bào. - Thứ tư, Hồ Chí Minh là người có khả năng xử lý và chuyển hóa những tri thức của dân tộc, nhân loại thành tri thức của bản thân mình. Nhân cách, phẩm chất, tài năng của HCM đã tác độg rất lớn đến sự hình thành và phát triển tư tưởng của Người. Đó là 1 con ng sốg có hoài bão, có lý tưởng yêu nước, thương dân, có bản lĩnh kiên định, có lòg tin vào nhân dân, khiêm tốn, bình dị, ham học hỏi, nhạy bén cái mới, thôg minh, có hiểu biết rộg, có phương pháp biện chứg, có đầu óc thực tiễn… Chính nhờ vậy, Người đã khám fá ság tạo về lý luận cách mạg thuộc địa trog thời đại mới, xây dựg đc 1 hệ thốg quan điểm toàn diện, sâu sắc và ság tạo về cách mạg VN, đã vượt qua mọi thử thách, sóg gió trog hoạt độg thực tiễn, kiên trì chân lý, định ra các quyết sách đúg đắn và ság tạo, biến tư tưởng thành hiện thực cách mạng. Câu 6: Tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành và phát triển qua mấy giai đoạn? Hoạt động và nội dung tư tưởng chủ yếu trong mỗi giai đoạn đó. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm của người nhằm đi tới giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Tư tưởng đó không thể hình thành ngay một lúc mà trải qua một quá trình hình thành và phát triển lâu dài. Quá trình đó được gắn liền với sự phát triển, lớn mạnh của Đảng và cách mạng Việt Nam Từ 1890 – 1911: Giai đoạn hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cách mạng + Tiếp nhận truyền thống yêu nước và nhân nghĩa của dân tộc + Hấp thụ văn hóa Quốc học, Hán học, phương Tây + Chứng kiến cuộc sống cực khổ của nhân dân và tinh thần đấu tranh bất khuất của cha anh, hình thành hoài bão cứu dân cứu nước → tìm được hướng đi đúng để sớm tới thành công Từ 1911 – 1920: Giai đoạn tìm tòi, khảo nghiệm + Bôn ba khắp châu lục tìm hiểu cuộc sống nhân dân các dân tộc bị áp bức và tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn trên thế giới + Năm 1920, tiếp xúc Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. Người đã tán thành đứng về Quốc tế III, tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp →Đánh dấu bước chuyển biến về chất trong tư tưởng Nguyễn Ái Quốc, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Lênin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ người yêu nước thành người cộng sản Từ 1921 – 1930: Giai đoạn hình thành cơ bản tư tưởng về con đường cách mạng Việt Nam Là thời kỳ hoạt động thực tiễn và lý luận sôi nổi phong phú để tiến tới thành lập chính đảng cách mạng ở Việt Nam + Người hoạt động trong Ban nghiên cứu thuộc địa của Đảng cộng sản Pháp, tham gia sáng lập Hội liên hiệp thuộc đại, xuất bản báo tuyên truyền chủ nghĩa Mac – Lênin vào nước thuộc địa + Giữa1923: Người được bầu vào đoàn chủ tịch Hội Quốc tế Nông dân ở Mátxcơva, tham dự Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V và Đại hội các đoàn thể quần chúng khác + Cuối 1924: Nguyễn Ái Quốc tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên tại Quảng Châu TQ, mở lớp huẩn luyện đào tạo cán bộ chính trị + Tháng 2- 1930: Người sáng lập ra Đảng Cộng sản Việt Nam và trực tiếp thảo các văn kiện. Các văn kiện này cùng 2 tác phẩm Người hoàn thành và Đường Kách mệnh đã đánh dấu sự hình thành cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng của Việt Nam Từ 1930 – 1941: Giai đoạn vượt qua thử thách, kiên trì con đường đã xác định cho cách mạng Việt Nam + Do không nắm được tình hình thực tế, lại bị chi phối bởi quan điểm “tả ” khuynh đang ngự tri bấy giờ, Quốc tế Cộng sản đã chỉ trích đường lối của Nguyễn Ái Quốc và đã quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương đồng thời ra nghị quyết thủ tiêu Chánh cương và Sách lược vắn tắt + Tuy nhiên, khi nguy cơ của chủ nghĩa phát xít và chiến tranh thế giới mới đến gần, Đại hội VII Quốc tế Cộng sản đã có sự chuyển hướng về sách lược, thành lập Mặt trận dân chủ chống phát xít đồng thời tự phê phán các biểu hiện biệt phái, cô độc trước đây + Tháng 11 – 1939 Nghị quyết Trung ương khẳng định tất cả mọi vấn đề phải nhằm vào mục đích giải phóng dân tộc, lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao mà giải quyết → Phản ánh quy luật của cách mạng Việt Nam, giá trị và sức sống của tư tưởng Hồ Chí Minh Từ 1941 – 1969: Giai đoạn phát triển và thắng lợicủa tư tưởng Hồ Chí Minh + Đầu 1941: Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp chỉ đạo Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương khóa I, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc cao hơn hết, lập ra Mặt trận Việt Minh, đưa tới thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, cũng là thắng lợi đầu tiên của Tư tưởng Hồ Chí Minh + Sau khi giành chính quyền, ta phải tiến hành 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội miền Bắc, vừa đấu tranh giải phóng miền Nam. Đây là thời kỳ tư tưởng Hồ Chí Minh được bổ sung, phát triển và hoàn thiện : về đường lối chiến tranh nhân dân là dựa vào sức mình là chính; về xây dựng chủ nghĩa xã hội là quá độ lên chủ nghĩa xã hội không trải qua chế độ tư bản chủ nghĩa; về xây dựng Đảng với tư cách là một Đảng cầm quyền, về xây dựng Nhà nước kiểu mới của dân, do dân, vì dân… + Trước khi qua đời, Hồ Chí Minh đã để lại Di chúc thiêng liêng tổng kết sâu sắc những bài học đấu tranh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam, đồng thời vạch ra những định hướng cho sự phát triển của đất nước và dân tộc sau khi kháng chiến thắng lợi + Thấm thía cái giá phải trả cho những sai lầm, Đảng và nhân dân ta càng nhân thức sâu sắc hơn với di sản tinh thần vô giá Người đã để lại. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã thực sự là nguồn trí tuệ, nguồn động lực soi sáng và thúc đẩy công cuộc đổi mới chúng ta. Câu7: Cơ sở hình thành TTHCM về dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc I. Tư tưởng hồ chí minh về vấn đề dân tộc Dân tộc là một vấn đề rộng lớn. C.Mác, Ph.Ăngghen không đi sâu giải quyết vấn đề dân tộc, vì thời đó ở Tây Âu vấn đề dân tộc đã được giải quyết trong cách mạng tư sản; hơn nữa, các ông chưa có điều kiện nghiên cứu sâu về vấn đề dân tộc thuộc địa. Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, cách mạng giải phóng dân tộc trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, V.I. Lênin có cơ sở thực tiễn để phát triển vấn đề dân tộc thuộc địa thành một hệ thống lý luận. Tuy cả C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin đã nêu lên những quan điểm cơ bản về mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, tạo cơ sở lý luận và phương pháp luận cho việc xác định chiến lược, sách lược của các Đảng Cộng sản về vấn đề dân tộc và thuộc địa, nhưng từ thực tiễn cách mạng vô sản ở châu Âu, các ông vẫn tập trung nhiều hơn vào vấn đề giai cấp. Điều kiện những năm đầu thế kỷ XX trở đi đặt ra yêu cầu cần vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận Mác - Lênin cho phù hợp với thực tiễn ở các nước thuộc địa; chính Hồ Chí Minh là người đã đáp ứng yêu cầu đó. 1. Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc Độc lập, tự do là khát vọng lớn nhất của các dân tộc thuộc địa. Hồ Chí Minh nói: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn; đấy là tất cả những điều tôi hiểu.” Chí Minh đã tìm hiểu và tiếp nhận những nhân tố về quyền con người trong Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1791 của cách mạng Pháp. Từ đó, Người đã khái quát và nâng lên thành quyền của các dân tộc: "Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do" Năm 1919, vận dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết thiêng liêng đã được các nước Đồng minh thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất thừa nhận, thay mặt những người Việt Nam yêu nước, Người gửi tới Hội nghị Vécxây (Pháp) bản Yêu sách gồm tám điểm, đòi các quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam. Bản Yêu sách chưa đề cập vấn đề độc lập hay tự trị, mà tập trung vào hai nội dung cơ bản: Một là, đòi quyền bình đẳng về chế độ pháp lý cho người bản xứ Đông Dương như đối với người châu Âu. Cụ thể là, phải xóa bỏ các tòa án đặc biệt dùng làm công cụ khủng bố, đàn áp bộ phận trung thực nhất trong nhân dân (tức những người yêu nước); phải xóa bỏ chế độ cai trị bằng sắc lệnh và thay thế bằng chế độ ra các đạo luật. Hai là, đòi các quyền tự do dân chủ tối thiểu cho nhân dân, đó là các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do lập hội, tự do hội họp, tự do cư trú... Bản Yêu sách đó không được bọn đế quốc chấp nhận. Nguyễn ái Quốc kết luận: Muốn giải phóng dân tộc, không thể bị động trông chờ vào sự giúp đỡ bên ngoài, mà trước hết phải dựa vào sức mạnh của chính dân tộc mình. Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Hồ Chí Minh xác định mục tiêu: "Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến", "Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập" Tháng 5-1941, Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng nêu cao vấn đề giải phóng dân tộc. Tháng 6-1941, Người viết thư Kính cáo đồng bào, chỉ rõ: "Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy". Người chỉ đạo thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh), ra báo Việt Nam độc lập, ban bố Mười chính sách của Việt Minh, trong đó mục tiêu đầu tiên là: "Cờ treo độc lập, nền xây bình quyền". Cách mạng Tháng Tám thành công, Người thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn độc lập, long trọng khẳng định trước toàn thế giới: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy" Trong các thư và điện văn gửi tới Liên hợp quốc và Chính phủ các nước vào thời gian sau Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố: "... Nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hòa bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước". Kháng chiến toàn quốc bùng nổ thể hiện quyết tâm bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc, Người ra lời kêu gọi vang dội núi sông: "Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ". Khi đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh leo thang ra miền Bắc, Hồ Chí Minh nêu một chân lý có giá trị cho mọi thời đại: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do". Không có gì quý hơn độc lập, tự do là mục tiêu chiến đấu, là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng của dân tộc Việt Nam, đồng thời cũng là nguồn động viên lớn đối với các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Vì vậy, Người không chỉ được tôn vinh là "Anh hùng giải phóng dân tộc" của Việt Nam mà còn được thừa nhận là "Người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc thuộc địa trong thế kỷ XX". 2. Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn ở các nước đang đấu tranh giành độc lập Theo Hồ Chí Minh, do kinh tế còn lạc hậu, chưa phát triển, nên sự phân hóa giai cấp ở Đông Dươ