Đề cương chính trị - Phần II

Nêu khái niệm và các thuộc tính cơ bản của hàng hóa. Tại sao nói quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của mọi nên sản xuất hàng hóa. Ý nghĩa của vấn đề đối với việc tổ chức quản lý nền kinh tế ở nước ta hiện nay. a/ Khái niệm và các thuộc tính cơ bản của hàng hóa: * Khái niệm: Hàng hóa là sản phẩm của lao động có thể thỏa mãn nhu cầu nhất định nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán trên thị trường. - Cần phân biệt giữa vật thể, vật phẩm và hàng hóa. - Có nhiều tiêu thức để phân chia hàng hóa: + Căn cứ vào hình thái tồn tại người ta phân chia hàng hóa thành: hàng hóa vật thể, hàng hóa phi vật thể. + Căn cứ vào chủ thể sở hữu và sử dụng người ta phân chia hàng hóa thành: hàng hóa tư nhân và hàng hóa công cộng. + Căn cứ vào tính chất người ta phân chia hàng hóa thành: hàng hóa thông thường, hàng hóa đặc biệt * Các thuộc tính cơ bản của hàng hóa: - Giá trị sử dụng: + Giá trị sử dụng là công dụng của hàng hóa, nó có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người. + Giá trị sử dụng do thuộc tính tự nhiên của vật phẩm quy định. Giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh cửu. + Số lượng công dụng (giá trị sử dụng) của hàng hóa ngày càng tăng theo sự phát triển của khoa học – công nghệ và trình độ của nền sản xuất xã hội. + Giá trị sử dụng của hàng hóa tạo thành nội dung của cải vật chất và là cơ sở để cân đối về mặt hiện vật (thiếu – cân đối – thừa).

doc45 trang | Chia sẻ: tranhoai21 | Lượt xem: 1470 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề cương chính trị - Phần II, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ CƯƠNG CHÍNH TRỊ - PHẦN II 16/ Nêu khái niệm và các thuộc tính cơ bản của hàng hóa. Tại sao nói quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của mọi nên sản xuất hàng hóa. Ý nghĩa của vấn đề đối với việc tổ chức quản lý nền kinh tế ở nước ta hiện nay. a/ Khái niệm và các thuộc tính cơ bản của hàng hóa: * Khái niệm: Hàng hóa là sản phẩm của lao động có thể thỏa mãn nhu cầu nhất định nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán trên thị trường. Cần phân biệt giữa vật thể, vật phẩm và hàng hóa. Có nhiều tiêu thức để phân chia hàng hóa: + Căn cứ vào hình thái tồn tại người ta phân chia hàng hóa thành: hàng hóa vật thể, hàng hóa phi vật thể. + Căn cứ vào chủ thể sở hữu và sử dụng người ta phân chia hàng hóa thành: hàng hóa tư nhân và hàng hóa công cộng. + Căn cứ vào tính chất người ta phân chia hàng hóa thành: hàng hóa thông thường, hàng hóa đặc biệt * Các thuộc tính cơ bản của hàng hóa: - Giá trị sử dụng: + Giá trị sử dụng là công dụng của hàng hóa, nó có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người. + Giá trị sử dụng do thuộc tính tự nhiên của vật phẩm quy định. Giá trị sử dụng là phạm trù vĩnh cửu. + Số lượng công dụng (giá trị sử dụng) của hàng hóa ngày càng tăng theo sự phát triển của khoa học – công nghệ và trình độ của nền sản xuất xã hội. + Giá trị sử dụng của hàng hóa tạo thành nội dung của cải vật chất và là cơ sở để cân đối về mặt hiện vật (thiếu – cân đối – thừa). + Trong nền kinh tế hàng hóa, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi. Giá trị hàng hóa: Muốn hiểu được giá trị của hàng hóa phải đi từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi là quan hệ tỷ lệ thuận về lượng mà những giá trị trao đổi khác nhau trao đổi với nhau. Lao động hao phí để sản xuất ra hàng hóa là cơ sở chung của sự trao đổi gọi là giá trị hàng hóa. Vậy giá trị hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện bên ngoài của giá trị; giá trị là nội dung bên trong, là cơ sở của sự trao đổi, giá trị thay đổi thì giá trị trao đổi cũng thay đổi theo. Giá trị của hàng hóa được hình thành trong quá trình sản xuất vật chất và được biểu hiện thông qua trao đổi, mua bán trên thị trường, lấy tiền tệ làm thước đo, tính toán. Sự biểu hiện bằng tiền của giá trị gọi là giá cả. Trong nền kinh tế hàng hóa, quan hệ giữa những người sản xuất hàng hóa chủ yếu được thể hiện thông qua trao đổi mua bán, lấy giá trị làm cơ sở. Vì vậy, giá trị phản ánh quan hệ sản xuất xã hội. Giá trị hàng hoá là một phạm trù lịch sử, ra đời và tồn tại gắn liền với sự ra đời và tồn tại của nền sản xuất hàng hóa. b/ Nói quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của mọi nền sản xuất hàng hóa vì nó đã: Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa: Thông qua quan hệ cung – cầu và giá cả thị trường, quy luật giá trị tự phát phân bố các yếu tố sản xuất vào các nghành, các khu vực khác nhau của nền sản xuất xã hội, làm mở rộng quy mô sản xuất nghành này, thu hẹp quy mô sản xuất nghành kia. + Khi cung giá trị: sản xuất hàng hóa có lợi nhuận, kích thích mở rộng quy mô sản xuất. + Khi cung > cầu → giá cả < giá trị: sản xuất không có lợi nhuận, quy mô sản xuất thu hẹp. Thông qua quy luật cung – cầu và sự chênh lệch giá cả hàng hóa trên thị trường, quy luật giá trị tự điều phối nguồn hàng trong lưu thông. Hàng hóa sẽ di chuyển từ nơi có giá cả thấp đến nơi có giá cả cao hơn, tạo ra sự hợp lý giữa các ngành, giữa các vùng, các miền, giữa sản xuất và tiêu dùng. - Kích thích cải tiến kĩ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển Trong nền kinh tế hàng hóa, mỗi người sản xuất hàng hóa là một chủ thể kinh tế độc lập, tự quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Nhưng do điều kiện sản xuất khác nhau nên hao phí lao động cá biệt khác nhau, người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội cần thiết sẽ có lợi thế cạnh tranh, bán hàng thu được lợi nhuận cao. Ngược lại, người sản xuất nào có hao phí lao động cá biệt lớn hơn hao phí lao động xã hội cần thiết sẽ ở thế bất lợi, lỗ vốn. Vì vậy, để giành lợi thế trong cạnh tranh và tránh nguy cơ vỡ nợ, phá sản, họ phải luôn tìm mọi biện pháp để hạ thấp hao phí lao động cá biệt của mình, sao cho xuống dưới hoặc ít ra là bằng bằng mức hao phí lao động xã hội cần thiết. Muốn vậy, họ phải quan tâm đến cải tiến máy móc, thiết bị, công cụ lao động, ứng dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ, tiến hành phân công lại lao động, hợp lý hóa sản xuất, triệt để tiến hành tiết kiệm, đào tạo bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho người lao động, Kết quả là năng suất lao động xã hội được nâng cao, lực lượng sản xuất xã hội phát triển mạnh mẽ. -Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hóa những người sản xuất thành người giàu, người nghèo Quy luật giá trị tự nó thực hiện bình tuyển tự nhiên, đào thải loại bỏ các cơ sở kinh tế yếu kém, thúc đẩy nhanh quá trình tích tụ, tập trung sản xuất, đưa nền sản xuất nhỏ lên nền sản xuất lớn; nhưng đồng thời cũng làm phân hóa những người sản xuất hàng hóa thành người giàu người nghèo, sinh ra những hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Trong nền sản xuất hàng hóa, những chủ thể kinh tế có điều kiện sản xuất kinh doanh thuận lợi: vốn lớn, có trình độ, kiến thức cao, kỹ thuật – công nghệ tốt, đội ngũ công nhân lành nghề, có hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, nhờ đó phát tài, giàu lên nhanh chóng. Ngược lại, những người không có điều kiện sản xuất kinh doanh thuận lợi, làm ăn kém cỏi hoặc gặp rủi ro trong kinh doanh nên bị thua lỗ dẫn đến phá sản trở nên nghèo khó. c/ Ý nghĩa của vấn đề đối với việc tổ chức quản lý nền kinh tế ở nước ta hiện nay. 17/ Trình bày quá trình sản xuất giá trị thặng dư. Tại sao nói sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản a/ Trình bày quá trình sản xuất giá trị thặng dư: b/Nói sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản tuyệt đối của chủ nghĩa tư bản: Nội dung quy luật: Mỗi phương thức sản xuất có một quy luật kinh tế tuyệt đối, phản ánh mối quan hệ kinh tế bản chất nhất của phương thức sản xuất đó. Sản xuất giá trị thặng dư ( phần giá trị lòi ra ngoài giá trị sức lao động do nhân công làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không) phản ánh mối quan hệ kinh tế bản chất nhất của chủ nghĩa tư bản, quan hệ tư bản bóc lột lao động làm thuê. Quy luật này quy định rõ mục đích của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa (TBCN). Mục đích duy nhất của nền sản xuất TBCN là sản xuất ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Các nhà tư bản chỉ có một mục đích là chiếm đoạt tối đa giá trị thặng dư do công nhân sáng tạo ra. Quy luật này chỉ rõ phương thức để chiếm đoạt giá trị thặng dư. Để đạt được mục đích nói trên, các nhà tư bản không chừa một thủ đoạn nào, huy động them vốn, thuê them nhân công, mua them máy móc, cải tiến công cụ lao động, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghề vào sản xuất kinh doanh, tổ chức lại sản xuất, đào tạo nâng cao tay nghề người lao động, hối thúc công nhân làm việc, thậm chí kéo dài thời gian ngày lao động cũng chỉ nhằm để chiếm đoạt khối lượng giá trị thặng dư nhiều hơn mà thôi. Dưới CNTB, đây là quy luật kinh tế chi phối tất cả các quy luật khác, quy định và chi phối toàn bộ quá trình vận động, phát triển của nền kinh tế TBCN. Quy luật giá trị thặng dư vừa là động lực thúc đẩy nền sản xuất TBCN phát triển nhanh, hiệu quả cao, vừa lam tăng mâu thuẫn cơ bản trong nền kinh tế TBCN( mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất phát triển cao với quan hệ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất); chỉ ra xu thế tất yếu của lịch sử và tạo tiền đề vật chất để cho một xã hội mới – xã hội cộng sản chủ nghĩa văn minh hơn, hoàn thiện hơn ra đời thay thế chủ nghĩa tư bản. Những đặc điểm mới( biểu hiện mới): + Một là, kỹ thuật và công nghệ hiện đại được áp dụng ngày càng rộng rãi nên khối lượng giá trị thặng dư được tạo ra chủ yếu nhờ tăng năng suất lao động. + Hai là, cơ cấu lao động xã hội ở các nước tư bản phát triển hiện nay có sự biến đổi lớn, lao động trí tuệ, lao động có trình độ kỹ thuật cao ngày càng có vai trò quyết định trong quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư. + Ba là, sự bóc lột của các nước tư bản phát triển trên phạm vi quốc tế ngày càng mở rộng với nhiều hình thức khác nhau. Sự cách biệt giữa các nước giàu và các nước nghèo ngày càng gia tăng và đang trở thành mâu thuẫn nổi bật trong thời đại ngày nay. Ý nghĩa của việc nghiên cứu quy luật: Một mặt, việc nghiên cứu quy luật này cho ta thấy rõ bản chất của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa là quan hệ bóc lột của các nhà tư bản đối với người lao động làm thuê. Mặt khác, nếu gạt bỏ đi tính chất bóc lột của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa thì việc huy động đầu tư thêm vốn, tăng thêm nhân công, mua thêm máy móc, cải tiên công cụ lao động, tổ chức lại sản xuất, đào tạo nâng cao tay nghề cho người lao động, tăng cường các phương tiện kỹ thuật, công nghệ và phương pháp quản lí hiện đại trong sản xuất kinh doanh sẽ tạo ra được một khối lượng giá trị sản phẩm thặng dư lớn. Điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. 18/ Trình bày các đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền Theo Lênin, chủ nghĩa tư bản độc quyền có 5 đặc điểm kinh tế cơ bản. a/ Tập trung sản xuất và các tổ chức độc quyền Tập trung sản xuất đến một trình độ nhất định sẽ dẫn đến độc quyền. Tổ chức độc quyền thực chất là những xí nghiệp lớn hoặc liên minh giữa các xí nghiệp lớn tư bản chủ nghĩa nắm trong tay phần lớn công việc sản xuất và tiêu thụ một số loại hàng hóa, định ra giá cả độc quyền và thu lợi nhuận độc quyền cao. Hình thức của các tổ chức kinh tế độc quyền: Cascten, Xanhđica, Tơrơt, Côngxoócxiom. b/ Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính Tư bản tài chính là sự thâm nhập và dung hợp vào nhau giữa tư bản độc quyền trong ngân hàng và tư bản độc quyền trong công nghiệp. Sự hình thành các tổ chức độc quyền ngân hàng, bắt đầu từ tích tụ, tập trung trong công nghiệp. Quy mô công nghiệp lớn đòi hỏi phải có ngân hàng lớn, mặt khác do cạnh tranh dẫn đến tích tụ tư bản tập trung trong ngân hàng. Sự xâm nhập của ngân hàng vào công nghiệp bằng cách khống chế hoạt động của các khách hàng công nghiệp; đưa người vào các cơ quan giám sát của các tổ chức độc quyền công nghiệp; mua cổ phiếu của các công ty làm ăn phát đạt và cử người vào ban quản trị Quá trình xâm nhập của các tổ chức độc quyền công nghiệp vào ngân hàng thông qua con đường mua nhiều cổ phần của các ngân hàng lớn hoặc lập ngân hàng riêng cho họ. Tư bản tài chính là kết quả của sự hợp nhất giữa các tổ chức độc quyền ngân hàng và các tổ chức độc quyền công nghiệp. Tư bản tài chính ra đời làm, cho tư bản sở hữu và tư bản chức năng tách rời cao độ. Sự tách rời này là cơ sở cho sự ra đời mọi loại chứng khoán và mở rộng thị trường tiền tệ. Nó đẫn đến việc hình thành kẻ thực lợi và các nước thực lợi. Đây là bước phát triển và chin muồi hơn nữa của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Hình thức tổ chức của tư bản tài chính: Tập đoàn tư bản tài chính bao gồm hàng loạt công ty công, thương nghiệp độc quyền hoạt động dựa vào nguồn tài chính chủ yếu do một số ngân hàng lớn cung cấp. Cơ chế thống trị của tư bản tài chính: Tư bản tài chính thiết lập sự thống trị của mình đối với nền kinh tế thông qua chế độ tham dự; chế độ ủy thác; lập công ty mới, phát hành trái khoán, đầu cơ chứng khoán Thế lực của tư bản tài chính về kinh tế nắm các huyết mạch quan trọng, các nghành then chốt, về chính trị chi phối mọi đường lối đối nội và đối ngoại. c/ Xuất khẩu tư bản Xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài ( đầu tư tư bản ra nước ngoài) nhằm mục đích bóc lột giá trị thặng dư của các nước nhập khẩu tư bản. Xuất khẩu tư bản trở thành hiện tượng kinh tế phổ biến vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, do một số ít nước phát triển đã tích lũy được một lượng tư bản lớn, trong khi các nước lạc hậu thiếu vốn để phát triển. Xuất khẩu tư bản trở thành biện pháp làm giảm mức độ gay gắt đó. Nếu xét cách thức đầu tư, các hình thức xuất khẩu tư bản, gồm: + Đầu tư trực tiếp: Xây dựng xí nghiệp mới, mua lại các xí nghiệp đang hoạt động. + Đầu tư gián tiếp: Cho vay để thu lãi. Nếu xét theo chủ thể sở hữu, xuất khẩu tư bản, gồm: Xuất khẩu tư bản tư nhân và xuất khẩu tư bản nhà nước. Nhà nước tư bản đầu tư vào nước nhập khẩu tư bản hoặc viện trợ hoàn lại hay không hoàn lại nhằm các mục tiêu: * Kinh tế: Hướng vào các ngành kết cấu kết cấu hạ tầng để tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư tư nhân. * Chính trị: Cứu vãn chế độ chính trị thân cận, hoặc tạo ra các mối quan hệ phụ thuộc lâu dài. * Quân sự: Lôi kéo các nước phụ thuộc vào các khối quân sự. - Nếu xét về hình thức hoạt động + Chi nhánh của các công ty xuyên quốc gia. + Hoạt động tài chính tín dụng của các ngân hàng. + Các trung tâm tín dụng và chuyển giao công nghệ. Trong giai đoạn phát triển hiện nay của các nước tư bản chủ nghĩa, xuất khẩu tư bản có những biểu hiện mới Một là: Hướng xuất khẩu tư bản hiện nay đã có sự thay đổi cơ bản. Trước đây luồng xuất khẩu tư bản chủ yếu từ các nước phát triển sang các nước kém phát triển (70%). Những năm gần đây đại bộ phận dòng đầu tư lại chảy qua lại giữa các nước tư bản với nhau, đặc biệt bat rung tâm: Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản. Hai là: Chủ thể của xuất khẩu tư bản có sự thay đổi lớn. Vai trò của các công ty xuyên quốc gia ngày càng lớn đặc biệt trong FDI ( những năm 90 các công ty xuyên quốc gia đã chiếm 90% nguồn vốn FDI). Xuất hiện nhiều chủ thể xuất khẩu tư bản từ các nước đang phát triển nổi bật là châu Á. Ba là: Hình thức xuất khẩu tư bản đa dạng, sự đan quyện xuất khẩu tư bản với xuất khẩu hàng hóa tăng lên. Bốn là: Sự áp đặt mang tính chất thực dân trong xuất khẩu tư bản đã được gỡ bỏ và nguyên tắc cùng có lợi được đề cao. Xuất khẩu tư bản mang tính hai mặt. Một mặt, làm cho quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển và mở rộng ra địa bàn quốc tế, thúc đẩy nhanh quá trình phân công lao động và quốc tế hóa đời sống kinh tế của nhiều nước, làm cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở các nước nhập khẩu tư bản phát triển nhanh chóng. Mặt khác để lại trong các quốc gia nhập khẩu tư bản những hậu quả nghiêm trọng: nền kinh tế phát triển mất cân đối và lệ thuộc, nợ nần chồng chất do bị bóc lột nặng nề. d/ Phân chia thế giới về kinh tế giữa các tổ chức độc quyền: Sự phân chia thế giới về kinh tế giữa các lien minh độc quyền thực chất là phân chia thị trường tiêu thụ hàng hóa, nguồn nguyên liệu và đầu tư. Biểu hiện mới của sự phân chia thị trường trong giai đoạn hiện nay Một là: chủ thể phân chia thị trường thế giới không chỉ là các tổ chức độc quyền quốc gia mà bên cạnh đó còn có các nhà tư bản phát triển và đang phát triển. Hai là: kết quả của việc phân chia kinh tế thế giới hình thành các lien minh và các khối lien kết kinh tế điển hình: + Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EEC) – 1957, tiến tới hình thành Liên minh châu Âu(EU) – 1992, và từ ngày 1-1-1999 đồng tiền chung châu Âu ra đời. + Khối thị trường chung châu Mỹ( dự định hoàn tất vào năm 2010) bằng cách tưng bước mở rộng khối mậu dịch tự do Bắc Mỹ(NAFTA) gồm: Canada, Mêhicô và Mỹ. + Việc tham gia liên minh của một loạt nước đang phát triển nhằm chống lại sức ép của các cường quốc tư bản như: Hiệp hội các nước Đông Nam Á(ASEAN). Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ( OPEC). Thị trương chung vùng chóp nón Nam Mỹ (MERCOSUR) gồm bốn nước: Braxin, Achentina, Urugoay, Paragoay. e/ Sự phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc Bản chất của sự phân chia lãnh thổ thế giới( hay còn gọi là phân chia chính trị) là thực hiện chủ nghĩa thực dân hình thành hệ thống thuộc địa. Ngoài ra còn có hình thức mà Lênin gọi là hình thức quá độ đó là tạo ra sự phụ thuộc về tài chính. Các cường quốc đế quốc ra sức xâm chiếm các nước chậm phát triển để làm thuộc địa nhằm giành thị trường tiêu thụ hàng hóa, nguồn nguyên liệu, nơi đầu tư có lợi và căn cứ quân sự. Biểu hiện mới của sự phân chia lãnh thổ trong giai đoạn hiện nay: + Phong trào giải phóng dân tộc đã làm sụp đổ hệ thống thuộc địa kiểu cũ. Các cường quốc đế quốc chuyển sang thi hành chính sách thực dân kiểu mới, mà nội dung chủ yếu của nó là dùng viện trợ kinh tế, kỹ thuật, quân sự... để duy trì sự lệ thuộc của các nước đang phát triển vào các nước đế quốc. + Sự vận động của thế giới về chính trị đã có mối quan hệ chặt chẽ với kinh tế. 19/ Trình bày tính tất yếu và những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội. Nêu những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội ở nước ta a/ Trình bày tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội: Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã tuần tự trải qua các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao. Đó là một quá trình lịch sử tự nhiên. Mỗi hình thái kinh tế xã hội tương ứng với một kiểu quan hệ sản xuất đặc thù phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và một kiên trúc thượng tầng được xây dựng trên quan hệ sản xuất đó. Trong xã hội tư bản, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ tạo ra một lực lượng sản xuất với khối lượng đồ sộ lớn hơn hẳn của tất cả các xã hội trước đó cộng lại. Tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất đã xã hội hóa và phát triển cao, dần vượt khỏi khuôn khổ mà quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa có thể dung hợp, điều khiển và quản lý. Sản xuất càng phát triển thì lực lượng sản xuất càng mâu thuẫn với quan hệ sản xuất trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Biểu hiện về mặt kinh tế của mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất đã xã hội hóa cao với quan hệ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất là các cuộc khủng hoảng kinh tế, đình đốn sản xuất, đe dọa đến sự tồn tại và thống trị của chủ nghĩa tư bản. Mâu thuẫn đó biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản như: bãi công, bãi thị, biểu tình thị uy sức mạnh đòi quyền lợi về dân sinh và dân chủ, cải thiện đời sống và làm việc liên tiếp nổ ra. Cuộc đấu tranh giai cấp sẽ phát triển thành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa để thay thế chủ nghĩa tư bản bằng việc thiết lập chủ nghĩa xã hội, tiến tới chủ nghĩa cộng sản. Cách mạng xã hội chủ nghĩa là điều kiện để giải phóng lực lượng sản xuất đã xã hội hóa cao ra khỏi quan hệ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đang kìm hãm, cản trở nó, đồng thời giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động khỏi sự áp bức bóc lột của giai cấp tư sản. Cách mạng xã hội chủ nghĩa là con đường tất yếu để xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, làm cho wuan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, giải phóng sức sản xuất của xã hội, đồng thời giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Như vậy, chủ nghĩa xã hội tất yếu sẽ ra đời trên cơ sở tiền đề vật chất kỹ thuật, kinh tế - xã hội, văn hóa mà chủ nghĩa tư bản đã tạo ra, thông qua cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nhằm thiết lập chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động để tiến hành cải tạo toàn bộ xã hội cũ và từng bước xây dựng xã hội mới. Thời kỳ hiện nay – thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới – đã và đang mở ra khả năng cho nhiều nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế lạc hậu chậm phát triển, khi cuộc cách mạng ở đây do giai cấp công nhân lãnh đạo giành thắng lợi, chính quyền thuộc về giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Tuy nhiên do xuất phát từ trình độ phát triển còn thấp kém, các nước này sau khi thiết lập chính quyền của nhân dân phải có thời gian dài để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, tận dụng mọi cơ hội do thời đại tạo ra để đẩy nhanh, “rút ngắn” sự phát triển, xây dựng cả cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, xây dựng cả đời sống vật chất lẫn đời sống tinh thần cho toàn xã hội, từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. b/ Những đặc trưng cơ bản chủ nghĩa xã hội: Sau khi giành được chính quyền Nhà nước về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân và nhân dân lao
Tài liệu liên quan