Đề cương bài giảng môn triết học Chương iii khái lược lịch sử triết học phương tây trước mác phần c & d

1. Hoàn cảnh lịch sử: - Thời kỳ Phục hưng (Renaissance) vào thế kỷ XV-XVI, là thời kỳ khôi phục và phát triển những giá trị văn hóa cổ đại sau “đêm dài Trung cổ”. Nguyên nhân và đặc điểm của thời kỳ Phục hưng: - Phương thức sản xuất phong kiến lỗi thời, phương thức sản xuất TBCN đang từng bước hình thành. Sự ra đời của công trường thủ công làm cho năng suất lao động tăng. Thương nghiệp, hàng hải phát triển mạnh

ppt88 trang | Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2512 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề cương bài giảng môn triết học Chương iii khái lược lịch sử triết học phương tây trước mác phần c & d, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG MÔN TRIẾT HỌC CHƯƠNG TRÌNH CAO HỌC CHƯƠNG III KHÁI LƯỢC LỊCH SỬ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY TRƯỚC MÁC Phần C & D NGƯỜI BIÊN SOẠN PGS.TS. NGUYỄN TẤN HÙNG TS. LÊ HỮU ÁI C. TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI PHỤC HƯNG I. Hoàn cảnh lịch sử và đặc điểm 1. Hoàn cảnh lịch sử: - Thời kỳ Phục hưng (Renaissance) vào thế kỷ XV-XVI, là thời kỳ khôi phục và phát triển những giá trị văn hóa cổ đại sau “đêm dài Trung cổ”. Nguyên nhân và đặc điểm của thời kỳ Phục hưng: - Phương thức sản xuất phong kiến lỗi thời, phương thức sản xuất TBCN đang từng bước hình thành. Sự ra đời của công trường thủ công làm cho năng suất lao động tăng. Thương nghiệp, hàng hải phát triển mạnh + Tìm ra châu Mỹ năm 1492 + Tầng lớp tư sản xuất hiện. Vai trò kinh tế-xã hội của nó ngày càng nâng cao. Mâu thuẫn giữa tầng lớp tư sản và giai cấp địa chủ quý tộc ngày càng phát triển. + Khoa học, đặc biệt là thiên văn học phát triển mạnh. + Nghệ thuật cũng phát triển phong phú đa dạng, đi vào ca ngợi cái đẹp trong cuộc sống hiện thực của con người. 2. Đặc điểm của triết học thời kỳ Phục hưng: + Các nhà triết học và khoa học từng bước đấu tranh tách triết học và khoa học ra khỏi sự kiểm soát của tôn giáo. + Thuyết nhật tâm được Côpecnic đưa ra và được nhiều nhà khoa học phát triển để chống lại thuyết địa tâm, đây là một thách thức lớn đối với uy quyền của Nhà thờ. + Các nhà triết học chưa dám công khai tuyên bố CNDV, quan điểm vô thần. Họ thường đứng trên quan điểm thần luận (deism) hay phiếm thần luận (pantheism) để hạ thấp một bước vai trò của Thượng đế và Giáo hội. 1) Nicôlai Côpecnic (Nicolaus Copernicus, 1473-1543) Nhà Thiên văn học, nhà triết học người Ba Lan. Đưa ra thuyết nhật tâm để chống lại thuyết địa tâm. II. Một số nhà triết học tiêu biểu Thuyết nhật tâm (heliocentric theory: thuyết mặt trời là trung tâm của vũ trụ) do Côpecnich đưa ra nhằm chống lại thuyết địa tâm (Geocentric theory: thuyết quả đất là trung tâm vũ trụ, do một nhà thiên văn học Hy Lạp đưa ra vào thế kỷ II và được Nhà thờ phê chuẩn trở thành vũ trụ quan chính thống của Kitô giáo, vì nó phù hợp với giáo điều trong Kinh Thánh). Thuyết nhật tâm được coi là “một cuộc cách mạng ở trên trời” báo trước một cuộc cách mạng trong các quan hệ xã hội. Mô hình thuyết Nhật tâm Côpecnich 2) Brunô (Giordano Bruno 1548-1600). Nhà triết học, khoa học, theo quan điểm Phiếm thần luận (Pantheism: thuyết cho rằng Thượng đế cũng chính là giới tự nhiên). Brunô phát triển CNDV lên đỉnh cao thời kỳ Phục hưng. Brunô ủng hộ và phát triển thuyết nhật tâm của Côpecnich. Theo ông vũ trụ là vô tận. Ngoài hệ mặt trời còn có vô số những hệ thống khác. Năm 1592, Brunô bị Tòa án dị giáo xét xử bỏ tù 8 năm và bị đưa ra thiêu sống trên giàn hỏa ngày 17 - 2 - 1600. Đến thế kỷ XIX, một tượng đài được dựng lên nơi Bruno hy sinh để ghi nhận và tưởng nhớ sự hy sinh của ông. 3) Galilê (Galile Galileo, 1564-1642) Nhà triết học, toán học, vật lý học, thiên văn học ý) Galilê thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan, vô tận, vĩnh viễn , không có khởi đầu, không có kết thúc. Những kết luận triết học này của ông có cơ sở từ những quan sát, thực nghiệm và suy lý khoa học. Trong thiên văn học, Galilê có đóng góp rất lớn trong việc phát triển kính viễn vọng và sử dụng nó để nghiên cứu sự chuyển động của mặt trời và các hành tinh chung quanh mặt trời, như sao Kim, sao Mộc và các vệ tinh của nó. Những quan sát thiên văn của Galilê giúp cho ông xác nhận tính đúng đắn của thuyết nhật tâm của Côpecnich. Galilê có đóng góp lớn trong việc nghiên cứu các quy luật chuyển động cơ học, quy luật của sự rơi của các vật thể. Trong lý luận nhận thức, Galilê phê phán việc áp dụng thuyết Arixtốt một cách mù quáng, phê phán chủ nghĩa kinh viện giáo điều, là người đầu tiên áp dụng một cách có hệ thống phương pháp thực nghiệm khoa học, với hình thức mô hình hóa toán học, nhất là mô hình hóa hình học để giải thích các hiện tượng tự nhiên. Galilê thừa nhận khả năng nhận thức của con người là vô hạn, đề cao vai trò của cảm giác, lý tính và năng lực trí tuệ của con người, chống lại sự đòi hỏi của tôn giáo rằng con người phải từ bỏ lý trí để chấp nhận niềm tin một cách vô điều kiện. Ông nói: “Tôi không phải bắt buộc phải tin rằng cùng một Thượng đế lại vừa ban cho chúng ta cảm giác, lý trí và năng lực trí tuệ, lại có khuynh hướng cấm chúng ta không được sử dụng những cái đó”. Galilê luận chứng cho việc giải phóng khoa học ra khỏi sự can thiệp của tôn giáo. Ông nói rằng khoa học và Kinh thánh là hai cuốn sách không có liên quan với nhau. Khoa học giúp con người khám phá quy luật tự nhiên, còn Kinh thánh giúp dạy con người điều phải trái trong cuộc sống. Trong lĩnh vực khoa học, Kinh thánh không có tác dụng gì cả. D. TRIẾT HỌC TÂY ÂU THẾ KỶ XVII-XVIII I. Điều kiện lịch sử - Xã hội Tây Âu thế kỷ XVII-XVIII là thời kỳ phương thức sản xuất TBCN phát triển mạnh mẽ, mâu thuẫn gay gắt với chế độ phong kiến dẫn đến các cuộc cách mạng tư sản: Cách mạng Anh (1642-1648), Cách mạng pháp (1789-1794). - Khoa học tự nhiên có bước tiến nhảy vọt. Quá trình phân ngành. Cơ học Niutơn là phát triển nhất. Phương pháp thực nghiệm được đề cao và áp dụng rộng rãi trong khoa học. 1) Phranxi Bêcơn (Francis Bacon, 1561-1626), sinh ở Luân Đôn, học Đại học Cambridge, được bầu vào Hạ viện Anh, được phong chức Bá tước. II. Triết học Tây Âu thế kỷ XVII Các triết gia tiêu biểu: Ph. Bêcơn là nhà triết học duy vật, được coi là ông tổ của chủ nghĩa kinh nghiệm Anh. Bêcơn đề cao vai trò của tri thức. Chỉ có tri thức mới giúp cho con người hiểu biết quy luật tự nhiên và nhờ đó chinh phục được những sức mạnh tự nhiên. Ông có câu nói nổi tiếng “Tri thức là sức mạnh” (Knowledge is power). Ông cũng nói: “Tri thức và sức mạnh của con người hợp lại làm một; bởi vì bất cứ ở nơi nào mà nguyên nhân không được nhận thức thì hiệu quả cũng không được đem lại. Để điều khiển được giới tự nhiên thì phải phục tùng giới tự nhiên; và cái gì là nguyên nhân trong sự quan sát thì cũng là quy luật trong quá trình hoạt động”. (Human knowledge and human power meet in one; for where the cause is not known the effect cannot be produced. Nature to be commanded must be obeyed; and that which in contemplation is as the cause is in operation as the rule). Bêcơn đề xuất lôgic quy nạp; từ những sự kiện quan sát được trong thực tế bằng phương pháp quy nạp chúng ta mới có thể rút ra được những nguyên lý, quy luật. Bêcơn đề cao vai trò của tri thức kinh nghiệm, vì thế được coi là ông tổ của chủ nghĩa kinh nghiệm Anh. Theo ông, cảm giác là nguồn gốc của nhận thức; mọi tri thức đều bắt nguồn từ quan sát và thực nghiệm. Để sử dụng tốt lôgic quy nạp, theo Bêcơn, trước tiên cần phải khắc phục bốn loại “ảo tưởng” (Latin: idola, Anh: Idols). - Ảo tưởng chủng tộc (Idols of the Tribe) là những sai lầm của nhận thức xuất phát từ bản tính của loài người. Con người thường lấy mình làm thước đo cho vạn vật, quy cho vạn vật những đặc tính vốn có của chỉ bản thân con người. Ngoài ra, giác quan và cảm giác con người cũng có những hạn chế nhất định. - Ảo tưởng hang động (Idols of the Cave) lại xuất phát từ hạn chế của cá nhân con người. Theo Ph. Bêcơn: “Mỗi người có một cái hang riêng của mình”, như có cấu tạo cơ thể và tinh thần riêng, có bản tính riêng hoặc đặc thù của mình, có hoàn cảnh giáo dục và giao tiếp riêng, có những xúc cảm riêng, có tâm trạng riêng, như tính hay băng khoăn, lo lắng hay bàng quan, điềm tĩnh, v.v., từ đó có cách đánh giá, tiếp nhận khác nhau, sai lệch đối với các sự vật hiện tượng khách quan”. Ảo tưởng công cộng (Idols of the Forum) lại xuất phát từ sự giao tiếp của cá nhân với cộng đồng. Bêcơn đặc biệt nhấn mạnh sự sai lầm do ngôn ngữ chung gây ra. Ảo tưởng nhà hát (Idols of the Theater) được Bêcơn dùng để nói về những hạn chế do sự du nhập vào trong đầu óc con người “những giáo điều triết học khác nhau” và “những phép chứng minh không đúng” Bêcơn coi những hệ thống triết học cũng giống như những vở kịch được sáng tác và biểu diễn trên sân khấu, “bởi vì theo sự xét đoán của tôi, tất cả những hệ thống được cho là đúng chẳng qua chi là những vở kịch đại diện cho những thế giới do chính họ sáng tạo ra, theo một phong cách như trên sân khấu, không chân thật”. 2) Tômat Hôpbơ (Thomas Hobbes, 1588- 1679), sinh ở Westport, Wiltshire, nước Anh, tốt nghiệp Trường Đại học Oxford năm 1608. Trong quan điểm duy vật của mình, Hôpbơ cho rằng đối tượng nghiên cứu của triết học là vật chất và vận động, nhưng chủ nghĩa duy vật của ông mang tính siêu hình, máy móc. Hôpbơ coi con người như một cái máy, cho rằng bản tính tự nhiên của con người là ích kỷ và độc ác; con người chỉ tìm cách thực hiện những lợi ích riêng của cá nhân mình. Hôpbơ mô tả cuộc sống con người là “cô độc, tồi tệ, bẩn thỉu, độc ác và thiển cận” (“solitary, poor, nasty, brutish, and short”); xã hội con người là “cuộc chiến tranh của tất cả chống lại tất cả” (“war of all against all”) và trong cuộc chiến này thì “không có chỗ tồn tại cho khái niệm về đúng và sai, công bằng và bất công”. Giải pháp duy nhất cho tình trạng này theo Hôpbơ là mọi người phải thỏa thuận tuân theo một chính quyền duy nhất, có toàn quyền, đủ mạnh để bắt buộc mọi người chấp hành luật lệ và sống trong hoà bình. Trên cơ sở lập luận như thế, Hôpbơ tưởng tượng ra một “khế ước xã hội” (“a social contract”) giữa công dân với nhau, trong đó mọi công dân thỏa thuận từ bỏ trạng thái tự nhiên và tự nguyện phục tùng một quyền lực tuyệt đối, quyền lực này có thể là nhà vua hay nghị viện. Hôpbơ phản đối quyền lực của Giáo hoàng La Mã. Ông cho rằng quyền của nhà nước phải cao hơn quyền của nhà thờ. Tuy nhiên, ông cho rằng tôn giáo cũng rất cần thiết cho nhà nước, là công cụ giúp nhà nước cai trị. Nhà thờ phải phục tùng nhà nước, chứ không phải ngược lại. Trong lý luận nhận thức, Hôpbơ cho rằng cảm giác có nguồn gốc từ sự vật khách quan tác động lên giác quan và bộ não hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp. Tuy nhiên, Hôpbơ đứng trên lập trường duy danh và phủ nhận sự tồn tại của cái chung, cái phổ biến. 3) Rơnê Đêcactơ (René Descartes, 1596-1650), nhà triết học, toán học, nhà khoa học Pháp.Đêcactơ sinh ở La Haye, một thị trấn nhỏ ở Touraine nước Pháp Đêcactơ có nhiều đóng góp về toán học và vật lý học. Ông được coi là người sáng lập (cùng với Galilê) ra hình học phân tích (analytic geometry) cái cầu nối liền giữa hình học và số học. Ông được coi là người sáng lập ra triết học hiện đại. Trong tác phẩm “Thuyết trình về phương pháp” công bố năm 1637 và tác phẩm “Nguyên lý triết học” công bố năm 1644, Đêcactơ đưa ra nguyên tắc nghi ngờ làm điểm xuất phát cho nhận thức. Nguyên tắc này có ý nghĩa tích cực trong việc chống lại niềm tin mù quáng. Từ sự nghi ngờ, chúng ta tích cực suy gẫm về vấn đề được đặt ra. Chỉ có điều gì đã được chứng minh một cách rõ ràng, rành mạch không còn gây một chút nghi ngờ nào nữa thì mới trở thành chân lý. Từ sự nghi ngờ, Đêcactơ đi đến chứng minh cho sự tồn tại của bản thân mình. Ông lập luận rằng, tôi có thể nghi ngờ sự tồn tại của thế giới và ngay cả cơ thể của mình, nhưng việc tôi đang nghi ngờ trong đầu óc của mình là một thực tế không thể nghi ngờ được. Mà nghi ngờ có nghĩa là tư duy. Với lập luận như vậy, ông đi đến kết luận: “Tôi tư duy, vậy thì tôi tồn tại” (Latin: Cogito ergo sum; Pháp: Je pense, donc je suis). Cũng bằng phương pháp nghi ngờ, Đêcactơ tìm cách chứng minh sự tồn tại của Thượng đế và một số thuộc tính của Thượng đế. Với việc đề cao vai trò của tư duy, triết học của Đêcactơ có một ý nghĩa tích cực nhất định, nhưng với việc cho rằng lý tính có thể chứng minh được tất cả bằng phương pháp suy luận diễn dịch, Đêcactơ đã rơi vào chủ nghĩa duy lý (rationalism). Đêcactơ thừa nhận có những ý niệm bẩm sinh (innate ideas), tiên nghiệm do Thượng đế ban cho con người khi sinh ra. Tiêu chuẩn của chân lý theo Đêcactơ là tính rõ ràng, mạch lạc, không gây nghi ngờ của tư tưởng, Ghi chú: Chủ nghĩa duy lý (rationalism) là khuynh hướng triết học cho rằng bằng lý trí, lý tính (reason) và phương pháp suy diễn, con người có thể nhận thức được tất cả, không cấn đến kinh nghiệm cảm tính. Về bản thể luận, Đêcactơ đứng trên lập trường nhị nguyên luận, thừa nhận hai thực thể tinh thần và vật chất song song tồn tại, được Thượng đế kết hợp lại. Mặc dù vậy, trong vật lý học của Đêcactơ chứa đựng nhiều yếu tố duy vật. Ông cho vũ trụ là vật chất được hình thành từ chuyển động xoáy lốc của vật chất. Vũ trụ vô tận, tồn tại vĩnh viễn. Vật chất được cấu trúc từ những hạt nhỏ, nhưng chúng có thể phân chia đến vô cùng. Không gian và thời gian là thuộc tính gắn liền với vật thể. Vận động luôn luôn gắn liền với vật thể và không thể tiêu diệt được. Tuy nhiên, ông chỉ hiểu vận động là vận động cơ giới. 4) Baruch Xpinôda (Baruch Spinoza (1632-1677), nhà tư tưởng duy vật xuất sắc Hà Lan. Về bản thể luận, Xpinôda cho rằng giới tự nhiên là thực thể duy nhất, hoàn toàn độc lập không do ai sinh ra. Thượng đế cũng chính là giới tự nhiên. Chính Einstein đã tán thành quan điểm này. (Khi được hỏi: “Do you believe in God?”, Einstein trả lời như sau: "I believe in Spinoza's God who reveals himself in the orderly harmony of what exists, not in a God who concerns himself with fates and actions of human beings." Xpinôda đã khắc phục được nhị nguyên luận của Đêcactơ khi khẳng định “Thực thể” là cái duy nhất, là nền tảng và là bản chất chung của mọi sự vật, hiện tượng. Tuy nhiên, ông lại nhầm lẫn khi khẳng định thực thể có thuộc tính chung là quảng tính và tư duy. Thực ra tư duy chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là não người, chứ không phải là thuộc tính chung của vật chất nói chung. Xpinôda phân biệt “thực thể” với “dạng thức” (Có thể hiểu như sự phân biệt giữa vật chất với vật thể). “Dạng thức” là những dạng tồn tại cụ thể, đơn nhất của thực thể. Thực thể thì bất động, còn dạng thức thi luôn luôn vận động và tuân theo luật nhân quả. Con người người là một dạng thức của thực thể. Con người cũng có quảng tính và tư duy (tức linh hồn và thể xác). Linh hồn là chức năng hoạt động của cơ thể. Không thể có linh hồn tách rời cơ thể. - Về nhận thức, Xpinôda thừa nhận khả năng nhận thức của con người là vô hạn. Ông không thừa nhận có tư tưởng bẩm sinh.Ông chia nhận thức thành nhiều dạng: nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính, nhận thức giác tính và trực giác. - Về quan hệ giữa tự do và tất yếu, Xpinôda cho rằng tự do là nhận thức được cái tất yếu. Cách hiểu này được Hêghen và chủ nghĩa Mác đánh giá cao. 5) Giôn Lôccơ (John Locke, 1632-1704) Lôccơ sinh ở Wrington, Somerset nước Anh. Năm 1652, Lôccơ học ở Trường Đại học Oxford, tốt nghiệp cao học năm 1658, giảng dạy ở trường này (1661-1664). Lôccơ phát triển chủ nghĩa kinh nghiệm, nhấn mạnh vai trò của tri thức xuất phát từ kinh nghiệm, phủ nhận tri thức do suy diễn đem lại. Trong tiểu luận : “Bàn về sự hiểu biết của con người” (An Essay Concerning Human Understanding”, Lôccơ khẳng định: “Tất cả mọi tư tưởng đều có nguồn gốc từ cảm giác hoặc sự phản ánh” (All ideas come from sensation or reflection). Lôccơ phủ nhận tri thức tiên nghiệm, bác bỏ quan niệm của Đêcac và Laibnit về tư tưởng bẩm sinh và trực giác. Ông cho rằng đầu óc con người khi mới sinh ra chỉ là một “tấm bảng trắng” (tabula rasa), tức như “một tờ giấy trắng, không có bất kỳ tính chất gì, không có bất kỳ ý niệm gì” (white paper, void of all characters, without any ideas). Nhờ có kinh nghiệm mà những tri giác được in lên tấm bảng đó. Lôccơ phân biệt giữa chất có trước và chất có sau. Những thuộc tính như trạng thái rắn lỏng, quảng tính, vận động và đứng im, hình dáng, v.v., được Lôccơ gọi là “chất có trước” (primary quality) vì chúng là những đặc tính khách quan vốn có của sự vật hiện tượng, độc lập với cảm giác; còn những đặc tính như màu sắc, mùi vị, âm thanh,v.v,. gắn liền và phụ thuộc vào cảm giác chúng ta được gọi là những “chất có sau” (secondary quality), vì theo Lôccơ, chúng không thuộc về sự vật, hiện tượng, mà chỉ là những cảm giác chủ quan của con người. Thật ra, sự phân biệt này không có cơ sở khoa học. Theo Lôccơ tư tưởng của con người có hai nguồn gốc: từ sự quan sát sự vật bên ngoài và từ hoạt động suy nghĩ bên trong của đầu óc (mà Lôccơ gọi là cảm giác bên trong). Thật ra, hai loại hoạt động này của nhận thức chính là nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, nhưng Lôccơ gọi cả hai đều là cảm giác cả. Mặc dù Lôccơ đã thấy được sự khác nhau về phương thức hoạt động của hai loại nhận thức, nhưng hạn chế của Lôccơ ở chỗ không thấy được sự khác nhau về chất lượng, trình độ thấp cao, cũng như mối liên hệ giữa hai giai đoạn hay hai trình độ khác nhau này của nhận thức. Trong “Hai chuyên luận về chính phủ” (Two Treatises of Government) (1690), Lôccơ bác bỏ quan niệm về quyền lực thần thánh của nhà vua, phủ nhận chế độ quân chủ chuyên chế và đưa ra quan niệm về một “chính phủ dân sự”, về “quyền tự nhiên”. Nhà nước phải bảo vệ những quyền đó, trong đó quan trọng là quyền sở hữu. Lôccơ ủng hộ tự do tín ngưỡng và sự tách nhà nước ra khỏi tôn giáo. Ông sinh trong một gia đình quý tộc ở Nam Ailen. Ông là nhà triết học, toán học, giáo chủ, đứng trên lập trường duy tâm chủ quan. 6) Gioocgiơ Beccơli (George Berkeley, 1685- 1753) Beccơli cho rằng một sự vật, hiện tượng đều là “những tập hợp các cảm giác (collections of sensations) hoặc “những tập hợp các ý niệm cảm tính” (collections of ideas) trong đầu óc con người. G. Beccli phủ nhận tồn tại khách quan của sự vật, hiện tượng và cho rằng “tồn tại là được tri giác” (esse is percipi). Từ lập trường duy tâm chủ quan, để khắc phục sự vô lý của chủ nghĩa duy ngã, B. chuyển sang lập trường duy tâm khách quan. Chẳng hạn, khi nói về vũ trụ, khi không có “tôi” hoặc một người nào khác tri giác, thì tất cả sự đa dạng của vũ trụ cũng tồn tại, nếu nó được tri giác bởi một “Tinh thần vĩnh cửu” , tức Thượng đế. Beccơli bác bỏ khái niệm “vật chất” của CNDV, phủ nhận tính khách quan của không gian, thời gian. Beccơli nói rằng: “Những gì tôi thấy bằng mắt, sờ bằng tay mới thực sự tồn tại.” (The things I see with my eyes and touch with my hands do exist, really exist). “Cái duy nhất mà chúng ta phủ nhận sự tồn tại của nó đó là cái mà các nhà triết học gọi là Vật chất hay thực thể vật chất” (The only thing whose existence we deny is that which Philosophers call Matter or corporeal substance). Trong lý luận nhận thức, vì phủ nhận tính khách quan của đối tượng nhận thức nên Beccơli phủ nhận khả năng tư duy trừu tượng của con người trong việc nhận thức bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng. Theo ông, “Chúng ta chỉ nên tư duy về những cái mà chúng ta biết và nói về những cái thông tục mà thôi. Những người dẫu có tin vào chân lý trong hệ thống Côpecnich, vẫn phải nói rằng mặt trời mọc, mặt trời lặn …”. (we ought to 'think with the learned, and speak with the vulgar. They who to demonstration are convinced of the truth of the Copernican system do nevertheless say 'the sun rises,' 'the sun sets,' or 'comes to the meridian; 'and if they affected a contrary style in common talk it would without doubt appear very ridiculous). Hium sinh ở Edinburg, Scotland. Hium là một nhà triết học duy tâm chủ quan. Ông phát triển tư tưởng của Beccơli kết hợp với chủ nghĩa hoài nghi và thuyết không thể biết. 7) Đêvit Hium (David Hume, 1711-1776) Hium phủ nhận sự tồn tại của Thượng đế, đồng thời cũng phủ nhận thực thể vật chất. Hium quy tất cả sự vật, hiện tượng về tri giác cảm tính. Theo Hium tri giác có thể chia thành hai lớp hay hai loại (two classes or species) khác nhau ở mức độ sức mạnh và sức sống (degrees of force and vivacity). Loại ít mạnh và ít sinh động nhất thường được gọi là tư tưởng (thoughts) hay quan niệm (ideas). Loại thứ hai được Hium gọi là “ấn tượng” (impressions). Theo Hium, tư tưởng của con người mặc dù có những tự do nhất định, nhưng nếu xem xét kỹ thì thấy chúng bị giới hạn trong những phạm vi rất hạn hẹp, và sức mạnh sáng tạo của tư tưởng chỉ đơn giản là “khả năng lắp ghép, hoán vị, tăng lên hay giảm xuống những tư liệu do cảm giác và kinh nghiệm đem lại” (the faculty of compounding, transposing, augmenting, or diminishing the materials afforded us by the senses and experience). Chẳng hạn, khi ta nghĩ về một “núi vàng” thì chỉ đơn giản là ghép hai ý niệm đã c
Tài liệu liên quan