Hình tượng làng quê trong thơ Đoàn Văn Cừ và thơ Xecgây Exênhin

Tóm tắt. Xecgây Exênhin (1895 -1925) là nhà thơ Nga nổi tiếng đầu thế kỉ XX, ông được biết đến như thi sĩ cuối cùng của làng quê Nga. Trong khi đó, ở Việt Nam, Đoàn Văn Cừ (1913 -2004) là một thi sĩ thuộc phái thơ điền viên trong phong trào thơ Mới. Hai nhà thơ có sự gặp gỡ đầy thú vị trong hồn thơ đồng quê, đậm đà tính dân tộc. Trong bài báo này, bằng phương pháp so sánh song hành, chúng tôi mong muốn làm nổi bật sự tương đồng và khác biệt trong sự sáng tạo hình tượng làng quê của hai nhà thơ Đoàn Văn Cừ và Exênhin và lí giải sự tương đồng và độc đáo đầy bất ngờ của hai thi sĩ thuộc hai dân tộc Nga – Việt.

pdf9 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 81 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hình tượng làng quê trong thơ Đoàn Văn Cừ và thơ Xecgây Exênhin, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE Social Sci., 2014, Vol. 59, No. 10, pp. 76-84 This paper is available online at HÌNH TƯỢNG LÀNG QUÊ TRONG THƠ ĐOÀN VĂN CỪ VÀ THƠ XECGÂY EXÊNHIN Đào Thị Anh Lê Khoa Xã hội, Trường Cao đẳng Sư phạm Nam Định Tóm tắt. Xecgây Exênhin (1895 -1925) là nhà thơ Nga nổi tiếng đầu thế kỉ XX, ông được biết đến như thi sĩ cuối cùng của làng quê Nga. Trong khi đó, ở Việt Nam, Đoàn Văn Cừ (1913 -2004) là một thi sĩ thuộc phái thơ điền viên trong phong trào thơ Mới. Hai nhà thơ có sự gặp gỡ đầy thú vị trong hồn thơ đồng quê, đậm đà tính dân tộc. Trong bài báo này, bằng phương pháp so sánh song hành, chúng tôi mong muốn làm nổi bật sự tương đồng và khác biệt trong sự sáng tạo hình tượng làng quê của hai nhà thơ Đoàn Văn Cừ và Exênhin và lí giải sự tương đồng và độc đáo đầy bất ngờ của hai thi sĩ thuộc hai dân tộc Nga – Việt. Từ khóa: Exênhin, Đoàn Văn Cừ, hình tượng làng quê, tương đồng, độc đáo. 1. Mở đầu Đầu thế kỉ XX, trên thi đàn Nga, Xecgây Exênhin (1895 -1925) xuất hiện như một tài năng “độc đáo, kiệt xuất, thấm nhuần hương vị Nga thuần khiết” (M.Gorki). Trong thơ trữ tình Exênhin bộc lộ tuyệt đẹp cái tôi đồng quê mang đậm chất dân gian. “Phái viên của làng thôn Nga” là danh hiệu cao quí mà giới văn học Pêtecbua trao tặng thi sĩ tài hoa. Sau này, B.Paxtecnăc gọi Exênhin là “người thể hiện tuyệt vời hương thơm của mảnh đất Nga”. Đoàn Văn Cừ (1913 -2004) là một nhà thơ thuộc phái thơ điền viên của phong trào thơ Mới, được vinh danh là người vun gốc hồn dân tộc, người neo giữ hồn quê. Cùng với Anh Thơ, Nguyễn Bính, Bàng Bá Lân; Đoàn Văn Cừ trở thành một trong tứ trụ của dòng thơ đồng quê trong phong trào thơ Mới. Hai nhà thơ Exênhin và Đoàn Văn Cừ là con của hai dân tộc khác nhau nhưng có sự gặp gỡ hết sức thú vị trong hồn thơ đồng quê đậm đà bản sắc dân tộc. Trong khi sáng tạo hình tượng làng quê, hai nhà thơ có sự tương đồng và cả sự khác biệt. Chúng tôi dùng phương pháp so sánh song hành để mô tả cả hai thái cực và bước đầu lí giải hiện tượng văn học này. Khi triển khai vấn đề, thơ Exênhin rất phong phú về nội dung, chúng tôi chỉ dừng trên mảng thơ đồng quê của ông để nghiên cứu. Trái lại, thơ Đoàn Văn Cừ khá thuần nhất về đề tài làng quê nhưng đề tài này của ông có nhiều biến đổi kéo dài trong suốt con đường thơ của ông. Do đường thơ và đường đời của Exênhin ngắn ngủi, chúng tôi chọn tập Thôn ca I bao gồm những sáng tác về nông thôn trước Cách mạng tháng Tám của Đoàn Văn Cừ để làm cứ liệu so sánh với Exênhin và triển khai bài viết này. Ngày nhận bài 11/1/2014. Ngày nhận đăng 25/05/2014. Liên lạc Đào Thị Anh Lê, e-mail: anhle7277@gmail.com 76 Hình tượng làng quê trong thơ Đoàn Văn Cừ và thơ Xecgây Exênhin 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Sự gặp gỡ của hai hồn quê Nga – Việt 2.1.1. Bức họa làng quê Làng quê, nơi thân thương yêu dấu của biết bao người, nơi tình sâu nghĩa nặng đã trở thành cảm hứng của bao thi nhân trên thế giới. Với Exênhin và Đoàn Văn Cừ, làng quê là cảm hứng chủ đạo trong thi ca. Thật lạ là tuy không có sự liên hệ nhưng hai nhà thơ cùng khắc tạc được những bức họa đồng quê tuyệt đẹp theo cùng một hình thức giống nhau. Trong thơ Exênhin, ta bắt gặp các hình ảnh đồng quê quen thuộc như những cánh đồng lúa mạch chín vàng, những thảo nguyên xanh tít tắp chân trời, những cánh đồng xơ xác gốc rạ sau mùa gặt hái, những khu rừng mùa thu trải vàng lá rụng, những ngôi nhà gỗ izơba bình yên, mùa xuân vườn cây đâm chồi nảy lộc. Chất đồng quê còn được khắc họa bằng những thanh âm và hương vị đồng quê. Trong thơ Exênhin là bản hòa ca của tiếng nước chảy, tiếng lá rơi, tiếng chim hót, tiếng dế kêu trong bụi cây, tiếng cú vọng trên thảo nguyên, tiếng sói tru thảm thiết ngoài cánh đồng tuyết trắng, tiếng kẽo kẹt của cỗ xe tam mã lăn bánh qua thảo nguyên, tiếng chuông nhà thờ ngân vang... Thơ Exênhin không có thứ “mùi nhà hầm” phả ra nồng nặc trong tiểu thuyết của Đôtxtôiexki mà tỏa ngát thứ hương thơm đồng nội vô cùng quyến rũ: mùi mật ong, mùi táo chín, mùi nhựa thông thơm lừng, mùi ngải cứu thơm nồng, mùi rơm mới, mùi đất khô ngai ngái, mùi tuyết chín, hương trầm, hương hoa hồng. Tất cả hòa quyện thành hương đồng nội “Những mùi hương say đắm tựa hơi men” (Nguyễn Viết Thắng dịch). Chưa hết, còn hương hoa dại, mùi tuyết chín, mùi cỏ khô nồng nàn đến mức tác giả phải thốt lên: Tôi nghe trên môi mình một mùi không chịu nổi Mùi cỏ dại nồng nàn da thiếu phụ hồi xuân. (Đoàn Minh Tuấn dịch) Trong ngôi nhà gỗ nông dân cũng tỏa ra hương bánh mì nướng thơm phức, mùi nước kvat thơm lừng. Thậm chí cỗ xe ngựa lăn bánh qua thảo nguyên cũng thơm ngát mùi gỗ mới tỏa ra từ bánh xe mới đóng. Thật tuyệt vời! Một nước Nga mênh mông, mơ màng, nên thơ mà bình dị đã được khắc tạc từ diện mạo đến linh hồn. Trong thơ Exênhin cứ lan tỏa một không khí đồng quê mênh mông vời vợi. Trong thế giới thơ của Đoàn Văn Cừ, làng quê đậm chất Việt hiện lên thân thuộc với những cánh đồng “bát ngát lúa vàng tươi”, dòng sông trắng “lượn quanh đê”, nhịp cầu bắc ngang dòng sông nhỏ, đàn cò trắng “dăng hàng bay phấp phới”, bầu trời xanh biếc “trăng sao gội xuống trần” và chiếc diều “lơ lửng dưới sông Ngân”, bầu trời hoàng hôn đẹp không thể tả: Chiều mạ vàng dãy núi dưới chân mây/ Trăng sao bạc thêu màn trời gấm đỏ, những mái nhà gianh, những bãi cỏ non xanh, những mái nhà tranh, hàng cau trước hè, hoa cải nở vàng hoe. Quê hương đẹp bình yên lạ lùng. Trong bức tranh quê của Đoàn Văn Cừ cũng dồi dào âm thanh và hương vị. Hương vị đặc trưng trong thơ Đoàn Văn Cừ là hương lúa chín thơm lừng trở đi trở lại trong các tác phẩm của nhà thơ; bên cạnh đó còn phảng phất hương sen trong làn nước, hương xôi nếp quyện hương trầm thơm ngát ngày tết. Tiếng diều sáo vi vu, tiếng chim gáy cúc cu, tiếng chim gù, tiếng gió lay cót két ngọn tre già, tiếng gà gáy sáng. Những thanh âm của thiên nhiên đan xen với những âm thanh của cuộc sống con người. Này đây tiếng kẽo kẹt của khung cửi, tiếng hát của lũ trẻ vang mặt sông, tiếng chày giã gạo, những âm thanh huyên náo của một phiên chợ tết tấp nập, tiếng chiêng trống đánh vang rền của lễ hội xuân và tiếng giảng bài của ông đồ chen trong tiếng chích chòe. Đó là 77 Đào Thị Anh Lê những âm thanh vang vọng từ bức tranh quê của hai nhà thơ. Màu sắc tràn đầy trong bức tranh quê của Đoàn Văn Cừ: Ngày vừa rạng: vàng son lồng mặt nước Trời thêu mây, núi tím, nắng phun hường Cây xanh rờn sương đọng ngọc kim cương Dòng nước lượn trong như dòng ngọc chảy Đàn chim sẻ nấp nhìn qua kẽ sậy Tia nắng hồng đốt cháy hạt sương trong Con trâu đen chúi mũi đứng bên đồng Cứ liếm mãi nắng vàng trên cỏ biếc (Nắng xuân) Và trong thơ Exênhin cũng vậy: Ôi nước Nga, cánh đồng màu thắm đỏ Và màu xanh ngã xuống dòng sông (Thúy Toàn dịch) Nhà thơ tỉ mẩn tô màu cho từng vật thể nhỏ bé như chiếc lá, giọt sương, tia nắng, ngôi sao, mặt hồ xanh biếc, ngôi nhà gỗ óng ánh vàng, khu vườn trắng xóa, đụn rơm vàng ươm. . . Loài vật xuất hiện trong thơ cũng khoác áo màu: bầy chó nhỏ mới sinh màu hung đỏ, bầy cừu “như sương lam”, con bò hung đỏ, con gà đen. . . Cây cối cũng luôn sinh động với màu sắc của nó cây liễu xanh, cây bạch dương tuyết phủ trắng ngời, thanh lương trà chín đỏ, cây anh đào trắng muốt. Những không gian trong thơ Exênhin luôn được xác định bằng màu sắc cho dù chúng mênh mông vô tận. Người ta có cảm giác là Exênhin đã hòa màu sắc rồi thả xuống dòng sông, hắt lên bầu trời, đổ tràn ra cánh đồng và thảo nguyên, tung vào khu rừng, tưới lên thảm cỏ một cách vô cùng hào phóng; tưởng như nhà thơ dựng khuôn hình rỗng rồi đổ màu sắc vào đó và đúc ra vạn vật vậy. Như vậy, khắc họa bức tranh quê, hai nhà thơ đã khắc họa những bức tranh làng quê tràn đầy sự sống với hình ảnh, màu sắc, âm thanh, hương vị mang chất dân tộc đậm đà. Vẫn là hình ảnh, hương sắc, thanh âm, mùi vị của thiên nhiên nhưng ở mỗi nhà thơ nó lại mang một vẻ đẹp riêng của làng quê Nga và làng quê Việt. Ở đó, hình tượng làng quê được miêu tả với cái nhìn tươi mới đầy ngỡ ngàng. Những hình ảnh làng quê từ lâu đã quen thuộc với biết bao người nhưng cả hai nhà thơ đều phát hiện những nét đẹp tuyệt vời của nó, bất tử nó trong thi ca. 2.1.2. Bức tranh sinh hoạt nông thôn Không chỉ khắc tạc hình hài, diện mạo làng quê, các nhà thơ còn cùng tái hiện rất thành công cuộc sống làng quê với không gian sinh hoạt và sinh hoạt nông thôn đặc trưng của người nông dân. Nhà thơ Đoàn Văn Cừ đã tái hiện trong thơ cảnh tát nước đêm trăng, cày đồng xếp ải, lũ trẻ vơ lá đốt chơi, đàn bà dệt cửi canh khuya khó nhọc để đến hội xuân nhởn nhơ khuyên vàng yếm thắm, cảnh đập lúa dưới trăng, cảnh êm đềm của nhà nông Cảnh nhà dẫu túng vẫn êm đềm/ Ngày khó nhọc nhưng tối ngủ yên/ Mái rạ trăng vàng lơ lửng bóng/ Vòi cau, mưa chảy nước bên hiên (Bữa cơm quê) và hình ảnh người nông dân hiền lành chất phác: Xong mùa, mỏ hái treo từng chuỗi Phản tối người chen, tiếng ngáy khò (Lúa về) Không gian sinh hoạt được khắc họa hết sức sinh động với những vật dụng quen thuộc: 78 Hình tượng làng quê trong thơ Đoàn Văn Cừ và thơ Xecgây Exênhin Mấy chiếc cuốc treo cằm trên gác bếp Vài chiếc xẻng dựa mình bên cửa liếp Cối gạo nằm cắm mỏ dưới nhà ngang Thang gác chân trên ngọn đống rơm vàng (Xóm nhỏ) Hình ảnh vật nuôi tạo nên sự gần gũi, ấm áp cho bức tranh quê với bầy gà, bầy vịt, đầu thềm con chó ngủ lơ mơ, con mèo quyện dưới chân người, con bò vàng liếm nắng trên cỏ biếc, con gà trống mào hồng, đôi gà trắng mượt như tơ, đôi ngỗng vươn cổ lơ ngơ, chim bồ câu sà xuống, vịt tranh ăn, con cún Vàng vội vã tranh ăn. Người đọc bất ngờ gặp trong thơ Exênhin một nước Nga dân dã với những sinh hoạt nông thôn đặc trưng rất giống thơ của Đàn Văn Cừ. Người nông dân cày ruộng, đánh cá, dệt vải, chăn gia súc, cắt cỏ, đập lúa, gieo trồng, gặt hái... Họ cần cù làm lụng trên mảnh đất quê hương, trong ngôi nhà, mảnh vườn của mình. Không gian sinh hoạt của người nông dân Nga cũng được khắc họa rất sinh động bằng hình ảnh của những đồ vật, những vật nuôi trong nhà. Trong thơ Exênhin, ta thấy xuất hiện nhiều hình ảnh đồ vật thân thuộc với người Nga như cỗ xe tam mã, xe trượt tuyết, bếp lò, bình nước cơ vát, chiếc cày gỗ, bình sữa tươi, túp lều, đống rơm, đụn rạ, những chiếc sào... những đồ vật này luôn mang hơi thở bình dị của đời sống Nga và phác họa cuộc sống của họ trong nét sinh hoạt độc đáo: những ngôi nhà ghép từ những phiến gỗ nhẵn bóng, vững chãi tạo cảm giác đang sống ở thiên nhiên; những bình nước kvat thơm lừng ủ từ lúa mạch, những chiếc bếp lò to lớn kiểu Nga mồ hóng đen ám cửa lò, những hàng rào thấp chỉ vừa đủ đánh dấu không gian vườn nhà. Hình ảnh những vật nuôi cũng làm ấm lòng người. Này đây hình ảnh chú mèo len lén lại gần bình sữa tươi mới vắt, bầy cừu xám khuất sau cổng vườn êm ả, con ngựa già uống nước trước sân, bầy gà xao xác “poc...poc...poc” dưới cái vai cày, con chó già nua bên thềm ngôi nhà cũ... Không gian sinh hoạt của con người được khắc họa sinh động, đằm sâu làm ta xúc động bởi sự mộc mạc, giản dị của nó. Từ những phân tích ở trên, ta nhận thấy khi sáng tạo hình tượng làng quê, hai nhà thơ Đoàn Văn Cừ và Exênhin đã có sự tương đồng thú vị khi tái hiện bức tranh làng quê tràn đầy âm thanh, sắc màu hương vị và hình ảnh; khi tái hiện chiều sâu văn hóa dân gian kết tụ trong tập tục, văn hóa, tín ngưỡng, kinh nghiệm dân gian; khi khắc họa sinh động cuộc sống đặc trưng của những người nông dân. 2.2. Nét độc đáo riêng của các nhà thơ 2.2.1. Tâm điểm bức tranh làng quê Trong sáng tác của Đoàn Văn Cừ lấy thiên nhiên làm điểm tựa để mô tả con người và cuộc sống. Thiên nhiên dù đẹp tươi và sinh động nhưng đó vẫn chỉ là nền của bức tranh còn con người và cuộc sống của họ đó mới là tâm điểm. Nhà thơ Vũ Quần Phương cho rằng Thơ Đoàn Văn Cừ có thể góp vào việc nghiên cứu nông thôn với tư cách là những tư liệu tin cậy. Còn nhà phê bình Hoài Thanh ca ngợi “Trong các nhà thơ đồng quê, không ai có ngòi bút dồi dào và rực rỡ như Đoàn Văn Cừ” [8,202]. Quả thật, đời sống người nông dân hiện lên thật đầy đủ, trọn vẹn. Những bộ trang phục trong thơ của Đoàn Văn Cừ xứng đáng là những bộ sưu tập về trang phục của người nông dân miền Bắc trước Cách mạng tháng Tám. Khi xuân về tết đến, tháng giêng thong thả ngày rộng tháng dài, người nông dân thong thả chơi xuân: Đàn ông, khăn nhiễu đội đầu/ Đôi giày da láng, khăn trầu đỏ loe/ Đàn bà yếm đậu vàng hoe/ Hàm răng đen nhức, váy lê thẹn thùng (Chơi xuân). 79 Đào Thị Anh Lê Ở phiên chợ làng, gái trai đi chợ xuân nhưng nhìn là thấy ngay sự khác nhau: Trai tỉnh ô đen, quần lụa đũi Gái quê khuyên bạc, yếm tơ sồi. (Chợ làng vào xuân) Trong một đám cưới, trang phục của người nào ra người đó. Bọn trai tơ mặt mày hớn hở trong quần lụa chùng, nón dứa, áo sa huê. Những bà thanh lịch đầu nón nghệ, tay cầm khăn mặt đỏ. Những thiếu nữ nông thôn áo đồng lầm, yếm đỏ, thắt lưng xanh (Đám cưới mùa xuân). Cảnh sống trong ngôi nhà nông thôn êm đềm, rõ nét như nghệ thuật sắp đặt: Từ ngôi nhà Nhà tre, mái rạ, vách bùn rơm Cửa chắn con song mở gió vườn Chum nước mưa vần bên cạnh chái Dưới giàn thiên lí tỏa hương thơm. (Nhà tranh) Đến mâm cơm bên hè: Cơm ngày hai bữa dọn bên hè Mâm gỗ, muôi dừa, đũa mộc tre Gạo đỏ, cà thâm, vừng giã mặn Chè tươi nấu đặc nước vàng hoe (Bữa cơm quê) Trong thơ Exênhin, thơ về phong cảnh làng quê, cuộc sống làng quê, thanh âm và hương vị làng quê nhưng thiên nhiên là tâm điểm, hình ảnh con người mang tính chấm phá trong bức tranh thiên nhiên. Thiên nhiên trong thơ ông đẹp tuyệt và viên mãn với đủ hình hài, màu sắc, hương vị, thanh âm còn con người thường chỉ xuất hiện qua tiếng cười (Tiếng cười vang của các cô thôn nữ/ Đón gặp tôi như những tiếng khuyên vàng), tiếng mõ (Lão gác rừng ngái ngủ/ Khua vang hồi mõ khô), tiếng hát, điệu nhảy. . . và nhiều bài thơ không có hình ảnh con người mà chỉ là những bức tranh thiên nhiên làng quê thấm đẫm tâm trạng mà điểm nhấn là một mặt hồ, một khu vườn, một cánh đồng, một thảo nguyên trong các tác phẩm “Nơi bình minh nghiêng đổ nước hồng”, “Anh đào hãy rụng rơi như tuyết”, “Cây bạch dương màu trắng”, “Miền quê ta hoang vắng”... Trong thơ đồng quê của Exênhin; thanh âm, hương vị, sắc màu, hình ảnh vẫn tỏa lan, phát sáng, ngân rung từ thiên nhiên nhiều hơn từ con người. 2.2.2. Nghệ thuật sử dụng màu sắc Thế giới trong mắt các nhà thơ Đoàn Văn Cừ và Exênhin là thế giới của màu sắc.Có một sự gặp gỡ kì lạ giữa Exênin và Đoàn Văn Cừ trong tư duy nghệ thuật thể hiện ở việc sử dụng màu sắc để chiếm lĩnh thế giới.Với Exênin thế giới được cảm nhận qua màu sắc và bằng màu sắc của ông đã chiếm lĩnh vẻ đẹp của thế giới một cách thần tình. Vạn vật đều được nhà thơ thụ cảm qua màu sắc từ vật thể, loài vật, cây cối, không gian, thời gian, cho đến thanh âm và những khái niệm trừu tượng đều được mô tả qua màu sắc. Còn Đoàn Văn Cừ cũng coi màu sắc là phương tiện hữu hiệu để chiếm lĩnh thế giới. Thiên nhiên hiện ra là mang màu sắc Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà gianh Trên con đường viền trắng mép đồi xanh Sương trắng rỏ đầu cành như giọt sữa Hình ảnh con người được tái hiện qua màu sắc: 80 Hình tượng làng quê trong thơ Đoàn Văn Cừ và thơ Xecgây Exênhin Trên cồn cỏ biếc, nắng hồng tuôn Dây thắt lưng xanh, nón nghệ tròn Cô chủ khuyên vàng đeo lấp lánh Miệng cười đen nhánh, áo nâu non (Ngày mùa) Ngoài ra, sự vật hiện tượng, các loài vật đều được tô màu như một ý thức nghệ thuật của nhà thơ. Cũng giống Exênhin, tần số màu sắc trong thơ Đoàn Văn Cừ rất lớn. Nhưng Đoàn Văn Cừ thiên về những màu sắc sặc sỡ, tươi đẹp. Hoài Thanh và Hoài Chân nhận định: “Những bức tranh trong thơ Đoàn Văn Cừ không phải chỉ đơn sơ vài nét như những bức tranh xưa của Á Đông. Bức tranh nào cũng đầy dẫy sự sống và rộn rịp những hình sắc tươi vui. Mỗi bức tranh là một thế giới linh hoạt. Người xem tranh hoa mắt vì những nét những màu hình như rối rít cả lại; nhưng nhìn kĩ thì màu nào nét nào cũng ngộ nghĩnh vui vui” [8,202]. Trong khi đó, bảng màu của Exênhin bên cạnh những màu sắc tươi thắm là gam màu trung tính, trang nhã và nhiều màu tối lạnh. Trong thơ Exênhin, những bức tranh hài hòa, trang nhã hơn là rực rỡ vui tươi. Mặt khác, Đoàn Văn Cừ dùng màu sắc để tái hiện thế giới nhưng đó là thế giới gắn liền với đời sống sinh hoạt của con người. Còn Exênhin yêu thích những màu sắc để vẽ phong cảnh thiên nhiên, hình ảnh con người và những sinh hoạt của con người chỉ là những nét chấm phá. Một điều nữa, Đoàn Văn Cừ không dùng màu sắc để biểu thị tính chất triết lí, còn ở Exênhin điều đó thể hiện rất rõ. Màu sắc trong thơ Exênhin không dừng lại ở sự tái hiện tài tình thế giới, màu sắc còn gắn chặt với tư tưởng. Màu sắc bộc lộ triết lí về cuộc đời, thể hiện quan niệm của Exênhin về đất nước, con người bản thân mình. Sự phai màu, đổi màu mang tính triết lí về sự tàn phai; chẳng hạn hình ảnh cây táo trắng đã ngả sang vàng đồng nghĩa với sự biến đổi của dòng đời. “Trong thơ Exênhin, màu sắc mang ý nghĩa tượng trưng rất đậm nét” [4,54]. Màu hồng là màu của ước mơ, hi vọng được hóa thân vào hình ảnh “ngựa hồng”, “ngày hồng”, và trở đi trở lại trong sự tiếc nuối, dằn vặt của Exênhin về tuổi trẻ đã trôi qua, trong quá khứ. Các hình ảnh “nước Nga vàng”, “nước Nga xanh”, có ý nghĩa biểu trưng rõ rệt. “Nước Nga vàng” là hình ảnh của nước Nga cơ đốc giáo, nước Nga bằng gỗ cổ xưa vì nó gợi nhớ hình ảnh của những ngôi nhà gỗ óng vàng, những đụn rạ, đống rơm, những buổi chiều vàng mênh mông. “Nước Nga xanh” là hình tượng đã manh nha trong tư tưởng của L.Tônxtôi, Tuốcghênhep và được được Exênhin tạo dựng thành công, ông khao khát gìn giữ một nước Nga thuần túy của tự nhiên, của đồng ruộng, một nước Nga thôn dã từ ngàn đời nay không có sự băng hoại của sắt thép công nghiệp, không có chiến tranh, không có hiện đại hóa, cơ khí hóa. Nguyễn Đình Chiến cho rằng, đây là tư tưởng triết học tinh thần của Exênhin. Rõ ràng, sự gặp gỡ của hai nhà thơ đồng quê trong việc sử dụng màu sắc để chiếm lĩnh vẻ đẹp của thế giới và con người vẫn có sự khác biệt. 2.2.3. Cảm hứng chủ đạo Trong mảng thơ đồng quê của Đoàn Văn Cừ không phải không có những bức tranh hiện thực về đám ma, cháy nhà, cướp đêm. . . nhưng chỉ có vài ba bài về chủ đề đó; Đoàn Văn Cừ vẫn là nhà thơ của hội, của tết, của đám cưới, của mùa xuân; nhà thơ của vui vẻ, náo nhiệt. Niềm vui được tái hiện từ phiên chợ Tết lôi cuốn bao người ra đường từ trẻ già, trai gái với đủ thứ trên trời dưới đất của phiên chợ đông vui, quan trọng nhất trong năm. Đó là ngày hội xuân với đủ mọi trò chơi từ hát hội, đánh đu, đấu vật, tế lễ. Đó là đám cưới mùa xuân với ước hẹn sum vầy. Thơ đồng quê Exênhin là những vần thơ tuyệt hay khắc tạc tuyệt vời hình tượng nước 81 Đào Thị Anh Lê Nga, nhưng trong các bài thơ lại in đậm nỗi buồn. M.Gorki gọi ông là“ca sĩ của nỗi sầu đồng ruộng”[1,235]. Thơ trữ tình của Exênhin tràn đầy những hình ảnh buồn. Nỗi buồn còn được gửi trong hình ảnh đoàn người ngước mắt lên cao đăm đắm nguyện cầu mưa xuống để tránh hạn hán, hình ảnh kẻ hành khất đứng trên bậc thềm nhà thờ với đôi mắt như cây ngưu bàng phai lá, cô dâu hát trong đêm vui tiễn biệt như con chim nhỏ đơn côi, hình ảnh người mẹ luôn dạo bộ ra đường ngóng đợi đứa con yêu dấu đều ấp ủ một nỗi buồn. Trong thơ Exênhin còn chứa đựng những nỗi buồn được gọi thành tên: nỗi buồn đàn sếu, nỗi buồn chiều hôm, nỗi buồn Côlômen, nỗi buồn liễu rủ, nỗi buồn trăng thu, nỗi sầu hồ nước. . . gợi lên một nỗi buồn lớn hơn, diệu vợi mênh mông: nỗi buồn mùa thu, nỗi buồn làng quê, nỗi sầu đồng ruộng. Từ cảm hứng chủ đạo đó xuất hiện sự khác nhau về bút pháp. Đoàn Văn Cừ thiên về bút pháp hiện thực với thủ pháp tả chân. “Đoàn Văn Cừ lại chủ trương một lối thơ hiện thực, chuyên về đề tài nông thôn. Trong thơ ông, nông thôn là nông thôn của đời thực với chuyện gặt hái, ma chay, cưới xin, chợ búa, những ông lái, ông đội và cả đàn trâu, đàn vịt” (Vũ Quần Phương) “Giọng điệu và ngôn từ cùng phong vị của nó là thơ đích thực; cấu trúc của mỗi tác phẩm lại đậm đà chất kí sự, truyện ngắn và phảng phất yếu tố hoạt cảnh kịch. Sự hòa lẫn tự nhiên hai y