Điện - Điện Tử - Chương VI: An toàn điện

Chương VI. An toàn điện Nguyên tắc cơ bản nhất trong các hệ tiêu chuẩn về an toàn xây lắp điện là phải bảo vệ được những điều sau đây : + Bảo vệ chống điện giật + Bảo vệ chống các tác động nhiệt do điện gây ra + Bảo vệ chống dòng điện có điện áp quá mức được phép + Bảo vệ chống rò điện ra các vật và môi trường để có thể gây tai nạn + Bảo vệ chống nhiễu loạn điện áp. Những điều trên đây nhằm bảo vệ con người, bảo vệ tài sản và đảm bảo an toàn cho mọi hoạt động. 1. Tai nạn do điện có thể có trên công trường Việc sử dụng điện trên các công trường làm cho năng suất lao động lên cao. Cơ giới hoá thi công không thể tách rời việc sử dụng điện. Điện là năng lượng chính để làm các động cơ hoạt động.

pdf77 trang | Chia sẻ: hoang10 | Lượt xem: 499 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Điện - Điện Tử - Chương VI: An toàn điện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
117 Chương VI. An toàn điện Nguyên tắc cơ bản nhất trong các hệ tiêu chuẩn về an toàn xây lắp điện là phải bảo vệ được những điều sau đây : + Bảo vệ chống điện giật + Bảo vệ chống các tác động nhiệt do điện gây ra + Bảo vệ chống dòng điện có điện áp quá mức được phép + Bảo vệ chống rò điện ra các vật và môi trường để có thể gây tai nạn + Bảo vệ chống nhiễu loạn điện áp. Những điều trên đây nhằm bảo vệ con người, bảo vệ tài sản và đảm bảo an toàn cho mọi hoạt động. 1. Tai nạn do điện có thể có trên công trường Việc sử dụng điện trên các công trường làm cho năng suất lao động lên cao. Cơ giới hoá thi công không thể tách rời việc sử dụng điện. Điện là năng lượng chính để làm các động cơ hoạt động. Việc sử dụng điện mang lại lợi ích to lớn cho sản xuất nhưng phải tiến hành những biện pháp phòng ngừa tai nạn do điện gây ra cho người sản xuất. Một tỷ lệ cao ( trên 70%) với các vụ cháy là do các trang bị điện không hợp chuẩn. Trong những tai nạn về điện thì không ít hơn 30% vụ gây chết người. Việc loại trừ tai nạn về điện cần được tính toán ngay từ khi thiết kế các biện pháp thi công. Mọi khả năng gây tai nạn do điện sinh ra cần được phòng 118 ngừa trước. Cần lập biện pháp phòng ngừa và kiên quyết thực hiện những biện pháp phòng ngừa tai nạn về điện làm cho sản xuất được an toàn và điều này cũng chính là góp phần cho sản xuất đạt các mục tiêu của nó. Tai nạn do điện có thể gây ra trên công trường quy tụ lại ba dạng chính:  Da người bị tiếp xúc trực tiếp với dây dẫn hoặc thiết bị đang mang điện.  Da tiếp xúc trực tiếp vói kim loại của thiết bị điện có cách điện nhưng phần cách điện bị hư hỏng.  Thân thể người lao động tiếp xúc với điện dò rỉ trong đất do dây điện bị đứt chạm xuống đất mà sự tiêu tán dòng điện chưa đáp ứng các yêu cầu về an toàn. Hiện tượng này gọi là “điện áp bước”. Còn một dạng tai nạn đã xảy ra do người lao động không tuân thủ nghiêm túc các quy trình đóng cắt điện. Đóng hoặc cắt điện mà không kiểm tra kỹ những mối liên quan đến mạch điện sẽ được thao tác: đóng điện khi có bộ phận đang vận hành các thao tác trong mạng mà không được báo trước. Ngắt điện đột ngột làm người thi công không chuẩn bị trước phương pháp đề phòng tai nạn cũng như các thao tác sản xuất thích hợp. 2. Tác hại của dòng điện đi qua cơ thể người Dòng điện có điện áp trên 36 vôn đi qua cơ thể người gây ra sự huỷ hoại các tế bào của người hoặc làm hệ thần kinh có những phản xạ tiêu cực. Sự ảnh hưởng đến sức khoẻ con người do dòng điện gây ra tuỳ thuộc điện áp, điện trở của người, cường độ dòng điện của dây tải điện, tấn số và loại òng điện. Sự tác hại của dòng điện đi qua cơ thể lại phụ thuộc đường đi của dòng điện và thời gian tác động của dòng điện. Những điều kiện ngoại vi như độ 119 ẩm của môi trường, vật liệu của kết cấu mà cơ thể tiếp xúc như sàn nhà, ghế ngồi ... Điện áp sử dụng khá phổ biến của các máy móc và trang bị mang điện trên công trường xây dựng thường là 127, 220 và 380 vôn, hiện nay có thể dùng đến 1000 vôn. Điện truyền được qua cơ thể thông qua lớp sừng ngoài da. Nếu da khô thì điện trở của lớp sừng này từ 60.000 đến 400.000 Ohm/cm2. Nếu da bị ướt hoặc có mồ hôi, điện trở của lớp sừng ngoài da chỉ còn trên dưới 100 Ohm/cm2. Da nhiều mồ hôi thì điện trở lớp sừng ngoài da còn 1000 Ohm/cm2. Điện áp cao thì lớp sừng ngoài da bị huỷ hoại nhanh. Điện áp thấp thì lớp sừng huỷ hoại chậm hơn. Trong tính toán , thường lấy điện trở của lớp sừng ngoài da là 1000 Ohm/cm2. Khi da bị ẩm hoặc nhiều mồ hôi thì điện trở của da giảm rõ rệt. Dòng điện qua cơ thể người ta gây ra những phản ứng làm thay đổi trạng thái thần kinh, biến đổi thành phần máu hay gây cháy bỏng. Người ta bắt đầu cảm thấy có dòng điện qua cơ thể khi cường độ dòng điện khoảng 0,6 ~ 1,5 mA với dòng xoay chiều, tần số công nghiệp là 50 hertz và 5~7 mA đối với dòng điện một chiều. Tác hại của dòng điện qua cơ thể người tuỳ thuộc dòng điện mới tiếp xúc ( dạng 1 ), dòng điện dẫn qua cơ thể ( dạng 2 ) và dòng điện bị giữ lại cơ thể ( dạng 3). Dòng điện mới tiếp xúc với cơ thể( dạng 1 ) người ta thường nằm trong khoảng 0,6 ~ 5 mA. Dòng điện mới tiếp xúc với cơ thể được coi là khi người ta còn có khả năng tự tách mình ra khỏi mạng điện. Dòng điện dẫn qua cơ thể ( dạng 2) trong phạm vi 15 mA với dòng điện xoay chiều và 50 ~ 80 mA với dòng một chiều. Dòng điện lưu giữ lại trong cơ thể ( dạng 3) khoảng 15~20 mA với dòng xoay chiều và 80 mA với dòng một chiều. Dòng điện dẫn qua cơ thể người ta ( dạng 2) có thể coi là ít nguy hiểm vì không gây tác 120 hại ngay. Nhưng nếu không tách được dòng điện nhanh khỏi cơ thể thì số trị của dòng điện bị tăng làm cho cơ thể bị tê liệt. Dòng điện lưu giữ lại trong cơ thể ( dạng 3) rất nguy hiểm vì dòng này gây ra co giật hệ thống thần kinh, cơ bắp bị co dật mạnh và sau đó bị tê liệt, trước mắt là cơ thể không thể tự điều khiển được. Hiện tượng tiếp theo là ngưng tim, ngưng thở. Nhiêù nghiên cứu về tai nạn điện cho thấy chỉ cần dòng xoay chiều 25 ~ 30 mA đã rất nguy hiểm. Trên 50 mA có thể gây ra tai nạn nặng đến mức chết người. Dòng điện trên 0,1 A , tức là 100 mA thường gây chết người. Về tần số thì tần số điện phổ thông là 50 hoặc 60 Hertz rất nguy hiểm. Tần số cao lên độ nguy hiểm lại giảm đi. Khi tần số dòng điện trên 1000 Hertz thường không gây ra ảnh hưởng đến hệ thần kinh mà chỉ gây bỏng cục bộ. Trong y tế, nhiều loại thiết bị điện lại lợi dụng tần số điện cao để điều trị một số bệnh. Vị trí của cơ thể tiếp xúc với dòng điện hết sức quan trọng vì nó tạo ra luồng điện dẫn qua cơ thể. Ta hình dung ra dòng điện qua cơ thể phải dẫn từ nguồn có điện đến đất hoặc vật kim loại để dẫn tiếp. Thông thường, dòng điện đi từ tay phải, qua cơ thể dẫn xuống chân để nối với đất là luồng nguy hiểm nhất đối với cơ thể người. Luồng này dẫn dòng điện qua tim và phổi nên dễ gây tử vong. Luồng điện đi qua người từ chân nọ sang chân kia để dẫn tiếp ít nguy hiểm hơn vì dòng điện ngắn nhất không đi qua các bộ phận điều khiển sự sống quan trọng trước mắt của cơ thể như tim, óc, phổi. Thời gian tác động của dòng điện qua cơ thể càng dài, càng nguy hiểm. Dòng điện qua cơ thể ngắn hơn 0,2 giây chưa gây nguy hiểm. Từ 0,5 giây bắt đầu gây nguy hiểm cho người. 3. Tai nạn điện với hệ thống dây dẫn : trên không và cáp ngầm 121 Trong mạng điện xoay chiều có điện áp dưới 1000V, mỗi dây dẫn điện làm cách li với đất. Trị số điện trở cách điện của các dây dẫn được lấy theo kết quả tính toán là 1000 Ohm/V . Vôn ở dây là điện áp của mạng. Có thể lấy điện trở của dây dẫn là Rcd = 1000 Ohm. Điện trở của dây dẫn đối với đất khi cho thế năng của đất là 0 bao gồm điện trở cách điện của dây dẫn, của các điện trở mắc vào dây trên đường từ dây dẫn đến đất có tổng điện trở là Rcd . Dòng điện đi qua dây dẫn có điện trở Rcd gọi là dòng điện rò . Trị số của dòng điện rò được giới hạn là 10A. Khi người bị chạm với một cực ( một dây ) đối với phần dẫn điện điện trở của người coi như mắc song song với điện trở cách điện của pha đó. Nếu chạm phải hai dây trong mạng ba pha hoặc một pha với dây trung hoà, tạo nên mạch kín mà người coi như nối tiếp với mạch điện rất nguy hiểm đến tính mạng. Sau đây là một vài khái niệm định lượng trong tính toán: Khi người chạm phải một pha có điện, mạch điện đang có các điện trở khác thì dòng điện đi qua người có điện trở Rn sẽ là: ]A[==In Rcd+Rn2 U Khi tiếp xúc với một pha không có điện trở khác hay hai pha ở hai vị trí khác nhau , có thể coi người là vật dẫn điện có điện trở Rn được mắc theo kiểu nối tiếp , lúc này sẽ có dòng điện qua người sẽ là: ( )A, Rn U =In Nếu điện trở của người chỉ là 1000 Ohm hoặc nhỏ hơn thì người chắc chắn sẽ bị tử vong. Tai nạn về điện xảy ra với người do dây dẫn trần trên không thường hay gặp là bộ phận cơ thể người chạm phải dây dẫn điện. Người cầm hay mang vác 122 thanh kim loại hoặc cây dài , ẩm, va chạm phải dây dẫn trên không cũng là lý do để điện giật. Đã có nhiều tai nạn khi xây dựng dưới hoặc gần đường điện trên không, công nhân chuyển những thanh thép dài để va chạm phải dây dẫn nên bị điện giật. Không ít trường hợp công nhân thao tác trên đầu cột cao mà dây dẫn đang mang điện bị điện giật do va chạm với dây điện. Một dạng tai nạn có thể xảy ra do đường điện trên không cắt ngang trên đường lộ bên dưới không đảm bảo khoảng cách giữa mặt đường đến đường dây theo đúng quy định để vướng với phương tiện xe cộ di chuyển bên dưới, nhất là khi xe chất tải quá cao. Đường dây dẫn trên không vượt qua đường giao thông bên dưới phải đảm bảo độ cao tối thiểu là 6 mét. Phải có tín hiệu treo trên dây điện nhắc nhở độ cao của dây dẫn theo đúng quy định về đường dây điện vượt ngang đường lộ. Đối với dây cáp đi ngầm tai nạn thường xây ra do máy đào đất hoạt động va chạm với dây cáp dẫn. Khi lập biện pháp thi công đào đất cần cắm chỉ giới cho máy đào để không gây tai nạn dạng này. Trong nhiều trường hợp, phải ngắt điện trong dây cáp khi thi công đào đất gần đường cáp để đảm bảo an toàn tuyệt đối cho công nhân đào đất cũng như cho đường cáp. Máy móc nặng di chuyển đè lên đường cáp ngầm bên dưới mà đường cáp chôn không đủ độ sâu cần thiết hoặc cáp không đi trong ống bảo vệ đúng quy cách cũng là nguyên nhân gây đứt cáp, điện bị rò qua đất gây tai nạn. Đường cáp cắt ngang đường giao thông phải chôn ở độ sâu sao cho áp lực của xe cộ di chuyển bên trên không làm cáp bị dãn dài gây nguy hiểm. Cáp đi dưới đường giao thông phải luồn trong ống thép hoặc ống bê tông mà đường kính ống phải lớn hơn đường kính của dây cáp tối thiểu ba lần. 4. Tai nạn điện khi vận hành thiết bị điện 123 Khi vận hành thiết bị điện cần được trang bị các nghi khí cách điện , đảm bảo an toàn tuyệt đối. Công nhân phải đứng làm các thao tác trong môi trường khô ráo, chân đứng có thảm cách điện. Chân phải mang giày đảm bảo độ cách điện. Tay người công nhân phải đi găng cách điện. Phải mang kính và có mũ cách điện. Khi tiếp xúc với các bộ phận kim loại đang có điện phải dùng các dụng cụ chuyên có độ cách điện thoả đáng. Những dụng cụ này phải được thường xuyên kiểm tra độ cách điện đáp ứng các yêu cầu về an toàn sử dụng điện. Hiện nay phần vận hành thiết bị điện đã tự động hoá cao, điều khiển bằng máy tính. Cần khai thác hết khả năng này. Khi điều khiển hệ thiết bị điện lẻ theo phương pháp thủ công, phải đảm bảo các điều kiện trang bị cho công nhân như yêu cầu trên. Tai nạn hay xảy ra khi vận hành thiết bị điện và biện pháp ngăn ngừa phải như sau:  Môi trường vận hành ẩm ướt. Với những điều kiện môi trường ẩm ướt, phải có biện pháp thích ứng mới được vận hành.  Trang bị cá nhân không đủ đáp ứng các yêu cầu cách điện cho mọi bộ phận cơ thể có khả năng va chạm với các bộ phận mang điện. Không đủ điều kiện trang bị an toàn, không vận hành thiết bị điện.  Va đập dụng cụ kim loại đang cầm tay vào các bộ phận có điện. Phải hết sức chú ý khi thao tác và mọi dụng cụ phải có tay cầm đủ cách điện với điện áp tương ứng.  Khi lên cao , mặt đứng không đủ vững chãi, không đủ độ cách điện. Phải có sàn đứng vững chãi và mặt chân đứng phải có lớp thảm hoặc lớp đệm cách điện. 124  Mọi công việc vận hành thiết bị điện cần đứng trên cao phải có một tổ công tác ít nhất hai người, một người thao tác và một người cảnh giới, nhắc nhở điều kiện an toàn.  Mọi thiết bị điện phải có nối đất để dòng điện song song qua người nếu xảy ra là nhỏ, không đủ gây tử vong hay tai nạn. 5. Tai nạn điện do thao tác kỹ thuật Người công nhân vận hành các thiết bị điện và thi công sử dụng điện phải được huấn luyện về an toàn sử dụng điện. Mọi thao tác của công nhân phải thuần thục, hạn chế tối đa các thao tác do không thuần thục mà va chạm với các thiết trí điện. Người công nhân phải được trang bị cách điện cho cá nhân đầy đủ và chỉ thi công khi đã mang đầy đủ các trang bị bảo vệ cách điện. Trèo cao trên cột điện, trên sàn thao tác các thiết trí điện phải mang dây an toàn đúng quy định, phải sử dụng đầy đủ trang bị an toàn cho cá nhân như mũ, kính, găng, giày, quần áo. Không bao giờ được làm một mình trên cao mà phải làm theo tổ công tác ít nhất là hai người, một người thi công và một người cảnh giới tai nạn. Trước khi thực hiện thao tác kỹ thuật điện cần kiểm tra mọi điều kiện an toàn. Khi có nghi ngờ, thí dụ chưa rõ ở cuối nguồn điện có ai đó đang thi công hay không, cần kiểm tra trước khi tiến hành đóng điện. Chỉ nối mạch điện khi mọi điều kiện về an toàn đảm bảo tuyệt đối. 6. Tai nạn điện do nơi làm việc bị ẩm hoặc thấm nước Môi trường làm việc liên quan đến an toàn sử dụng điện được chia thành ba nhóm: 125  Các phòng ít nguy hiểm về điện là phòng có môi trường không khí tương đối khô. Độ ẩm tương đối của không khí không quá 75% khi nhiệt độ từ 5 ~ 25oC. Sàn của loại phòng này có điện trở lớn và không khí không có các loại bụi dẫn điện bay lơ lửng.  Phòng nguy hiểm nhiều là phòng có độ ẩm lớn trên 75%, nhiệt độ trung bình trên 25oC. Độ ẩm tương đối có lúc nhất thời tăng đến bão hoà như các phòng hấp hơi, phòng đang bảo dưỡng bê tông bằng hơi nước nóng. Một số phòng khô, có hoặc không có lò sưởi và trong phòng được phun ẩm nhất thời. Những phòng có nhiều bụi dẫn điện như phòng nghiền than, xưởng chuốt cốt thép cũng là phòng nguy hiểm nhiều về mặt an toàn điện. Những phòng nguy hiểm còn là phòng có nhiệt độ trên 30oC làm người lao động trong đó luôn chảy mồ hôi. Khi người có mồ hôi, khi va chạm với điện thì mối nguy hiểm tăng gấp bội.  Phòng đặc biệt nguy hiểm là các phòng rất ẩm. Độ ẩm tương đối của loại phòng này xấp xỉ 100%, mặt tường, mặt trần thường xuyên có lớp nước ngưng tụ. Phòng thường xuyên ẩm mà sàn lại dẫn điện như bằng tôn dập chống trơn hoặc có những sàn đứng thao tác bằng tôn. Những phòng gia công chất nổ cũng như các phòng có hơi dễ bắt cháy nổ, các phòng có nhiều bụi khi tạo với không khí thành các hỗn hợp nổ thí dụ như trong các gian nhà kho chứa chất nổ trên công trường thuỷ điện. Tại những phòng này, đường dây dẫn điện phải được thiết kế có độ cách điện cao. Trong mỗi ống dẫn chứa dây điện chỉ được có một dây, không được bố trí nhiều dây dẫn điện. Mọi khí cụ điện đều được chứa trong các hộp mà điều kiện cách điện đủ đảm bảo không gây ra hiện tượng phóng điện. 126 Công nhân thao tác và lao động trong những môi trường nguy hiểm cần được trang bị quần áo đủ độ an toàn cách điện. ánh sáng trong những phòng này cần đầy đủ để nhìn rõ mọi chi tiết của dụng cụ, đồ vật , máy móc đang vận hành và chứa đựng trong phòng. 7. An toàn khi hàn Máy hàn hồ quang điện sử dụng công suất điện lớn, dòng điện qua dây hàn có cường độ cao ( xấp xỉ 100 A ) . Quá trình hàn, đầu que hàn hoặc mỏ hàn phát ra ánh sáng hồ quang đồng thời phát ra các tia hồng ngoại và tia cực tím. ánh sáng hồ quang và các loại tia hồng ngoại, tia cực tím làm hại mắt và da của cơ thể người. Kim loại bị chảy do nhiệt độ cao dưới tác động của dòng điện hoặc hơi cháy làm bắn văng ra xỉ hàn ( gọi là tia lửa hàn) có thể gây bỏng và cháy. Dây dẫn điện hàn thường trải ngay trên mặt sàn đi lại vì máy hàn và vị trí vật được hàn không cố định. Phải thường xuyên kiểm tra độ cách điện của dây dẫn dòng điện hàn. Nếu có dấu hiệu bị trầy, xước phải dán băng cách điện kịp thời, không để điện rò rỉ ra bên ngoài. Nhiều vụ cháy như vụ cháy kho lốp ô tô tại công trường sông Đà, nhà Trung tâm thương mại ITC thành phố Hồ Chí Minh năm 2002 do tia lửa hàn gây ra. Công nhân hàn và người phụ hàn phải đeo kính và mặt nạ để bảo vệ mắt và mặt khỏi bị ánh sáng và các dạng tia làm hại. Công nhân hàn phải mang găng tay đủ dài để bảo vệ tay khỏi bị sức nóng của tia lửa hàn, của kim loại nóng chảy và bức xạ. Công nhân cần mang giày cao cổ để chống tia lửa bắn vào chân. Phải làm những vách ngăn không để người qua lại nhìn trực tiếp 127 vào tia hồ quang. Người vô ý nhìn trực tiếp vào ngọn lửa hồ quang khi đang hàn có thể bị tổn thương mắt do tia bức xạ và các tia cực tím, tia hồng ngoại. Hàn hơi thường dùng khí axêtylen và ôxy. Bình chứa từng loại khí cần để tách biệt vì hốn hợp hai khí này, nếu rò rỉ có thể gây nổ mạnh. Các bình khí hàn phải để xa nguồn nhiệt và ánh nắng mặt trời. Kho chứa các bình khí phải có thông gió thật tốt. Những bình đang dùng phải đặt trên giá hay xe đẩy, không được để đứng đơn độc tự do. Thiết bị cắt ngọn lửa tạt lại của thiết bị hàn hơi phải được lắp trên van điều chỉnh của bình và van một chiều phải được lắp ở đầu ống dẫn, phía có ngọn lửa. ống dẫn khí phải tốt, dễ phân biệt và được bảo vệ chống nóng và chống bị va chạm, bụi bẩn hoặc bị dầu, mỡ bám. Mọi mối nối ( măngxông ) phải chặt, khít, không được rò rỉ. Khi bình axêtylen bị phát nóng, phải khoá van ngay tức thì, phát lệnh báo động sơ tán người khỏi khu vực sẽ nguy hiểm và tìm nước làm lạnh bình nhanh chóng đồng thời phát lệnh báo động cháy, gọi cứu hoả. Khi công nhân đang sử dụng các công cụ cầm tay có điện, phải tắt điện ở các công cụ này trước khi đặt công cụ xuống đất. Tuyệt đối không được để diêm hay bật lửa trong túi khi hàn. Khi hoàn thành các thao tác hàn, phải khoá các van cẩn thận. Không được dùng khí ôxy để phủi bụi trên quần áo. Khi hàn trong môi trường kín, kim loại được hàn trước đây đã sơn, do nhiệt độ cao, khí độc sẽ bốc hơi làm nguy hại cho công nhân. Khi sử dụng một số loại que hàn đặc biệt cũng có thể có khí độc bốc ra gây hại cho công nhân khi hít thở. Nếu môi trường hàn không thể thông gió được thì người lao động phải được trang bị mặt nạ và được cung cấp dưỡng khí. Nếu kim loại hàn có che phủ bề mặt bằng các hợp chất có chứa kim loại chì, kẽm, thuỷ ngân, cadmi thì môi trường hàn nhất thiết phải trang bị hút khói vì những hỗn hợp 128 có các kim loại này rất độc, rất nguy hiểm. Tốt nhất, trước khi hàn những kim loại có phủ bằng sơn hay chất dẻo, hãy tẩy sạch sơn và chất dẻo rồi mới tiến hành hàn. 8. An toàn điện khi hàn trong nước Có hai cách hàn dưới nước là:  Cách hàn ướt  Cách hàn khô Cách hàn dưới nước theo kiểu hàn ướt là hàn trực tiếp trong môi trường nước. Que hàn là loại đặc biệt dùng để hàn dưới nước giống như hàn trên cạn. Hàn kiểu này hiệu quả cao và khá kinh tế. Năng lượng dùng để hàn bố trí trên xuồng ngay trên mặt nước mà bên dưới tiến hành công tác hàn. Nguồn điện hàn là dòng điện không đổi. Dòng điện đạt từ 300 ~ 400 A. Động cơ của loại máy hàn này chuyên dùng để phát ra nguồn điện cho việc hàn dưới nước. Thợ hàn trong nước phải mặc quần áo thợ lặn, cơ thể hoàn toàn cách biệt với nước. Mọi trang bị điện như dây dẫn, mỏ hàn, phải cách nước tuyệt đối. Việc bố trí mạch hàn như sau: 129 Mỏ hàn Que hàn Cầu dao Hàn theo quy trình ướt rẻ và cũng có hiệu quả cao nên được sử dụng phổ biến. Tốc độ hàn nhanh và công tác chuẩn bị tốn ít thời gian. Tuy nhiên kim loại nhúng trong môi trường nước nên bị nguội nhanh, sự phân bố phân tử kim loại không như mẫu kim loại ban đầu mà bị giòn. Tuy nhiên các điều kiện về an toàn lao động khá ngặt nghèo. Như mô tả quá trình công tác hàn thì việc trang bị an toàn cần rất cẩn thận. Những tai nạn có thể xảy ra là bỏng da, rò điện là khả dĩ. Cách hàn khô được chuẩn bị hết sức kỹ càng. Phải làm một buồng kín bọc quanh kết cấu cần hàn. Trong buồng bơm đầy khí, thường là khí helium chứa ôxy có áp suất 0,5 bary.Buồng này gọi là buồng áp lực cao. Công tác hàn tiến hành trong buồng kín này nên chất lượng đảm bảo tốt. Việc hàn xảy ra dưới áp suất cao cân bằng với áp suất của môi trường nước bên ngoài buồng kín chứa kết cấu hàn. Máy phát điện - + nơi hàn 130 Đang hàn dưới nước theo quy trình ướt ảnh đang hàn dưới nước theo quy trình khô Các điều kiện về an toàn rất ngặt nghèo. Người phải hàn trong buồng kín và chịu cảnh áp lực cao, nóng cũng như ánh sáng chói chang của tia lửa
Tài liệu liên quan