Chuyên đề: Biến đổi khí hậu

- Xây dựng và thực hiện chiến lược bảo vệ đa dạng sinh học, ngăn ngừa và hạn chế tác động của các hiện tượng khí hậu cực đoan do BĐKH gây ra. - Bảo vệ, duy trì và phát triển thảm thực vật ở khu vực đầu nguồn, khu vực núi cao, khu vực có tính phòng hộ vùng và cục bộ. - Tăng cường công tác truyền thông trong đồng bào các dân tộc, ổn định đời sống của đồng bào các dân tộc gắn với rừng. - Tăng cường nông, lâm kết hợp, khai thác hợp lý nhất nguồn tài nguyên đất theo hướng sản xuất hàng hóa, từng bước khắc phục tình trạng tự cung, tự cấp. - Phát triển thủy lợi, đảm bảo đủ nước cho sinh hoạt, tưới tiêu, phát triển trồng trọt và các mục đích khác.

doc10 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 1715 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề: Biến đổi khí hậu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BIẾN ĐỔI KHÍ HÂU 1. Khái niệm về khí hậu 1.1. Theo quan điểm cũ Ở bất kỳ một nơi nào đó trên trái đất, thời tiết khác nhau hàng giờ, hàng ngày, hàng tháng, hàng năm. Song ta vẫn có thể tìm được những đặc điểm khí tượng đặc trưng cho từng địa phương và so sánh với địa phương khác. Chẳng hạn nói vùng này ấm hơn, mưa nhiều hơn,vv… vùng kia. Khí hậu được đặc trưng bởi chế độ thời tiết trong nhiều năm. Có các quan điểm cũ về khái niệm khí hậu như sau: - Khí hậu là trạng thỏi thời tiết trung bình. - Khí hậu là tổng hợp của thời tiết. - Khí hậu là một bộ phận của quá trình địa lý. 1.2. Theo các quan điểm hiện đại: Khí hậu của một nơi nào đó là chế độ thời tiết đặc trưng nhiều năm, được tạo nên bởi bức xạ mặt trời, đặc tính của mặt đệm và hoàn lưu khí quyển. 1. 3. Phân loại khí hậu 1.3.1. Phân loại khí hậu dựa vào vĩ độ địa lý Một trong các phương pháp phân loại cổ nhất, dựa vào vĩ độ địa lý phân loại khí hậu như sau - Nhiệt đới: Nằm trong vùng nội chí tuyến (vĩ độ 23027’ Bắc và Nam). Trong năm mặt trời qua thiên đỉnh 2 lần, độ dài ngày đều lớn hơn 10 giờ, bức xạ mặt trời lớn, song biến đổi trong năm nhỏ. - Hàn đới: vĩ độ 23027’ Bắc và Nam đến vĩ độ 66033’ .Lúc đông chí ít nhất có một lần mặt trời nằm dưới đường chân trời suốt 24 giờ, hạ chí có ít nhất một lần độ dài ban ngày đạt 24 giờ. - Ôn đới (nằm giữa nhiệt đới và hàn đới). Từ vĩ độ 66033’ đến hai cực Trong nhiệt đới phân biệt đới lặng gió (đới hội tụ xích đạo) có nền nhiệt độ cao, mưa nhiều thường được gọi là đới xích đạo. Vì vậy, đới nhiệt đới chính chỉ còn là đới nằm giữa đới xích đạo và chí tuyến Bắc hoặc Nam. Như vậy có 11 đới khí hậu thiên văn trên trái đất đó là: - Đới xích đạo - 2 đới nhiệt đới (bắc bán cầu và Nam bán cầu) - 2 đới cận nhiệt đới. - 2 đới ôn đới ẩm - 2 đới ôn đới lạnh - 2 đới hàn đới cực. 1.3.2. Phân loại khí hậu theo nhiệt độ trung bình tháng Côpen (1884) dùng thời kỳ kéo dài của nhiệt độ trung bình tháng (t0C) 200C và 100C làm tiêu chuẩn để chia khí hậu trái đất thành năm loại đới khí hậu: - Nhiệt đới: Các tháng đều nóng (t0 > 200C) - Cận nhiệt đới: có từ 4-11 tháng nóng, 1-8 tháng ẩm (t0 nằm trong khoảng 100C đến 200C). - Ôn đới: có 4-12 tháng ấm - Hàn đới: có 1-4 tháng ấm, còn lại là tháng lạnh (có nhiệt độ trung bình tháng dưới 100C); - Địa cực: Các tháng đều lạnh 2. Biến đổi khí hậu 2.1. Khái niệm về biến đổi khí hậu Biến đổi khí hậu là sự biến đổi trạng thái của khí hậu so với trung bình và/hoặc dao động của khí hậu duy trì trong một khoảng thời gian dài, thường là vài thập kỷ hoặc dài hơn. Đặc điểm của biến đổi khí hậu: Quá trình diễn ra từ từ, khó bị phát hiện, không thể đảo ngược được. Diễn ra trên phạm vi toàn cầu, tác động đến tất cả các châu lục, ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực của sự sống. Cường độ ngày một tăng và hậu quả ngày càng nặng nề khó lường trước. 2.2. Biểu hiện của biến đổi khí hậu Thời tiết thay đổi thất thường không theo quy luật vốn có và xảy ra không theo quy luật nhất định nào. Sự thay đổi thời tiết này diễn ra rộng khắp và nhiều nơi trên trái đất. Tại Việt Nam, những năm gần đây thời tiết diễn biến càng ngày càng phức tạp. Ví dụ: Giữa mùa đông ở miền Bắc lại có những ngày nóng như mùa hè, hoặc mưa bão không theo mùa… Nhiệt độ khí quyển tăng lên, hay chính là trái đất đang nóng dần lên. Sự thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển có hại cho môi trường sống của con người và các sinh vật trên trái đất. Sự dâng cao mực nước biển do tan băng dẫn tới sự ngập úng của các vùng đất thấp, các đảo nhỏ trên biển. Gần đây, các nhà khoa học Úc cảnh báo, trái đất nóng lên sẽ làm mực nước biển tăng, 3 đảo quốc là Tuvalu, Kiribati, Maldives không bao lâu sẽ bị nước biển xâm nhập. Hơn 1 vạn dân ở Tuvalu chỉ còn 26 km2, nơi cao nhất ở đây cũng chỉ cao hơn mực mặt nước biển 4,5 m. Cứ khoảng 2 - 3 tháng lại có một đợt triều cường, mỗi lần như thế, quốc đảo này lại bị nước biển xâm nhập 30 % diện tích. Tuvalu đã sớm phải ký hiệp định di dân với New Zealand. Sự di chuyển của các đới khí hậu tồn tại hàng nghìn năm trên các vùng khác nhau của trái đất dẫn tới nguy cơ đe dọa sự sống của các loài sinh vật, các hệ sinh thái và hoạt động của con người. Sự thay đổi cường độ hoạt động của quá trình hoàn lưu khí quyển, chu trình tuần hoàn nước trong tự nhiên và các chu trình sinh địa hoá khác. Sự thay đổi năng suất sinh học của các hệ sinh thái, chất lượng và thành phần của thuỷ quyển, sinh quyển, các địa quyển. 2.2.1. Hiện tượng El Nino Bình thường trên mặt biển Thái Bình Dơng có hai dòng hải lưu, một chảy theo chiều kim đồng hồ ở Bắc bán cầu, một chảy ngựợc theo chiều kim đồng hồ ở Nam bán cầu. Ở xích đạo, một dòng hải lưu rộng 1000 km chảy ngược lại, từ Tây sang đông đến Trung Mỹ rồi vòng ngược lên Bắc Mỹ, cân bằng lượng nước biển bị hai dòng hải lưu dồn về phía tây dọc theo xích đạo. Mặt khác, để cân bằng nhiệt, một dòng nước lạnh từ dưới đáy biển trồi lên chạy dọc theo bờ biển Chi lê, Peru, xua khối nước nóng ra xa bờ. Dòng nước lạnh này đem lại khí hậu khô hanh nhất thế giới cho vùng duyên hải và vùng Chi lê, Peru. Trên không trung, gió mùa dồn không khí nóng ẩm về phía châu Úc và Đông Nam Á, gây mưa lớn cho khu vực này. Ở đây, không khí sau khi bị trút hết hơi nước, bị đất liền đốt nóng bốc lên cao, bay ngược trở về Nam Mỹ, tạo thành một vòng tuần hoàn không khí trên biển Thái Bình Dương. Vòng tuần hoàn không khí này tạo ở ngoài khơi Chilê một trung tâm áp cao, một trung tâm áp thấp ở quần đảo Indonexia và Châu Úc. Nhng trung bình khoảng 4-5 năm, dòng nước lạnh, từ đáy không trồi lên mặt biển, làm đảo lộn tất cả hệ thống hoàn lưu trên biển, trên không trung và làm đảo lộn thời tiết, khí hậu một khu vực rộng lớn ở Nam Thái Bình Dương. Dòng nước nóng áp sát vào ven bờ biển của Chi lê và Pe ru, làm nhiệt độ không khí tăng từ 4-50C. Hơi nước gây ra mưa to cho vùng hoang mạc. Do nước biển nóng lên, trung tâm áp cao ngoài khơi Chi lê yếu đi, gió thổi từ Đông sang Tây yếu đi vì thế không đủ sức cản dòng phản lưu xích đạo, vì vậy các vùng biển tại các bang của miền Tây Mêhico và nước Mĩ trở lên nóng hơn và có những trận mưa lũ lớn mà bình thường là mùa đông tuyết phủ. Vùng Nam Á, đông Nam châu Á và châu Úc bình thường là mùa mưa, lại trở nên khô khan và hạn kéo dài. Dòng nước nóng này còn làm nóng nước biển Thái Bình Dong và bờ biển Bắc Mĩ, làm môi trường thuận lợi cho các cơn bão nhiệt đới rất mạnh. Sự đảo lộn thời tiết khí hậu không chỉ ở Nam Thái Bình Dương mà cả Châu Âu, châu Phi và nhiều vùng trên toàn bộ trái đất. Theo số liệu thống kê, trong gần cuối nửa thế kỷ 20 (1950-1998) đã sảy ra khoảng 14 đợt ELnino, đợt El Nino diễn ra mạnh mẽ nhất là năm (97-98). Ảnh hưởng của El Nino đến khí hậu Việt Nam đó là có nhiệt độ tăng cao hơn nhiệt độ trung bình, các khu vực phía Nam nước ta chịu ảnh hưởng của tăng nhiệt độ rõ rệt hơn các tỉnh phía bắc. Lượng mưa khi có hiện tượng El Nino bị giảm đi, Bắc Trung Bộ là nơi chịu nhiều ảnh hưởng còn Tây Bắc là khu vực ít bị ảnh hưởng nhất bởi El Nino. Mùa mưa đến muộn hơn các năm bình thường ở khu vực Nam Bộ và Tây Nguyên. Tóm lại El Nino đã ảnh hưởng lớn đến chế độ nhiệt ẩm ở Việt Nam: nắng nóng nhiều hơn và khô hạn cũng khắc nghiệt hơn 2.2.2. Hiện tượng La Nina Hiện tượng La Nina hay còn gọi là đối El Nino. Hiện tượng này xuất hiện khi lớp nước ở bề mặt biển ở khu vực Chi Lê- Peru lạnh hơn so với bình thường. Khi đó, mưa sẽ nhiều hơn, ẩm nhiều hơn ở vùng lục địa. Hệ quả là Việt Nam và các nước trên bán đảo Đông Dương sẽ xuất hiện mưa và lũ nhiều hơn bình thường. La Nina xuất hiện cũng sẽ ảnh hưởng đến cơ chế của bão, nhưng vấn đề này phải có nghiên cứu cụ thể mới có thể kết luận một cách chính xác. La Nina thường xuất hiện khi nhiệt độ mặt nước biển thấp hơn nhiệt độ chuẩn (khoảng 25 độ C) từ 0,5 độ C trở đi. Nếu nhiệt độ mặt nước biển chỉ thấp hơn nhiệt độ chuẩn trong phạm vi 0 -0,5 độ C thì đó là trạng thái trung gian. Ngược lại, nếu nhiệt độ mặt nước biển cao hơn nhiệt độ chuẩn thì đó là hiện tượng El Nino. Thông thường, sau một chu kỳ El Nino là đến chu kỳ trung gian hoặc La Nina. Đối với Việt Nam, hiện tượng La Nina diễn ra mạnh mẽ vào mùa thu đông, Những năm có La Nina nhiệt độ thấp hơn bình thường, khu vực Tây Bắc chịu ảnh hưởng nhiều nhất. Tổng lượng mưa không bị ảnh hưởng một cách rõ rệt trong những năm có La Nina, nhìn chung Bắc Trung Bộ và Nam Trung Bộ có lượng mưa vượt trội, còn Bắc Bộ và Tây Nguyên có lượng mưa thâm hụt so với bình thường, mùa mưa ở khu vực Nam Bộ và Tây Nguyên đến sớm hơn so với bình thờng 3. Nguyên nhân gây ra biến đổi khí hậu Nguyên nhân gây ra biến đổi khí hậu toàn cầu chủ yếu do các nguyên nhân: - Do quá trình tự nhiên do tương tác và vận động giữa trái đất và vũ trụ. - Do hàm lượng khí CO2 tăng lên trong khí quyển. - Do bức xạ của Mặt trời. - Do động đất và núi lửa. - Do trái đất đang nóng dần lên do nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu là do tác động của con người: Dân số tăng đến mức báo động; phát triển kinh tế quá nóng. - Do tác động của hoạt động con người: Sử dụng thái quá nhiên liệu hóa thạch, sử dụng phân bón, các loại hóa chất bảo vệ thực vật và sinh hoạt, thuốc trừ sâu, khai thác sử dụng đất, rừng, chăn nuôi gia súc, khai thác và sử dụng tài nguyên nước. - Do chiến tranh. Tóm lại: Nguyên nhân quan trọng làm biến đổi khí hậu trái đất là do sự gia tăng các hoạt động tạo ra các chất thải khí nhà kính, các hoạt động khai thác quá mức các bể hấp thụ và bể chứa khí nhà kính như sinh khối, rừng, các hệ sinh thái biển, ven bờ và đất liền khác. 4. Tác động của biến đổi khí hậu 4.1. Đến tài nguyên nước Trong tương lai không xa, biến đổi khí hậu sẽ làm suy thoái tài nguyên nước trên các lưu vực sông, ảnh hưởng nghiêm trọng tới đời sống của hàng chục triệu người dân và mọi hoạt động sản xuất. Tài nguyên nước đang chịu thêm nguy cơ suy giảm do hạn hán ngày một tăng ở một số vùng, mùa. Khó khăn này sẽ ảnh hưởng đến nông nghiệp, cung cấp nước ở nông thôn, thành thị và sản xuất điện. Chế độ mưa thay đổi có thể gây lũ lụt nghiêm trọng vào mùa mưa, và hạn hán vào mùa khô, gây khó khăn cho việc cấp nước và tăng mâu thuẫn trong sử dụng nước. Trên các sông lớn như sông Hồng và sông Cửu Long, xu hướng giảm nhiều hơn đối với dòng chảy năm và dòng chảy kiệt; xu thế tăng nhiều hơn đối với dòng chảy lũ. Do lưu lượng nước đầu nguồn ít dẫn đến hạ thấp mực nước hạ lưu và tình trạng xâm mặn xảy ra càng ngày càng phổ biến, nhất là các sông vùng Đông và Tây Nam Bộ, ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn nước. Do hạn hán hệ thống nước ngầm cũng bị suy giảm bị ảnh hưởng nặng nề do ô nhiễm. Ước tính có khoảng 200 nghìn người đang tiếp xúc và sử dụng trực tiếp nguồn nước bị ô nhiễm Arsenic. 4.2. Đến môi trường Trước hết, sự dâng lên của mực nước biển sẽ làm nhiễm mặn các vùng ven biển, môi trường nước mặt bị ô nhiễm nặng nề. Nhiệt độ tăng lên làm tăng khả năng hòa tan các kim loại nặng và NO3- độc hại, ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường đất. Nguy hại hơn đó là hàm lượng các kim loại nặng cũng như NO3- tăng lên trong nước ngầm làm hủy hoại nguồn nước sinh hoạt của con người. Biến đổi khí hậu là thay đổi chu trình C trong đất làm cho môi trường đất thay đổi theo xu hướng bất lợi cho thực vật và vi sinh vật. Biến đổi khí hậu là thay đổi thành phần và chất lượng khí quyển, từ đó ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp tới môi trường không khí. Cụ thể hơn, do biến đổi khí hậu đã làm gia tăng nồng độ khí CO2 trong khí quyển, gây độc trực tiếp đến con người và động vật. 4.3. Đến nông lâm ngư nghiệp và an ninh lương thực Đối với sản xuất nông nghiệp: Biến đổi khí hậu có tác động lớn đến sinh trưởng, năng suất cây trồng, thời vụ gieo trồng, làm tăng nguy cơ lây lan sâu bệnh hại cây trồng. Biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến sinh sản, sinh trưởng của gia súc, gia cầm, làm tăng khả năng sinh bệnh, truyền dịch của gia súc, gia cầm. Với sự nóng lên trên phạm vi toàn lãnh thổ, thời gian thích nghi của cây trồng nhiệt đới mở rộng và của cây trồng á nhiệt đới thu hẹp lại. Ranh giới của cây trồng nhiệt đới dịch chuyển về phía vùng núi cao hơn và các vĩ độ phía Bắc. Phạm vi thích nghi của cây trồng á nhiệt đới bị thu hẹp thêm. Theo dự báo vào những năm 2070, cây á nhiệt đới ở vùng núi chỉ có thể sinh trưởng ở những độ cao trên 100 – 500 m và lùi xa hơn về phía Bắc 100 - 200 km so với hiện nay. Biến đổi khí hậu có khả năng làm tăng tần số, cường độ, tính biến động và tính cực đoan của các hiện tượng thời tiết nguy hiểm như bão, tố, lốc, các thiên tai liên quan đến nhiệt độ và mưa như thời tiết khô nóng, lũ lụt, ngập úng hay hạn hán, rét hại, xâm nhập mặn, sâu bệnh, làm giảm năng suất và sản lượng của cây trồng và vật nuôi. Biến đổi khí hậu gây nguy cơ thu hẹp diện tích đất nông nghiệp. Một phần đáng kể diện tích đất nông nghiệp ở vùng đất thấp đồng bằng ven biển, đồng bằng sông Hồng, sông Cửu Long bị ngập mặn do nước biển dâng, nếu không có các biện pháp ứng phó thích hợp. Đối với sản xuất lâm nghiệp: Do biến đổi khí hậu, hệ sinh thái rừng bị ảnh hưởng theo các chiều hướng khác nhau: Nước biển dâng lên làm giảm diện tích rừng ngập mặn hiện có, tác động xấu đến rừng tràm và rừng trồng trên đất bị nhiễm phèn ở các tỉnh Nam Bộ. Ranh giới rừng nguyên sinh cũng như rừng thứ sinh có thể dịch chuyển. Rừng cây họ dầu mở rộng lên phía Bắc và các dải cao hơn, rừng rụng lá với nhiều cây chịu hạn phát triển mạnh. Nhiệt độ cao kết hợp với ánh sáng dồi dào thúc đẩy quá trình quang hợp dẫn đến tăng cường quá trình đồng hóa của cây xanh. Tuy vậy, chỉ số tăng trưởng sinh khối của cây rừng có thể giảm do độ ẩm giảm. Nguy cơ diệt chủng của động vật và thực vật gia tăng, một số loài động, thực vật quý hiếm có thể bị suy kiệt. Nhiệt độ và mức độ khô hạn gia tăng làm tăng nguy cơ cháy rừng, phát triểnsâu bệnh, dịch bệnh... Đối với thủy sản: Hiện tượng nước biển dâng và ngập mặn gia tăng dẫn đến các hậu quả sau đây: Nước mặn lấn sâu vào nội địa, làm mất nơi sinh sống thích hợp của một số loài thủy sản nước ngọt. Rừng ngập mặn hiện có bị thu hẹp, ảnh hưởng đến nơi cư trú của một số loài thủy sản. Khả năng cố định chất hữu cơ của hệ sinh thái rong biển giảm, dẫn đến giảm nguồn cung cấp sản phẩm quang hợp và chất dinh dưỡng cho sinh vật đáy. Do vậy, chất lượng môi trường sống của nhiều loại thủy sản xấu đi. Nhiệt độ tăng cũng dẫn đến một số hậu quả: Gây ra hiện tượng phân tầng nhiệt độ rõ rệt trong thủy vực nước đứng, ảnh hưởng đến quá trình sinh sống của sinh vật. Một số loài di chuyển lên phía Bắc hoặc xuống sâu hơn làm thay đổi cơ cấu phân bố thủy sinh vật theo chiều sâu. Quá trình quang hóa và phân huỷ các chất hữu cơ nhanh hơn, ảnh hưởng đến nguồn thức ăn của sinh vật. Các sinh vật tiêu tốn nhiều năng lượng hơn cho quá trình hô hấp cũng như các hoạt động sống khác làm giảm năng suất và chất lượng thủy sản. Suy thoái và phá huỷ các rạn san hô, thay đổi các quá trình sinh lý, sinh hóa diễn ra trong mối quan hệ cộng sinh giữa san hô và tảo. Cường độ và lượng mưa lớn làm cho nồng độ muối giảm đi trong một thời gian dẫn đến sinh vật nước lợ và ven bờ, đặc biệt là nhuyễn thể hai vỏ (nghêu, ngao, sò,...) bị chết hàng loạt do không chống chịu nổi với nồng độ muối thay đổi. Đối với nguồn lợi hải sản và nghề cá, biến đổi khí hậu gây ra các tác động: Nước biển dâng làm cho chế độ thủy lý, thủy hóa và thủy sinh xấu đi. Kết quả là các quần xã hiện hữu thay đổi cấu trúc và thành phần, trữ lượng giảm sút. Nhiệt độ tăng làm cho nguồn thủy, hải sản bị phân tán. Các loài cá cận nhiệt đới có giá trị kinh tế cao bị giảm đi hoặc mất hẳn. Cá ở các rạn san hô đa phần bị tiêu diệt. Các loài thực vật nổi, mắt xích đầu tiên của chuỗi thức ăn cho động vật nổi bị huỷ diệt, làm giảm mạnh động vật nổi, do đó làm giảm nguồn thức ăn chủ yếu của các động vật tầng giữa và tầng trên. 4.4. Đến năng lượng Nước biển dâng gây các tác động sau: Ảnh hưởng tới hoạt động của các dàn khoan được xây dựng trên biển, hệ thống dẫn khí và các nhà máy điện chạy khí được xây dựng ven biển, làm tăng chi phí bảo dưỡng, duy tu, vận hành máy móc, phương tiện…. Các trạm phân phối điện trên các dải ven biển phải tăng thêm năng lượng tiêu hao cho bơm tiêu nước ở các vùng thấp ven biển. Mặt khác, dòng chảy các sông lớn có công trình thủy điện cũng chịu ảnh hưởng đáng kể. Nhiệt độ tăng cũng gây tác động đến ngành năng lượng: Tăng chi phí thông gió, làm mát hầm lò khai thác và làm giảm hiệu suất, sản lượng của các nhà máy điện. Tiêu thụ điện cho sinh hoạt gia tăng và chi phí làm mát trong các ngành công nghiệp, giao thông, thương mại và các lĩnh vực khác cũng gia tăng đáng kể. Nhiệt độ tăng kèm theo lượng bốc hơi tăng kết hợp với sự thất thường trong chế độ mưa dẫn đến thay đổi lượng nước dự trữ và lưu lượng vào của các hồ thủy điện. Biến đổi khí hậu theo hướng gia tăng cường độ và lượng mưa, bão, dông sét cũng ảnh hưởng, trước hết đến hệ thống dàn khoan ngoài khơi, hệ thống vận chuyển dầu và khí vào bờ, hệ thống truyền tải và phân phối điện,… Yêu cầu hạn chế tốc độ tăng phát thải khí nhà kính cũng ảnh hưởng đến hoạt động của ngành năng lượng. 4.5. Đến công nghiệp và xây dựng Công nghiệp là ngành kinh tế quan trọng, phát triển nhanh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Các khu công nghiệp là các cơ sở kinh tế quan trọng của đất nước đang và sẽ được xây dựng nhiều ở vùng đồng bằng phải đối diện nhiều hơn với nguy cơ ngập lụt và thách thức trong thoát nước do nước lũ từ sông và mực nước biển dâng. Vấn đề này đòi hỏi các đánh giá và tăng đầu tư lớn trong xây dựng các khu công nghiệp và đô thị, các hệ thống đê biển, đê sông để bảo vệ, hệ thống tiêu thoát nước, áp dụng các biện pháp nhằm hạn chế rủi ro, đặc biệt những khu công nghiệp có rác thải và hóa chất độc hại được xây dựng trên vùng đất thấp. Biến đổi khí hậu làm tăng khó khăn trong việc cung cấp nước và nguyên vật liệu cho các ngành công nghiệp và xây dựng như dệt may, chế tạo, khai thác và chế biến khoáng sản, nông, lâm, thủy, hải sản, xây dựng công nghiệp và dân dụng, công nghệ hạt nhân, thông tin, truyền thông, v.v. Các điều kiện khí hậu cực đoan gia tăng cùng với thiên tai làm cho tuổi thọ của vật liệu, linh kiện, máy móc, thiết bị và các công trình giảm đi, đòi hỏi những chi phí tăng lên để khắc phục. Biến đổi khí hậu còn đòi hỏi các ngành này phải xem xét lại các quy hoạch, các tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn ngành nhằm thích ứng với biến đổi khí hậu. 4.6. Đến giao thông vận tải Biến đổi khí hậu có nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến giao thông vận tải, một ngành tiêu thụ nhiều năng lượng và phát thải khí nhà kính không ngừng tăng lên trong tương lai nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việc kiểm soát và hạn chế tốc độ tăng phát thải khí nhà kính đòi hỏi ngành phải đổi mới và áp dụng các công nghệ ít chất thải và công nghệ sạch dẫn đến tăng chi phí lớn. Nhiệt độ tăng làm tiêu hao năng lượng của các động cơ, trong đó có các yêu cầu làm mát, thông gió trong các phương tiện giao thông cũng góp phần tăng chi phí trong ngành giao thông vận tải. Biến đổi khí hậu gây ra lũ lụt nhiều hơn, tàn phá hệ thống giao thông; núi lửa phun trào gây khói bụi làm ngừng trệ các chuyến bay…. 4.7. Đến văn hóa, thể thao, du lịch và thương mại Biến đổi khí hậu có tác động trực tiếp đến các hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch, thương mại và dịch vụ và có ảnh hưởng gián tiếp thông qua các tác động tiêu cực đến các lĩnh vực khác như giao thông, vận tải, xây dựng, nông nghiệp, sức khỏe cộng đồng. Nước biển dâng ảnh hưởng đến các bãi tắm ven biển, một số bãi có thể mất đi, một số khác bị đẩy sâu vào đất liền, ảnh hưởng đến việc khai thác, làm tổn hại đến các công trình di sản văn hóa, lịch sử, các khu bảo tồn, các khu du lịch sinh thái, các sân gôn ở vùng thấp ven biển và các công trình hạ tầng liên quan khác có thể bị ngập, di chuyển hay ngừng trệ,... làm gia tăng chi phí cho việc cải tạo, di chuyển và bảo dưỡng. Nhiệt độ tăng và sự rút ngắn mùa lạnh làm giảm tính hấp dẫn của các khu du lịch, nghỉ dưỡng nổi tiếng trên núi cao, trong khi mùa du lịch mùa hè có thể kéo d