Gíao trình công tác chủ nhiệm lớp

Giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường phổ thông nói chung và trường THPT có vị trí đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hệ thống giáo dục của nhà trường . Họ là người thay mặt Hiệu trưởng quản lý, giáo dục toàn diện học sinh một lớp học, là cố vấn cho các hoạt động tự quản của tập thể học sinh, người tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường.

pdf37 trang | Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 5302 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Gíao trình công tác chủ nhiệm lớp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GIÁO TRÌNH CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 1 CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG MỤC TIÊU: Sau khi học xong chương này, sinh viên có khả năng: * Về tri thức: - Trình bày vị trí, chức năng của giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường THPT - Phân tích các nội dung và phương pháp công tác chủ nhiệm lớp * Về kỹ năng - Có kỹ năng thực hiện một số nội dung công tác chủ nhiệm lớp như: tìm hiểu học sinh, thiết kế kế hoạch chủ nhiệm, tổ chức hoạt động tập thể, đánh giá, xếp loại học sinh. - Vận dụng cách thức tác động tay đôi, tác động song song để giáo dục học sinh - Giải quyết các tình huống trong công tác chủ nhiệm * Về thái độ - Sinh viên ý thức đúng đắn về tầm quan trọng của công tác GVCN lớp ở trường THPT. Từ đó, tích cực, chủ động chuẩn bị tri thức, kỹ năng, tâm thế sẵn sàng tham gia họat động giáo dục nói chung và công tác chủ nhiệm ở trường THPT. NỘI DUNG I. VỊ TRÍ, CHỨC NĂNG CỦA GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM Ở TRƢỜNG THPT Giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường phổ thông nói chung và trường THPT có vị trí đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hệ thống giáo dục của nhà trường. Họ là người thay mặt Hiệu trưởng quản lý, giáo dục toàn diện học sinh một lớp học, là cố vấn cho các hoạt động tự quản của tập thể học sinh, người tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường. 1.GVCN là ngƣời quản lí- giáo dục toàn diện học sinh một lớp học Quá trình dạy học và giáo dục ở trường THPT được tiến hành với những nội dung toàn diện, phong phú và sâu sắc hơn hẳn các cấp học dưới. Với vị trí là cấp học cuối của 2 bậc học phổ thông có nhiệm vụ hoàn tất việc trang bị tri thức phổ thông cơ bản, phát triển và hoàn thiện các kỹ năng học tập nhận thức cùng với các kỹ năng xã hội cho học sinh đồng thời đặt nền tảng vững chắc cho việc xây dựng, phát triển nhân cách tốt đẹp cho họ, cấp học này đặt ra những yêu cầu cao cho việc quản lý và giáo dục học sinh. Người đứng ra đảm đương công việc quản lý và giáo dục toàn diện học sinh chính là các GVCN. Quản lí, giáo dục học sinh không chỉ bao gồm việc nắm được những chỉ số quản lý hành chính như: tên, tuổi, số lượng, gia cảnh, xếp loại học tập, đạo đức, địa chỉ…mà còn phải dự báo được xu hướng phát triển nhân cách của học sinh trong lớp để có phương hướng tổ chức hoạt động giáo dục, dạy học phù hợp. Quản lý giáo dục học sinh còn cần phải đặc biệt quan tâm đến việc đồng thời quản lý học tâp và quản lý sự hình thành, phát triển nhân cách mọi mặt của học sinh. Quản lý, giáo dục toàn diện học sinh bao gồm quản lý, giáo dục cá nhân và tập thể học sinh. Quản lý và giáo dục học sinh có mối quan hệ chặt chẽ với nhau: để giáo dục tốt phải quản lý tốt và quản lý tốt giúp cho giáo dục được tốt. Không thể phủ nhận, giáo dục học sinh phải dựa vào kết quả của việc quản lý học sinh. Quản lý chặt chẽ, cụ thể, chi tiết, toàn diện sẽ giúp GVCN đề ra phương hướng, biện pháp tác động trong công tác giáo dục cụ thể, chính xác, và đạt hiệu quả cao. Để thực hiện chức năng này, người GVCN phải có : + Tri thức cơ bản về tâm lý học, giáo dục học + Kỹ năng lập kế hoạch, điều chỉnh kế hoạch giáo dục, tổ chức chỉ đạo việc thực hiện kế hoạch một cách khoa học + Kỹ năng kiểm tra đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của học sinh + Kỹ năng giao tiếp sư phạm: biết cách tiếp cận, phán đoán học sinh, có khả năng xác lập nhanh chóng, khéo léo, đúng đắn mối quan hệ với học sinh trong hoạt động dạy học và giáo dục. 2. GVCN là cố vấn cho các hoạt động tự quản của tập thể học sinh Đây là chức năng rất đặc trưng của GVCN mà các giáo viên bộ môn không có. “Cố vấn” có nghĩa là GVCN không trực tiếp tham gia tổ chức, điều hành công việc của lớp, không làm thay các em trong các hoạt động mà là người định hướng xây dựng kế hoạch 3 hoạt động của tập thể học sinh, hướng dẫn học sinh xây dựng nội dung, lựa chọn giải pháp, cách thức tổ chức hoạt động để thực hiện thành công kế hoạch đề ra, đáp ứng các mục tiêu phát triển của lớp và mục tiêu giáo dục của nhà trường. Chức năng này chỉ có thể được thực hiện tốt khi GVCN biết quan tâm tổ chức, xây dựng đội ngũ tự quản của lớp, thường xuyên bồi dưỡng năng lực của đội ngũ này để tăng cường sức mạnh tự quản của tập thể học sinh. Để phát huy vai trò cố vấn, GVCN cần có năng lực đánh giá và dự báo chính xác khả năng của học sinh, có khả năng kích thích tiềm năng sáng tạo của các em, lôi cuốn tất cả học sinh tham gia vào các hoạt động của lớp, hướng dẫn học sinh xây dựng kế hoạch giáo dục toàn diện, đồng thời theo dõi, giúp đỡ học sinh thực hiện kế hoạch đó. Lưu ý, cố vấn không có nghĩa là khoán trắng hay đứng ngoài hoạt động của học sinh mà phải cùng hoạt động, kịp thời giúp học sinh tháo gỡ những khó khăn, tranh thủ các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh và tập thể học sinh tiến hành thành công các hoạt động, tạo động lực cho học sinh trong những hoạt động tiếp theo. 3.GVCN lớp là cầu nối giữa tập thể học sinh với các lực lƣợng giáo dục trong nhà trƣờng Thực hiện chức năng này, GVCN là người đại diện cho hai phía * GVCN là người đại diện cho các lực lượng giáo dục của nhà trường Ở góc độ này, GVCN là nhà quản lý, nhà sư phạm đại diện cho Hiệu trưởng truyền đạt những chủ trương, yêu cầu, kế hoạch giáo dục của nhà trường đến với học sinh và tập thể học sinh. Bằng phương pháp thuyết phục, sự gương mẫu, kinh nghiệm sư phạm và uy tín của mình, GVCN giúp cho mỗi học sinh và tập thể lớp có trách nhiệm tuân thủ và tự giác thực hiện nghiêm túc những yêu cầu này. GVCN cần gợi ý với lớp về giải pháp, phương hướng thực hiện sao cho vừa đảm bảo yêu cầu chung vừa phù hợp với điều kiện và khả năng của lớp, tránh gây áp lực cho học sinh và chạy theo thành tích. * GVCN là người đại diện cho học sinh và tập thể học sinh Không chỉ là một thành viên của Hội đồng sư phạm, đại diện cho các lực lượng giáo dục của trường, GVCN còn là người đại diện cho quyền lợi của tập thể học sinh. Với vị trí 4 là người thường xuyên tiếp xúc, gần gũi học sinh, hơn bất cứ ai, GVCN có trách nhiệm lắng nghe, tập hợp các ý kiến, nguyện vọng của học sinh để phản ánh với Ban giám hiệu và các lực lượng giáo dục trong trường, phối hợp với các lực lượng giáo dục trong trường đáp ứng các nguyện vọng này, tạo môi trường và điều kiện cho học sinh học tập và rèn luyện tốt đồng thời luôn quan tâm bảo vệ quyền lợi chính đáng của học sinh. Trong việc thực hiện chức năng này, nhiệm vụ tổ chức phối hợp các lực lượng, thống nhất tác động giáo dục theo một chương trình hành động chung là một nhiệm vụ rất quan trọng của GVCN. Đây là một việc không đơn giản, đòi hỏi GVCN chẳng những phải có trách nhiệm cao, say sưa với nghề, yêu thương học sinh mà còn phải có năng lực thuyết phục, có khả năng thiết lập quan hệ tốt đẹp với các lực lượng giáo dục, biết xây dựng và giữ gìn uy tín, có ý chí vượt khó, không ngại thử thách, đặc biệt trong những trường hợp cần đấu tranh bảo vệ quyền lợi chính đáng của học sinh, kiên định thực hiện lý tưởng giáo dục thế hệ trẻ. 4. GVCN là ngƣời tổ chức phối hợp các lực lƣợng giáo dục ngoài nhà trƣờng Phối hợp các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường ( gia đình, các đoàn thể xã hội, cộng đồng dân cư… ) trong giáo dục HS là một nguyên tắc giáo dục đồng thời là một trong những nội dung thực hiện xã hội hóa giáo dục. Hiệu quả giáo dục học sinh phụ thuộc không nhỏ vào khả năng phối hợp và phát huy tiềm năng của các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường về mọi mặt nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục đối với lớp chủ nhiệm. Dựa vào đặc điểm, điều kiện của nhà trường, lớp, cộng đồng, gia đình học sinh mà GVCN tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục trên. Trước hết, GVCN cần nhận thức đúng đắn, đầy đủ về tầm quan trọng của việc phối hợp các lực lựơng giáo dục ngoài nhà trường trong công tác giáo dục thế hệ trẻ. GVCN một mặt nắm chắc tình hình lớp chủ nhiệm, mặt khác khai thác triệt để, hợp lý, phát huy mọi tiềm năng của các lực lượng cùnng tham gia giáo dục, phát triển nhân cách cho học sinh. Trong đó, GVCN phải xác định giáo dục nhà trường có vai trò định hướng, tạo ra sự thống nhất tác động đến học sinh. Tuy nhiên cần đánh giá đúng vai trò giáo dục gia đình, xem đây là môi trường hạt nhân cơ bản của quá trình hình thành, phát triển nhân cách thế 5 hệ trẻ. GVCN không chỉ biết cách phối hợp tốt với gia đình học sinh mà còn là người tổ chức bồi dưỡng nhận thức lý luận giáo dục cho các bậc cha mẹ khi cần thiết II NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP 1. Tìm hiểu học sinh lớp chủ nhiệm Nhà giáo dục học Usinxki nói: “Muốn giáo dục con người mọi mặt thì phải hiểu con người về mọi mặt”. Công tác chủ nhiệm đòi hỏi phải hiểu học sinh một cách đầy đủ, cụ thể và toàn diện nhằm có thể lựa chọn những tác động sư phạm phù hợp, có khả năng mang lại hiệu quả cao nhất. Thực tiễn giáo dục đã cho thấy nhiều trường hợp thất bại đáng tiếc của các giáo viên thậm chí gây thương tổn nặng nề cho cả hai phía do các thầy cô không hiểu biết đầy đủ về học sinh. Hiểu học sinh còn là điều kiện cần trong việc thiết lập quan hệ giao tiếp thuận lợi giữa GVCN và học sinh, là tiền đề cho việc hình thành tình cảm thầy trò thông hiểu, gắn bó. 1.1 Nội dung tìm hiểu 1.1.1 Tìm hiểu tập thể học sinh Việc nghiên cứu, tìm hiểu tập thể học sinh giúp GVCN nắm được tình hình mọi mặt của lớp, từ đó có được những căn cứ khách quan để xây dựng kế hoạch chủ nhiệm với những mục tiêu, nội dung và giải pháp phù hợp nhất Tìm hiểu tập thể học sinh gồm tìm hiểu trình độ phát triển, truyền thống của tập thể, bầu không khí, các mối quan hệ trong tập thể, sự phân hóa các nhóm tự phát, các thủ lĩnh tự phát, một số vấn đề về xu hướng chung của tập thể, mặt mạnh, mặt yếu… 1.1.2 Tìm hiểu cá nhân học sinh * Tìm hiểu các đặc điểm thể chất của học sinh: Đặc điểm thể chất của học sinh: bao gồm thể trạng, thể lực, sinh lý lứa tuổi, sức khỏe (khỏe mạnh hay có bệnh tật, vóc dáng bình thường hay có khuyết tật gì không?). Nắm vững những đặc điểm này GVCN sẽ cùng cả lớp giúp học sinh giữ gìn sức khỏe, phát huy ưu thế thể lực nếu có, đồng thời quan tâm, giúp đỡ những học sinh có vấn đề về sức khỏe, thể trạng không bình thường trong phân công công việc, bố trí chỗ ngồi…. * Tìm hiểu đặc điểm tâm lý của học sinh: 6 GVCN cần nghiên cứu để hiểu học sinh về các đặc điểm tâm lý nổi bật như: năng lực nhận thức, tư duy, khả năng chú ý, quan sát, xu hướng cá nhân, sở thích, nguyện vọng, động cơ học tập, năng lực hoạt động, kiểu khí chất, tính cách và đặc biệt là thói quen hành vi của học sinh. * Tìm hiểu đặc điểm quan hệ xã hội của học sinh: Trong các quan hệ xã hội của học sinh cần quan tâm tìm hiểu nhất là quan hệ gia đình và quan hệ bạn bè của học sinh. Tìm hiểu quan hệ gia đình học sinh bao gồm tìm hiểu thành phần gia đình, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức của bố mẹ, quan hệ của các thành viên trong gia đình ( sự quan tâm của cha mẹ với con cái, tình cảm, sự giúp đỡ giữa các thành viên trong gia đình…), điều kiện kinh tế, truyền thống, nề nếp gia đình, phương pháp giáo dục của cha mẹ đối với các con…. Tất cả những yếu tố trên đều có ảnh hưởng đến học sinh, trong đó, rất nhiều những trường hợp lệch lạc về tâm lý hay những biến chuyển trạng thái đột ngột, lầm lỗi, nổi loạn ở học sinh có nguyên nhân xuất phát từ gia đình mà nếu không hiểu biết cặn kẽ, GVCN khó mà có thể giúp đỡ học sinh. Tìm hiểu quan hệ bạn bè của học sinh đặc biệt là quan hệ trong nhóm bạn thân giúp GVCN có được những thông tin quan trọng, cần thiết trong công tác giáo dục học sinh. Trong nhiều trường hợp, đây là nguồn khai thác thông tin chính xác, hiệu quả mà các nguồn thông tin khác không có được nhất là đối với đối tượng giáo dục là học sinh THPT Ngoài ra, GVCN có thể tìm hiểu thêm quan hệ, cách ứng xử của học sinh với thầy cô giáo, bạn bè trong lớp, trường, với bố mẹ, anh chị em trong gia đình, với hàng xóm trong cộng đồng nơi các em sinh sống, ở nơi công cộng… Tóm lại tìm hiểu học sinh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với công tác chủ nhiệm. Từ việc tìm hiểu, nắm vững những đặc điểm trên giúp GVCN lựa chọn các biện pháp tác động phù hợp đối với từng học sinh nhằm xây dựng cho các em có tâm hồn trong sáng, phong phú, có năng lực và sức khỏe dồi dào đáp ứng yêu cầu của xã hội ngày càng hiện đại, văn minh. 1.2 Cách thức tìm hiểu Để tìm hiểu học sinh GVCN có thể tiến hành những cách thức sau: 7 * Nghiên cứu hồ sơ học sinh: gồm lý lịch, học bạ, sổ liên lạc với gia đình học sinh…. * Trao đổi, trò chuyện với học sinh: đây là cách thức giúp GVCN nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, sở thích, thái độ của học sinh một cách trực tiếp. * Quan sát có chủ định hoặc ngẫu nhiên học sinh thông qua hoạt động ở lớp học, cộng đồng, gia đình, ngoài đường phố, hoặc thông qua các tình huống tự nhiên hay nhân tạo, nơi mà học sinh có thể bộc lộ thái độ, tình cảm, trình độ, năng lực của bản thân một cách chân thật nhất. * Trao đổi với GVCN và các giáo viên bộ môn của năm học trước về tình hình chung của lớp cũng như tình hình học tập, rèn luyện của học sinh trong lớp. * Trao đổi với cha mẹ học sinh để thu thập thông tin về học sinh khi ở gia đình. Việc trao đổi này có thể trực tiếp thông qua các kỳ họp phụ huynh học sinh trong năm học, thăm gia đình học sinh, sổ liên lạc, điện thoại, e-mail… * Nghiên cứu sản phẩm hoạt động của học sinh: bài làm, báo tường, nhật ký, các sản phẩm lao động, học tập… Tóm lại, điều đặc biệt quan trọng đối với GVCN là thông qua các phương pháp nghiên cứu, thu thập được thông tin thật chính xác, đồng thời phân tích được nguyên nhân của các hiện trạng để nhanh chóng tìm ra biện pháp giáo dục. Cần xác định rằng, tìm hiểu nắm vững đối tượng giáo dục không phải là việc làm có thời hạn, chóng vánh trong một, hai ngày, cũng không phải là công việc chỉ được tiến hành trong giai đoạn đầu mới nhận lớp mà phải là công việc thường xuyên, liên tục trong suốt năm học sao cho có thể hiểu học sinh một cách cập nhật, đầy đủ, toàn diện và sâu sắc nhất. 2/ Xây dựng và giáo dục tập thể học sinh lớp chủ nhiệm 2.1 Khái niệm tập thể và tập thể học sinh 2.1.1 Tập thể Tập thể là một cộng đồng xã hội đặc biệt, là hình thái tổ chức xã hội tập hợp những người có cùng mục đích, có hoạt động chung, có tổ chức chặt chẽ và hệ thống quan hệ phụ thuộc giữa các thành viên. Ở góc độ xã hội, tập thể là một cộng đồng có ý nghĩa xã hội và được xã hội thừa nhận. 8 Những dấu hiệu cơ bản của một tập thể là tính thống nhất về mục đích và tính tổ chức trong quá trình thực hiện các công việc chung. Mục đích chung của tập thể vừa phù hợp với lợi ích của cá nhân vừa đáp ứng với yêu cầu khách quan của xã hội. Các tính chất này làm cho tập thể khác với một nhóm tự phát. 2.1.2 Tập thể học sinh Tập thể học sinh là một hình thái tổ chức cộng đồng độc đáo của học sinh, một tổ chức giáo dục có kỷ luật chặt chẽ, có nguyên tắc họat động nhất định, có chức năng tổ chức, tập hợp, giáo dục học sinh nhằm hướng tới việc thực hiện mục đích giáo dục. Tập thể học sinh có những đặc trưng chủ yếu sau đây: - Có mục đích chung: Tập thể học sinh thống nhất các học sinh trong tập thể vào việc cùng nhau thực hiện những mục đích chung có ý nghĩa xã hội. Đó là mục đích học tập, lao động, rèn luyện, trau dồi đạo đức, học hỏi, giúp đỡ lẫn nhau, tích cực chuẩn bị đầy đủ năng lực và phẩm chất để tham gia vào cuộc sống, vào quá trình lao động xã hội. - Có hoạt động chung: Mục đích của tập thể được thực hiện thông qua các hoạt động chung của các thành viên trong tập thể như: hoạt động học tập, hoạt động lao động, hoạt động xã hội - công ích, hoạt động văn hóa - thể thao, hoạt động vui chơi, giải trí…phù hợp với đặc điểm tâm lý lứa tuổi, trình độ nhận thức, vốn sống, vốn kinh nghiệm và điều kiện học tập, sinh hoạt của số đông học sinh trong tập thể. - Có hệ thống các quan hệ phức hợp: Trong tập thể, học sinh thực hiện các quan hệ đa dạng như: quan hệ nghĩa vụ - quyền lợi, quan hệ chỉ huy - phục tùng, quan hệ phối hợp, tương tác, quan hệ tình cảm, trách nhiệm… - Có đội ngũ cán bộ tự quản do tập thể bầu chọn: Đội ngũ tự quản do tập thể bầu chọn có chức năng tổ chức và lãnh đạo tập thể học sinh Các tổ chức tập thể học sinh trong trường phổ thông gồm: tập thể học sinh toàn trường, tập thể lớp học, các đoàn thể học sinh (Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh và Đội thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh) 2.2. Vai trò của tập thể học sinh Lý lụân giáo dục XHCN đặc biệt coi trọng vai trò của tập thể đối với cá nhân. Tập thể mang lại cho cá nhân những quan hệ đa dạng và tốt đẹp, khơi dậy sức mạnh, tiềm 9 năng của cá nhân, thúc đẩy nhu cầu bộc lộ và tự khẳng định của cá nhân. Trong tập thể, cá nhân có khả năng tìm được những phương tiện và điều kiện phù hợp nhất để phát triển toàn diện và hài hòa nhân cách của mình. Nhờ đó mà mỗi cá nhân sẽ là một nhân cách độc đáo, thể hiện sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng. Sự phát triển của tập thể và sự phát triển của cá nhân là hai quá trình qui định lẫn nhau. Chỉ có trong tập thể, cá nhân mới có điều kiện phát triển tốt nhất và ngược lại, tập thể sẽ càng trở nên phong phú, giàu sức sống, giàu tiềm năng thông qua sự phát triển của các thành viên. Từng cá nhân trong tập thể, một mặt chịu ảnh hưởng của ý kiến và ý chí của người khác, nhưng ngược lại, cá nhân cũng ảnh hưởng đến người khác. Sự tác động, ảnh hưởng qua lại giữa các các nhân tạo nên ý chí, quan niệm, tậm trạng, dư luận tập thể… có tác dụng qui định, điều chỉnh hành vi của các thành viên trong tập thể. Nhà sư phạm A.X. Makarenco cho rằng: “Tập thể là một cơ thể xã hội sinh động thể hiện sức mạnh tổng hợp của các thành viên của nó. Sức mạnh của các thành viên một khi đã được liên kết lại một cách có mục đích, có tổ chức thì sẽ tạo ra sức mạnh chung của tập thể mạnh gấp nhiều lần tổng số sức mạnh của các thành viên riêng lẻ, đồng thời có tác dụng làm tăng lên sức mạnh của từng thành viên” Trong trường phổ thông, tập thể học sinh chính là môi trường tâm lý - xã hội trực tiếp ảnh hưởng đến học sinh. Mọi tác động tốt hay xấu, xuất phát từ môi trường xã hội hoặc từ các tác động của nhà trường hay giáo viên đều ảnh hưởng đến học sinh thông qua tập thể của họ. Môi trường tập thể luôn đặt ra các yêu cầu khó khăn, đòi hỏi mỗi cá nhân phải cố gắng nhiều hơn, do đó tạo được động lực phát triển mạnh mẽ cho cá nhân. Mặt khác, nhiều phẩm chất quan trọng của nhân cách như: tinh thần tập thể, tính kỷ luật, ý thức trách nhiệm, tinh thần hợp tác, năng lực tự ý thức… chỉ có thể hình thành trong môi trường giáo dục tập thể. Đặc biệt, với lứa tuổi học sinh phổ thông, các đặc điểm tâm lý nổi bật và đặc trưng của độ tuổi như nhu cầu tự khẳng định và nhu cầu giao lưu chịu sự chi phối mạnh mẽ từ tập thể mà học sinh tham gia. Tập thể học sinh còn được xem là một phương tiện đặc biệt quan trọng và hiệu quả trong việc giáo dục học sinh. Đó là con đường không thể thiếu được để hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ. Tập thể học sinh tiếp nhận những yêu cầu và chuẩn mực xã hội, 10 chuyển hóa chúng thành các yêu cầu và chuẩn mực nội bộ của tập thể dưới dạng dư luận tập thể, truyền thống tập thể… Qua đó mà điều chỉnh hành vi ứng xử của các cá nhân học sinh. Các yếu tố của tập thể có tác dụng là phương tiện giáo dục, qui định, kiểm soát, điều chỉnh hành vi của học sinh gồm: truyền thống của tập thể, dư luận tập thể, hệ thống viễn cảnh của tập thể, kỷ luật tập thể, đội ngũ cán bộ lớp, các phần tử tích cực và vai trò lãnh đạo sư phạm của giáo viên chủ nhiệm. 2.3. Các giai đoạn phát triển của tập thể học sinh a/. Giai đoạn thứ nhất - tập thể chưa hình thành: giai đoạn này được đặc trưng bởi tính tổ chức, kỷ luật rời rạc của học sinh. Trong thực tiễn nhà trường thì phổ thông thì trường hợp những tập thể ở giai
Tài liệu liên quan