Chị em Thuý Kiều - Từ chữ nghĩa đến nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật

Tóm tắt. Trên cơ sở khảo sát và lí giải thêm các khía cạnh chữ nghĩa và bút pháp nghệ thuật của Nguyễn Du trong một đoạn trích cụ thể được giảng dạy ở nhà trường phổ thông, bài viết phân tích và khái quát tài năng sáng tạo của Nguyễn Du trong nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật. Qua đó cũng góp phần định hướng dạy học đoạn trích này cho đối tượng học sinh THPT.

pdf6 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 261 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chị em Thuý Kiều - Từ chữ nghĩa đến nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE Social Sci., 2012, Vol. 57, No. 6, pp. 22-27 CHỊ EM THUÝ KIỀU - TỪ CHỮ NGHĨA ĐẾN NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT Phạm Hải Linh Trường THPT Chuyên ĐHSP - Đại học Sư phạm Hà Nội E-mail: hailinhhpsp@gmail.com Tóm tắt. Trên cơ sở khảo sát và lí giải thêm các khía cạnh chữ nghĩa và bút pháp nghệ thuật của Nguyễn Du trong một đoạn trích cụ thể được giảng dạy ở nhà trường phổ thông, bài viết phân tích và khái quát tài năng sáng tạo của Nguyễn Du trong nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật. Qua đó cũng góp phần định hướng dạy học đoạn trích này cho đối tượng học sinh THPT. Từ khóa: Chị em Thúy Kiều, hình tượng nhân vật, chữ nghĩa, nghệ thuật... 1. Mở đầu Truyện Kiều là kiệt tác của văn học dân tộc, là kết tinh những giá trị nhân văn, nhân bản sâu sắc của truyền thống văn hoá Việt Nam. Truyện Kiều cũng được coi là một “cửu trùng đài” về nghệ thuật ngôn từ, được đại thi hào Nguyễn Du xây cất, sáng tạo bằng vẻ đẹp trang nhã của một thứ tiếng Việt văn hoá đặc sắc. Một trong những kết tinh nghệ thuật của Truyện Kiều là nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật. Chị em Thuý Kiều [1] là một trong những đoạn trích tiêu biểu, thể hiện được một số phương diện trong nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật độc đáo của Nguyễn Du. Trong đó, bút pháp ngôn ngữ góp phần quan trọng làm nên thành công ấy của tác phẩm nói chung và đoạn trích nói riêng. 2. Nội dung nghiên cứu Đoạn trích gồm 12 cặp câu lục bát, nằm ở phần “Gặp gỡ và đính ước” mở đầu Truyện Kiều, từ câu 15 đến câu 38 trong số trên 3000 câu thơ của tác phẩm. Sau khi giới thiệu sơ lược về gia đình Kiều, ở đoạn trích này, tác giả miêu tả bức chân dung của hai nàng “tố nga” Vân, Kiều; để tiếp tục ở các đoạn - phần sau, tác giả sẽ miêu tả về mối tình Kim - Kiều và những bi kịch trong cuộc đời nàng Kiều. . . Như vậy, đoạn trích này có ý nghĩa mở đầu và dự báo trong chỉnh thể kết cấu tác phẩm. Bố cục của đoạn trích có thể phân chia làm 4 phần rõ ràng: 4 câu đầu, miêu tả khái quát về tài sắc của hai chị em Thuý Kiều, Thuý Vân; 4 câu tiếp, miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân; 12 câu tiếp, miêu tả vẻ đẹp tài sắc vẹn toàn của Thuý Kiều, là phần trọng tâm của 22 Chị em Thuý Kiều - từ chữ nghĩa đến nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật đoạn trích; 4 câu kết đoạn, miêu tả cuộc sống trẻ trung thanh cao tao nhã và phẩm hạnh đáng quý của chị em Kiều trong cảnh “Êm đềm trướng rủ màn che”. Kết cấu trên của đoạn trích được phân bố và gắn bó trong một chỉnh thể hài hoà, thống nhất; thể hiện được bút pháp và dụng ý nghệ thuật của Nguyễn Du. Mở đầu và kết thúc bằng những câu thơ khái quát về vẻ đẹp “mười phân vẹn mười” của cả hai nhân vật, tác giả đã ngầm thể hiện được tấm lòng ưu ái, trân trọng đối với người phụ nữ, đối với cuộc sống. Hai phần giữa của đoạn trích, Nguyễn Du đã trước hết miêu tả nét đẹp của Thuý Vân, như một cách “làm nền” để dồn bút lực vào thể hiện những nét đẹp thanh tao, cao quý của nàng Kiều; từ đó mà dự cảm về số phận long đong của nàng. Cách bố cục như thế là hết sức hợp lí, tinh tế. . . Với chỉ 4 câu thơ mở đầu đoạn trích, bằng cách miêu tả linh hoạt và bút pháp cổ điển nhuần nhuyễn, tác giả đã thể đạt được nhiều nhất thông tin về chị em Thuý Kiều, Thuý Vân. Hai câu đầu là bút pháp kể, liệt kê: Đầu lòng hai ả tố nga, Thuý Kiều là chị em là Thuý Vân. Tác giả đã giới thiệu về hai người con gái “đầu lòng” của viên ngoại. Nhà thơ dùng điển ngữ “tố nga” để nói về vẻ đẹp đoan trang, trẻ trung, trong sáng của hai nàng (tố: trắng, thuần khiết; tố nga: người con gái đẹp, trong trắng. . . ) [2]. Điển ngữ Hán Việt này không đơn thuần là miêu tả vẻ đẹp ngoại hình của người con gái như đã có nhiều cách giải thích. Hai nàng “tố nga”, còn là hai vẻ đẹp hoà quyện giữa hình sắc và tâm hồn. (Cũng cần nói thêm, từ “ả” trong câu thơ là một từ Việt cổ, nó không biểu thị ý nghĩa suồng xã, thông tục như trong tiếng Việt hiện đại). Hai câu sau được coi là “lệ cú” (câu thơ đẹp; lệ: đẹp/ như: mĩ lệ, diễm lệ; cú: câu). Tác giả đã sử dụng cấu trúc đảo, đưa mai và tuyết lên đầu vế để nhấn mạnh về phẩm chất, đặt trong cấu trúc tiểu đối để vừa miêu tả liệt kê, vừa diễn tả sự tăng tiến về mức độ, vừa tạo ra sự hài hoà đăng đối của hai nét phẩm cách tiêu biểu của chị em Kiều. Biện pháp so sánh theo lối ước lệ cổ điển được thể hiện ý nhị trong một câu thơ trong sáng, cô đọng. Mai và tuyết tượng trưng cho vẻ đẹp của cốt cách thanh tao, tâm hồn trong trắng tinh khiết và nét dáng tươi tắn tao nhã đủ để khái quát được vẻ đẹp “mười phân vẹn mười” của Vân - Kiều. Với bản thân thể thức đối theo lối tổng hợp ở mỗi vế, câu thơ tiếng Việt “Mỗi người một vẻ / mười phân vẹn mười” là sự kết hợp của hai thành ngữ dân gian một cách tài tình để biểu đạt một giá trị thống nhất, đẹp, trọn vẹn và bền vững. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố bác học và dân gian qua việc đan cài hình ảnh ước lệ (mai, tuyết), từ ngữ Hán Việt (cốt cách, tinh thần) và lối nói dân gian qua việc sử dụng thành ngữ (mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười) đã tạo nên một cặp câu thơ tuyệt bút. Miêu tả vẻ của Thuý Vân, trong 4 câu thơ tiếp, tác giả tiếp tục sử dụng thủ pháp ước lệ, tượng trưng và nghệ thuật tiểu đối. . . để dựng lên một chân dung hoàn chỉnh, với vẻ đẹp mặn mà, đoan trang; tròn đầy, tươi tắn: 23 Phạm Hải Linh Vân xem trang trọng khác vời Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang Hoa cười ngọc thốt đoan trang Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da. Đan cài với việc thể hiện phẩm chất, phong thái, tâm hồn cao quý. . . trong hai câu lục bằng những từ ngữ, hình ảnh cô đọng (trang trọng, đoan trang, hoa cười, ngọc thốt) và việc đặc tả vẻ đẹp hình sắc, vóc dáng, đường nét bên ngoài ở hai câu bát qua những từ ngữ, hình ảnh giàu sức biểu cảm (khuôn trăng, nét ngài, mây, tuyết. . . ) tác giả đã khắc hoạ được một chân dung sinh động, một vẻ đẹp thanh quý của Thuý Vân. Khám phá vẻ đẹp của Thuý Vân ẩn hiện trong 4 câu thơ, người đọc còn có thể nhận thấy thêm bút pháp thể hiện - xây dựng chân dung bằng ngôn ngữ của Nguyễn Du đã đạt đến độ hoàn bích. Bên cạnh việc miêu tả lời ăn nết nói hồn hậu, làn da mái tóc sáng mượt qua các cụm từ “hoa cười”, “ngọc thốt”, “mây thua”, “tuyết nhường”, ta thấy tác giả đã rất chú ý đặc tả nét dáng, khuôn mặt của Thuý Vân qua câu thơ: “Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang”. Hình ảnh, từ ngữ ở hai câu thơ này đã có rất nhiều cách lí giải. Phải chăng khám phá ý nghĩa của từ ngữ, hình ảnh ấy cũng là cách đi tìm vẻ đẹp của nhân vật, đi tìm sự tinh tế trong bút pháp ngôn từ của nhà thơ! Cụm từ “khuôn trăng đầy đặn” thường được hiểu là khuôn mặt tròn như vầng trăng tròn (!). Thực ra nếu chỉ như thế thì e rằng ý thơ hơi thô, đây không phải tác giả so sánh trực tiếp mà là ẩn dụ gián tiếp. Từ “khuôn trăng” không phải trực tiếp miêu tả vầng trăng tròn để so sánh với khuôn mặt của Thuý Vân. Dẫu thơ văn xưa đã có nói đến “mặt tròn khuôn nguyệt” (Mặt tròn khuôn nguyệt, môi nhuần vẻ đan - Nhị Độ Mai) thì cũng không vì thế mà cho rằng đây là sự so sánh trực tiếp, theo một tiêu chuẩn nào đó về cái đẹp của người xưa. Khuôn trăng đầy đặn ở đây chỉ nên hiểu một cách hình tượng là dáng vẻ, đường nét tròn trịa, đầy đặn, thanh tú, trẻ trung. . . của gương mặt Thuý Vân (khuôn: đường nét; trăng: biểu trưng vẻ đẹp ngời sáng). Cũng như thế, “nét ngài nở nang” là hình ảnh đã gây nhiều tranh cãi. Đại để, xung quanh câu “nét ngài nở nang” đã có nhiều kiến giải có liên quan: nét lông mày hơi đậm, gợi tả vẻ đẹp phúc hậu của Thuý Vân (!); lông mày đẹp như con mày ngài (!); ngài là con bướm tằm (Thành ngữ Việt Nam có: “mày ngài mắt phượng”: mày con bướm tằm và mắt con phượng đẹp); “hàm én mày ngài” (Nguyễn Du) là chỉ vẻ đẹp của đàn ông. . . Thực ra chữ “nét” trong tiếng Việt cổ có ý nghĩa là “vẻ, kiểu” (Văn chương nét đất thông minh tính trời - Truyện Kiều; Làn thu thuỷ nét xuân sơn - Truyện Kiều; Nét buồn như cúc điệu gầy như mai - Truyện Kiều; Dường chau nét nguyệt dường phai vẻ hồng - Truyện Kiều; Ngọn tâm hoả đối dầu nét liễu - Cung oán ngâm khúc). Nét ngài vì thế chỉ nên hiểu là đường nét thanh tú như râu con ngài (Việt Nam từ điển - Khai trí Tiến đức, [5]). Cái khó ở đây là cách cắt nghĩa hai chữ “nở nang”. Thông thường, người ta thường hiểu từ này theo nghĩa của tiếng Việt hiện đại là to đậm (như: thân hình nở nang) vì thế nên khó lí giải hình tượng, bèn cho rằng đó là chỉ cái đẹp phúc hậu (!). Thực ra đây là 24 Chị em Thuý Kiều - từ chữ nghĩa đến nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật một từ Việt cổ, Từ điển Việt - Pháp (1898, [6]) của Genibrẹ giải thích: nở nang là hăng hái, chu đáo; Việt Nam từ điển ghi thêm nghĩa bóng của từ nở là thư sướng, tươi tỉnh, và nở nang là đầy đặn, tươi tỉnh. Xem thế có thể thấy nét ngài nở nang chỉ cái đẹp của Thuý Vân ở đây cũng là chỉ đường nét thanh tú, duyên dáng, tươi tỉnh, sống động, có hồn. . . chứ chẳng phải để chỉ lông mày hơi to, hơi đậm nào cả! Hình thức và ý đối của 2 vế câu thơ tự nó đã xác nhận lớp nghĩa chúng ta vừa phân tích. Chữ nghĩa của Nguyễn Du và tiếng Việt quả thực vô cùng giàu có là vậy. Phần trọng tâm của đoạn trích là 12 câu tiếp theo, từ câu 9 đến câu 20, tác giả miêu tả làm nổi bật vẻ đẹp tài sắc của Thuý Kiều. Có thể nói, toàn bộ bút lực của tác giả đã hội tụ ở đây. Ở trên nhà thơ đã miêu tả Thuý Vân: “Vân xem trang trọng khác vời”, ở đây tác giả tiếp tục khẳng định “Kiều càng sắc sảo mặn mà”. Hai câu thơ cách xa nhau nhưng đã tạo một sự liên kết với mô thức “xem/ khác vời. . . càng”. Đấy là một cách biểu đạt tinh tế. Nhưng so ra thì Nguyễn Du đã từ số phận/ từ dự báo số phận của nhân vật để miêu tả. Từ sự trang trọng của Thuý Vân đến vẻ sắc sảo mặn mà của Thuý Kiều là hai giá trị. Tài sắc phần hơn theo một kiểu riêng của Thuý Kiều phải chăng là nguyên nhân sẽ dẫn đến bi kịch hồng nhan đa truân, tài mệnh tương đố của nàng. Trước hết là về sắc đẹp: Làn thu thuỷ nét xuân sơn Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh Nguyễn Du cũng dùng những hình ảnh nghệ thuật mang tính ước lệ “thu thủy” (nước mùa thu), “xuân sơn” (núi mùa xuân) “hoa”, “liễu” để gợi tả sắc đẹp của Thúy Kiều nhưng không thiên về cụ thể như khi tả Thúy Vân mà gợi một ấn tượng chung về vẻ đẹp của một giai nhân tuyệt thế. Tác giả không tả nhiều chi tiết mà đặc tả đôi mắt theo lối “điểm nhãn” - vẽ hồn của chân dung. Những ẩn dụ này gợi lên đôi mắt trong sáng long lanh linh hoạt như làn nước mùa thu, đôi lông mày thanh tú nổi bật trên gương mặt trẻ trung như núi mùa xuân. Đôi mắt là phần thể hiện tinh anh của tâm hồn, trí tuệ. Vẻ đẹp của Kiều khiến hoa phải ghen, liễu phải hờn, làm nước nghiêng thành đổ: Một hai nghiêng nước nghiêng thành Nhà thơ không tả trực tiếp vẻ đẹp mà tả sự đố kị ghen ghét với vẻ đẹp ấy hay sự ngưỡng mộ, say mê trước vẻ đẹp đó. “Nghiêng nước nghiêng thành” là Việt dịch một thành ngữ Hán Việt, cách nói sáng tạo từ điển cố để cực tả giai nhân: nghoảnh lại nhìn một cái thì thành người ta bị xiêu, ngoảnh lại nhìn cái nữa thì nước người ta bị nghiêng ngả. Cái đẹp của Kiều có chiều sâu, có sức quyến rũ lạ lùng, như tiềm ẩn những phẩm chất bên trong cao quý là tài và tình rất đặc biệt của nàng. Khi tả Thúy Vân, chủ yếu tác giả tả nhan sắc mà không nói đến tài và tình của nàng, còn khi tả Kiều, nhà thơ tả sắc một phần, còn dành đến hai phần để tả cái tài của nàng. Kiều rất mực thông minh: Thông minh vốn sẵn tính trời. Và rất đa tài: 25 Phạm Hải Linh Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm Cung thương làu bậc ngũ âm Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương. Tài năng của Thúy Kiều đạt đến mức lí tưởng theo quan điểm thẩm mĩ phong kiến: đủ cả cầm (đàn), kì (cờ), thi (thơ), họa (vẽ). Đặc biệt tài đàn là sở trường năng khiếu, là “nghề riêng”, vượt lên trên mọi người (ăn đứt). Tài năng của Kiều là biểu lộ của một trái tim nồng nhiệt, một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm, một trái tim đa sầu đa mang... Cực tả cái tài của Kiều cũng là để ca ngợi cái tâm đặc biệt của nàng. Vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp của sắc - tài - tình, tất cả đều đến mực lí tưởng. Chân dung Thúy Kiều cũng là chân dung mang tính cách, số phận. Vẻ đẹp khiến tạo hóa ghen ghét, đố kị, và tài hoa trí tuệ thiên bẩm đến “làu bậc” (ngũ âm), “đủ mùi” (ca ngâm) của nàng tựa như mầm họa khiến cho Kiều sẽ khó tránh khỏi định mệnh nghiệt ngã, số phận éo le, đau khổ. Như chính Nguyễn Du đã dự báo từ đầu tác phẩm: “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”; “Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”. Đặc biệt, cung đàn bạc mệnh tri âm nhưng đầy sầu não đau khổ cũng toan lượng cho một cuộc đời hồng nhan đa truân, tài hoa bạc mệnh khó tránh khỏi của Kiều. Khép lại hai bức chân dung tuyệt mĩ, Nguyễn Du lại dùng những ngôn từ đẹp đẽ để nói chung về cuộc sống của hai nàng: Phong lưu rất mực hồng quần Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê Êm đềm trướng rủ màn che Tường đông ong bướm đi về mặc ai. Thúy Kiều và Thúy Vân đều có cuộc sống phong lưu, khuôn phép, đức hạnh. Cả hai đều đến tuổi búi tóc cài trâm nhưng vẫn “tường đông ong bướm đi về mặc ai”. Hai câu kết trong sáng, đằm thắm như chở che, bao bọc cho hai chị em, hai bông hoa vẫn còn phong hương nhụy, chưa trải việc xuân hiện lên ngời sáng, cho thấy rõ tấm lòng trân trọng của nhà thơ đối với cuộc sống, đối với con người. Có thể thấy: Từ việc miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân đến việc làm nổi bật tài sắc của Thúy Kiều được tác giả thực hiện tự nhiên theo thủ pháp nghệ thuật đòn bẩy. Nhà thơ hết lời ca ngợi cả hai nhưng cách dừng bút - điểm thần có sự khác nhau ở mỗi người: dành bốn câu để tả Vân và mười hai câu để tả Kiều, chỉ tả nhan sắc của Vân, còn tả cả sắc, tài, tình của Kiều. Dùng thủ pháp nghệ thuật ước lệ - tượng trưng để miêu tả nhân vật nhưng ngòi bút của tác giả vẫn rất sinh động, chân thực, thuần hồn, điển nhã và mang tính cá thể hóa sâu sắc. 3. Kết luận Gợi tả vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều, Nguyễn Du đã trân trọng, đề cao những giá trị, vẻ đẹp của con người như nhan sắc, tài năng, phẩm hạnh. . . Bên cạnh đó, những dự cảm đầy xót thương về kiếp hồng nhan đa truân, tài hoa bạc mệnh cũng là biểu hiện của 26 Chị em Thuý Kiều - từ chữ nghĩa đến nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật cảm hứng nhân văn sâu sắc của bậc đại thi hào. Nghệ thuật xây dựng nhân vật theo bút pháp lí tưởng hóa rất phù hợp với cảm hứng ngưỡng mộ ngợi ca. Bút pháp ngôn ngữ tự nhiên, tinh tế, hào mại kết hợp với một loạt các thủ pháp nghệ thuật đặc trưng của truyện thơ Nôm đã làm nên thành công của đoạn trích. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Nhiều tác giả, 2006. Ngữ văn 9, Tập 1. Nxb Giáo dục, Hà Nội. Tên đoạn trích do các soạn giả SGK đặt. [2] Đào Duy Anh, 1974. Từ điển Truyện Kiều. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. [3] Đào Duy Anh, 1994. Hán Việt từ điển. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. [4] Việt Nam từ điển, Khai Trí Tiến Đức. [5] Genibrẹ, 1898. Từ điển Việt- Pháp. ABSTRACT Thuy Kieu sister - from the word to the art of character development The author investigates and explains Nguyen Du’s wording and penmanship in a particular extract taught at high schools and, based on this aanalzation, makes a gener- alization about Nguyen Du’s creativity in the art of character development. The writer hopes that this new insight will influence the manner in which this extract is taught to high school students. 27