Hình tượng rắn – Nhân vật yêu quái trong truyện cổ tích

TÓM TẮT Rắn là con vật tự nhiên đã đi vào đời sống và trở thành một biểu tượng văn hoá của nhân loại. Hình tượng này có rất nhiều biến thể và các ý nghĩa khác nhau. Bài viết tìm hiểu hình tượng rắn với tư cách là nhân vật yêu tinh, yêu quái – đối thủ của nhân vật chính trong truyện cổ tích Việt Nam. Tìm hiểu 207 truyện cổ dân gian liên quan đến rắn, bài viết chỉ ra các đặc điểm và tính chất yêu tinh, yêu quái của hình tượng rắn trong 30 truyện, qua đó thấy được sự vận động của hình tượng rắn từ trong thần thoại đến cổ tích: Trong thần thoại là nhân vật chính, nhân vật trung tâm. Còn trong cổ tích hình tượng rắn là nhân vật phụ, là đối thủ thử thách để nhân vật chính bộc lộ tài năng và phẩm chất của mình.

pdf9 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 112 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Hình tượng rắn – Nhân vật yêu quái trong truyện cổ tích, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 6 - Thaùng 6/2011 32 HÌNH TƯỢNG RẮN – NHÂN VẬT YÊU QUÁI TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH TRẦN MINH HƯỜNG (*) HÀ THỊ THANH NGA (**) TÓM TẮT Rắn là con vật tự nhiên đã đi vào đời sống và trở thành một biểu tượng văn hoá của nhân loại. Hình tượng này có rất nhiều biến thể và các ý nghĩa khác nhau. Bài viết tìm hiểu hình tượng rắn với tư cách là nhân vật yêu tinh, yêu quái – đối thủ của nhân vật chính trong truyện cổ tích Việt Nam. Tìm hiểu 207 truyện cổ dân gian liên quan đến rắn, bài viết chỉ ra các đặc điểm và tính chất yêu tinh, yêu quái của hình tượng rắn trong 30 truyện, qua đó thấy được sự vận động của hình tượng rắn từ trong thần thoại đến cổ tích: Trong thần thoại là nhân vật chính, nhân vật trung tâm. Còn trong cổ tích hình tượng rắn là nhân vật phụ, là đối thủ thử thách để nhân vật chính bộc lộ tài năng và phẩm chất của mình. ABSTRACT The snake is a wild animal which has gone into our lives and become a cultural symbol of humanity. This symbol has varied forms with different connotations. This article explores snakes as a symbol of demons or sprites – the antagonists of the heroes in Vietnamese fairy stories. When doing research on 207 old stories, the writer showed us the characteristics and nature of demons or sprites through the symbol of snakes in 30 typical stories so as to help readers see how the symbol of snakes changes from myths to fairy stories. In myths, snakes are the main characters, the heroes while in fairy tales they are not; they are the antagonists who challenge the main characters to show their talents and qualities Là một loại động vật trong thế giới tự nhiên nhưng rắn đã sớm trở thành một biểu tượng văn hoá của nhân loại, vì nó được gắn liền với tục thờ, huyền thoại, tín ngưỡng, lễ hội, kiến trúc và điêu khắc dân gian(2) Tính chất và ý nghĩa biểu trưng của rắn là vô cùng phức tạp, thậm chí đối lập nhau: vừa biểu trưng cho nước – lửa, cho sự khởi nguyên – diệt vong, cho sự khôn ngoan, trường sinh – nhục dục, tăm tối và tội lỗi Bài viết này tiếp cận hình tượng rắn với tư cách là nhân vật yêu quái, đối thủ của con người trong thế giới cổ tích. (*) (*) TS, Trường Đại học Đồng Tháp () ThS, Trường Đại học Đồng Tháp Theo từ điển Tiếng Việt(2), Yêu quái (d): Quái vật làm hại người, thường dùng để ví kẻ độc ác, mất hết tính người; Yêu tinh: (d): Vật tưởng tượng theo mê tín, hình thù kì quái, có nhiều phép thuật và độc ác: con yêu tinh ăn thịt người, độc ác như yêu tinh; Yêu ma: (id), ma quỷ, yêu quái; thường dùng để ví kẻ độc ác, ranh mãnh. Dựa vào sự biểu hiện của hình tượng rắn trong truyện cổ, phần này chúng tôi sẽ xem xét hình tượng rắn - nhân vật yêu quái, yêu tinh với chức năng là lực lượng thần kì gây hại, là đối thủ của nhân vật chính. Trong 207 truyện kể dân gian có liên quan đến hình tượng rắn mà chúng tôi khảo sát được(3) có 30 truyện chứa hình tượng 33 rắn với tư cách là nhân vật yêu quái, bắt cóc, ăn thịt – là đối thủ mà con người cần tiêu diệt, bao gồm: TT Tên truyện Dân tộc Giới tính Ghi chú 1 Thạch Sanh Kinh Nam 2 Đại vương Hai hay truyện giết thuồng luồng Kinh Nam 3 Tiêu diệt mãng xà Kinh Nam 4 Con thuồng luồng Dao Nam 5 Sự tích hồ nước Làng Treng H’Rê Nam 6 HơMênh chém rắn thần H’Rê Nữ 7 Ao Phật Khơme Nam 8 Con chim khách mầu nhiệm Kinh Nam 9 Chàng đánh cá Y Ang Ê Đê Nam 10 A Xanh Ca Dong Nam 11 Ba chàng dũng sĩ Ba Na Nam 12 Sỉnh Lử cứu con ngọc hoàng H’Mông Nam 13 Ngủ trong bụng mãng xà Kinh Nam 14 Pù Chộng Cha Thái Nam 15 Sự tích cầu Tạ Moong Thái Nam 16 Náng Đẳm Thái Nam 17 Huồi khún Huồi xau Thái Nam 18 Chuyện ở Bản Nặm khảu Hủ Thái Nam 19 Chàng Bơ Lo hay sự tích sông Rin Ca Dong Nam 20 Chuyện hai anh em mồ côi Vân Kiều Nam 21 Nước Sung Sướng H’Mông KXĐ* 22 Sự tích núi Bưa Phi Mường KXĐ* 23 Thủy quái ở Mu Tần Mường KXĐ* 34 24 Trận Mãng xà Kinh KXĐ* 25 Nàng Ả Voi Mường Nữ 26 Sự tích con đom đóm Khơ Mú Nam 27 Nàng Ae Long và chàng Vương Lạp Kinh Nam 28 Sự tích đầm Đỗ Lâm Kinh Nam 29 Sự tích suối rắn Kinh Nam 30 Truyện ngôi đền thiêng ở xã Bộ Đầu Kinh Nam 31 Sự tích hang thuồng luồng Kinh KXĐ* Các lực lượng thần kì trong truyện cổ tích có thể được chia làm ba loại. Loại trợ thủ luôn có mặt giúp đỡ các nhân vật chính, hoặc ban tặng cho những vật thần kì có phép màu giúp nhân vật vượt qua trở ngại. Loại trung gian xuất hiện vào tay của người ác hay kẻ xấu đều phát huy tác dụng. Ở trong tay nhân vật lí tưởng thì có tác dụng tốt, rơi vào tay kẻ thù sẽ gây tai hoạ; hoặc khi nhân vật vi phạm điều cấm kị, nó cũng phản tác dụng. Trong một số trường hợp, chính tính cách của nhân vật xấu xa, ác độc lại làm cho nhân vật - đồ vật thần kì có tính chất trung gian này quay trở lại làm hại chính nhân vật ấy. Loại thứ ba cũng có khả năng thần kì không kém lực lược trợ thủ cho nhân vật nhưng lại là đối thủ luôn có mặt gây cản trở, khó khăn hoặc tìm mọi cách hãm hại nhân vật chính. Hình tượng rắn trong các truyện mà chúng tôi khảo sát trên thuộc loại thứ ba này. Có thể kể đến những biểu hiện cơ bản của hình tượng rắn – nhân vật yêu quái như sau: 1. RẮN – QUÁI VẬT BẮT CÓC NGƯỜI Trong truyện cổ tích nói chung, rắn không phải là quái vật duy nhất có hành động bắt cóc người. Đôi khi hành động bắt cóc là của ma quỷ hay các loại yêu quái không rõ hình hài khác. Phần này chúng tôi chỉ nói đến đối tượng bắt cóc là rắn hoặc có hình hài rắn. Đối tượng bị rắn bắt cóc chủ yếu là phụ nữ, các cô gái chưa có chồng. Họ đang đi làm trên rừng, rẫy hay đang tắm một mình dưới sông, suối thì bị rắn bắt cóc. Mục đích của việc bắt cóc là về làm vợ rắn. Hai hình thức diễn ra sự bắt cóc thường là trên không trung bỗng nhiên quái vật nhào đến và cuốn cô gái đi (HơMênh chém Rắn thần, truyện A Xanh, Sự tích con đom đóm); hoặc quái vật ở dưới nước đột nhiên hiện hình và cuốn cô gái về thế giới của nó (Con thuồng luồng; Sự tích hồ nước Làng Treng, Náng Đẳm cũng có hành vi bắt cóc tương tự như vậy. Cũng có khi rắn bắt cóc cả những người đàn bà đã có chồng để về làm vợ nó. Truyện Sự tích hồ nước Làng Treng (Hrê) kể về vợ chồng Vu Ta Viên cùng ba đứa con sống với nhau hạnh phúc. Một hôm vợ đi giặt bị người dưới thủy cung bắt về làm vợ dưới thủy cung. Hàng ngày, ba đứa con ra bờ suối chơi với mẹ, mẹ nó giờ đã trở thành cô gái rất xinh đẹp nơi thủy cung và không muốn trở về với người chồng trên 35 cạn nữa. Vu Ta Viên biết chuyện, chàng không bỏ cuộc quyết lập mưu dành lại vợ. Hàng ngày có rắn đến hỏi có thấy vợ rắn không thì chàng doạ giết rắn và nói rằng: Ở đây chỉ có vợ của tôi. Một hôm có con trăn to đến hỏi có thấy vợ của nó không. Vu Ta Viên đánh nhau với Trăn và giết được Trăn với sự giúp đỡ của vợ mình Hành động bắt cóc của rắn luôn dẫn đến một cuộc xung đột giữa con người và rắn. Hoặc đó là ông bố (có con gái bị bắt cóc), hoặc là người chồng (có vợ bị bắt cóc). Những kiểu kết cấu như thế thể hiện tính phổ biến của mô tuýp quái vật bắt cóc trong truyện cổ, mà rắn là một đại biểu cho tính chất bí ẩn, hung hãn của quái vật. Trong sâu xa nó có phản ánh tục ngoại hôn và tục lệ cướp dâu – một kiểu hôn nhân thời cổ. Hình thức này không chỉ phổ biến trong truyện cổ tích Việt Nam mà còn ở một số nước Đông Nam Á. Truyện Chàng Xai Khăm và đôi hài kì lạ của Lào là một ví dụ: Có nàng công chúa Cha Tha La xinh đẹp bị một con rắn khổng lồ cuốn mất và đưa về hang để làm vợ. Chàng Xai Khăm đi cứu và được một con quỷ dâng tặng đôi hài kì diệu (sau khi đã hàng phục nó). Chàng đến hang rắn, đây là một con rắn khổng lồ, đầu người. Được sự giúp đỡ của ba người đẹp (tù nhân của rắn) Xai Khăm đã chiến thắng rắn và lấy công chúa Cha Tha La xinh đẹp. Hai không gian diễn ra hành động bắt cóc của rắn thường là trên không và dưới nước và hành động rất nhanh, mang tính bất ngờ. Điều này một mặt phản ánh bản chất gắn với nước của rắn cũng như tính chất bí ẩn, hung hãn của loài yêu quái, mặt khác phản ánh nhận thức về thế giới tự nhiên của con người. Trên thực tế, rắn không hề biết bay mà môi trường sống của nó chủ yếu là dưới nước. Do vậy không có gì ngạc nhiên khi rắn là hình tượng được gắn với nước, được nhân hoá thành các vị thủy thần và là hình ảnh hình tượng hoá của các con sông, lũ lụt trong đa số các truyện dân gian của các dân tộc. Nếu rắn bắt cóc ở môi trường nước thể hiện dấu vết của con rắn thần thoại, gắn với nước, là vị thần nước, chúa tể của thế giới bên dưới thì hình ảnh rắn – quái vật bắt, có trên không trung đã phần nào được kì ảo hoá. Trong sự diễn hoá của mô tuýp bắt cóc, các yếu tố kì ảo mới đã được khoác thêm vào cho phù hợp với nội dung phản ánh và sự tiếp nhận của thế giới cổ tích. Con rắn “được kì ảo hoá, gắn thêm những đặc tính không phải của bò sát như: biết bay, tiếng gầm dữ dội, phun ra lửa nó trở thành con vật đại diện cho cái ác tột cùng trong truyện cổ tích”(4). Về vấn đề này K.X.Đavletôp cho rằng: “Truyện cổ tích xây dựng những quan niệm của mình về rắn không phải trên cơ sở thực tại mà trên cơ sở tư tưởng nguyên thủy. Nó tiếp nhận những hình ảnh này từ thần thoại, lại ở một dạng đã biến hoá hoàn toàn và trải qua một con đường rất dài của sự phát triển thần thoại”(5). Hai không gian như vừa nói trên là hai thế giới vẫn còn bí ẩn với con người. Nếu không trung hoàn toàn bí ẩn thì thế giới dưới nước lại vừa quen vừa lạ. Không phải ngẫu nhiên mà trong truyện cổ lại hình dung thủy cung là nơi đầy của cải, vàng bạc hay những hòn đảo nhiều châu báu. Khát vọng khám phá và chinh phục những vùng đất mới luôn thôi thúc con người. Điều này góp phần phản ánh quá trình mở rộng địa bàn cư trú của người xưa. Như vậy, với tư cách là đối thủ của nhân vật, hình tượng rắn dạng này mang đặc điểm của một con vật thần kì với nhiều phép thuật cũng như sự hung hãn. Tính chất này vừa làm tăng thêm tính li kì, hấp 36 dẫn cho truyện, đồng thời là yếu tố tạo nên “môi trường” cho những phẩm chất và tài năng của nhân vật chính bộc lộ; là cơ sở cho kết quả đền bù của kết thúc có hậu trong phần lớn truyện cổ tích. 2. RẮN – QUÁI VẬT ĂN THỊT NGƯỜI Trong truyện cổ tích của người Việt, tính chất quái vật của rắn chủ yếu là kẻ ăn thịt người (Đôi khi mục đích của việc bắt cóc cũng là đưa về hang để ăn thịt). Tuy nhiên, con người không phải là đối tượng duy nhất mà quái vật ăn thịt. Nó ăn tất cả những con vật bắt được, chủ yếu là gia súc con người nuôi. Sự hung hãn của nó ngày một gia tăng cho đến lúc con người cũng là đối tượng bị ăn thịt. Những vùng có quái vật ngự trị bao giờ cuộc sống và tính mạng của con người cũng bị đe doạ thường trực, làng xóm tiêu điều. Truyện Ao Phật của người Khơme có đoạn: Xưa kia ở vùng đất Trà Vinh ngày nay, có một con Chằn tinh sống lâu năm dưới nước rất hung ác. Nó thường nổi lên mặt nước quấy phá và tìm cách bắt người ăn thịt. Hay truyện Con thuồng luồng kể: Xưa ở thôn Lùng Thàng có con thuồng luồng già thành tinh. Cô gái Ymười cũng là một nạn nhân bị bắt cóc đang sắp bị rắn thần PaRin ăn thịt (Hơ Mênh chém rắn thần) Để đổi lấy sự bình yên, con người phải cầu thân với rắn bằng cách hàng năm phải cúng tế cho nó: “Bấy giờ trong vùng có một con Chằn tinh, có nhiều phép biến hoá lạ kì, thường bắt người ăn thịt. Quan quân nhiều lần đến vây bổ muốn diệt trừ nhưng không làm gì được. Cuối cùng người ta đành phải lập cho nó một cái miếu, hàng năm khấn một mạng người để cho nó đỡ phá phách” (Thạch Sanh); hay trong truyện Tiêu diệt mãng xà cũng kể: ở một làng nọ có con mãng xà chuyên phá phách dân làng. Mỗi năm phải nộp cho nó một người con gái để nó ăn thịt. Vua cho đi tìm người tài và hứa sẽ gả công chúa nếu diệt được mãng xà Đây cũng là một trong những nguồn gốc của tục hiến sinh. Tục này bắt nguồn từ thần thoại, khi con người vẫn phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên (nguồn nước) thì các nghi lễ và hình thức hiến tế dâng nộp cho thần rắn diễn ra một cách tự nguyện. Đó là có thái độ cầu thân với tự nhiên và mong ước mưa thuận gió hoà, lũ lụt không làm hại của nhân dân. Nhưng trong môi trường cổ tích, khi nhận thức của con người đã tăng lên một bậc thì việc hiến tế không còn tự nguyện như trước nữa mà đã có biểu hiện gượng ép, đau khổ. “Từ việc cống nộp đầy đau khổ mới xuất hiện thêm những chi tiết: Lừa gạt để cống nộp; bị lừa gạt để trở thành vật hi sinh không tự giác và là kẻ đối nghịch bất đắc dĩ; mượn tay người khác để thoát khỏi nạn bị cống nộp”(6). Chúng tôi cho rằng, ngoài các yếu tố kể trên, việc phát triển của đời sống xã hội và gia tăng nhận thức của con người là cơ sở cho việc ra đời của mô tuýp diệt rắn ác. Tức là từ chỗ người ta chưa hiểu biết về nó, “thần phục” nó và cầu thân một cách tuyệt đối cho đến việc muốn chinh phục và loại trừ rắn ác vừa là khát vọng chinh phục tự nhiên và nhận thức mới về tự nhiên. Một trong những hình thức ưa thích của kẻ ăn thịt là nuốt người. “Đây là chức năng phụ của rắn, nhưng nó luôn được nhấn mạnh khi nói đến rắn”(7). Hình thức rắn nuốt người trong các truyện kể chủ yếu ở hai dạng: dạng thứ nhất là chiến đấu với rắn và bị nuốt. Truyện Pù Chộng Cha kể rằng: Ngày xưa có một anh con trai ở Mường Quáng yêu một cô gái say đắm. Ba năm ở rể, không làm nhà gái hài lòng vẫn muốn thử thách chàng trai. Họ bắt chàng phải cõng cô gái qua đèo dài cả ngày 37 đường mà không được nghỉ. Bằng tình yêu và sự thông minh, cả hai đều vượt qua đèo. Chàng cho nàng ngồi nghỉ và chạy về bản để chuẩn bị đám rước, khi chàng trở lại thì một con trăn to đã nuốt chửng cô gái. Chàng trai đánh nhau và mổ bụng trăn cứu người yêu nhưng nàng không còn nói được nữa. Hay truyện Chàng Bơ Lo hay sự tích sông Rin (Ca Dong) cũng có chi tiết chàng Bơ Lo bị xà tinh nuốt vào bụng. Trong cuộc đấu tranh đó xà tinh chết, chàng cũng chết, bà mẹ khóc đến chết, hoá thành núi Cai Niêng, nước mắt thành sông Rin Dạng thứ hai nhân vật chủ động tìm cách chui vào bụng rắn để làm đau nó, buộc nó phải phục tùng (như Tôn Ngộ Không chui vào bụng yêu quái). Cũng có khi con người (thường là cô gái) bị trói lại và chờ quái vật đến nuốt. (HơMênh chém Rắn thần; Chàng đánh cá Y Ang). Việc chui vào bụng rắn được thực hiện tương đối dễ dàng vì bản chất con vật rất hung hãn và luôn trong tư thế xông ra để nuốt chửng lấy nhân vật. Khi vừa thấy ông Hai, thuồng luồng đã xông ra toan nuốt chửng lấy chàng (Đại vương Hai hay là truyện giết thuồng luồng). Rõ ràng hành động nuốt người của rắn có liên quan đến sự mô phỏng hiện thực trong đời sống của rắn và hình thức nghi lễ trưởng thành thời cổ. Các nghi lễ vòng đời của một con người là hiện tượng văn hoá phổ biến của nhiều tộc người trên thế giới, trong đó nghi lễ trưởng thành đóng một vai trò rất quan trọng đối với từng thành viên của cộng đồng. Nó được xem là một trong những thiết chế đặc trưng trong chế độ thị tộc. (Mối liên hệ giữa một số mô tuýp trong truyện cổ tích với các nghi lễ có tính chất tôn giáo nguyên thủy đã được các nhà khoa học như: J. G. Frazer (người Anh), P. Saintyves (người Pháp), M. Eliade (người Mĩ gốc Rumani) chứng minh. Đặc biệt, V.Propp đã phát triển “tới một trình độ biến nó trở thành một niềm tin khoa học có cơ sở là những tài liệu vô cùng phong phú được khảo sát và phân tích một cách đầy sức thuyết phục”(8). Nghi lễ trưởng thành được thực hiện đối với các thành viên khi bắt đầu trưởng thành về mặt giới tính. Sau khi thực hiện nghi lễ này, cá nhân đó sẽ được tiếp nhận vào cộng đồng thị tộc, trở thành thành viên chính thức với đầy đủ tư cách trong cộng đồng. Tư tưởng chính của nghi lễ này gắn liền với quan niệm về cái chết và sự tái sinh. Nhờ việc chết đi và sống lại này mà người chịu lễ sẽ có được sức mạnh thần kì hoặc những hiểu biết quan trọng để có thể trở thành người lớn. “Cái chết tạm thời của người chịu lễ cũng được thể hiện dưới nhiều hình thức như đi lên trời, đi xuống âm phủ, đi vào thế giới của các linh hồn hay là bị một con ác thú nào đó như rồng, rắn, thuồng luồng hay thậm chí là mặt trời ăn thịt”(9). Theo Propp, các hình thức nghi lễ rất phong phú, “không theo một hình thức cố định nào cả nhưng có một số quy định được gọi là bất biến”, và thường có cảnh: “Người được hiến tế phải bò qua một công trình mô phỏng con quái vật. Ở những cộng đồng có nhà cửa, quái vật được mô phỏng là một túp lều, hoặc một ngôi nhà có hình dáng đặc biệt. Người được quái vật nuốt sau khi ra khỏi ngôi nhà thì dường như đã được lột xác, trở thành một người mới hoàn toàn khác trước”(10). Từ việc cầu thân, tự nguyện đến sự cưỡng chế trong việc cống nộp cho quái vật ăn thịt như đã nói ở phần trên là một sự vận động của tư duy thần thoại đến cổ tích, phản ánh thay đổi nhận thức của con người về thế giới tự nhiên nói chung. Từ đây xuất 38 hiện tâm lí chống đối và chinh phục các quái vật ăn thịt. Mô tuýp dũng sĩ diệt rắn ác có lẽ ra đời trên cơ sở ấy. Đảm đương trách nhiệm chống lại sự hoành hành của quái vật thường là một dũng sĩ tài giỏi. Đến đây người dũng sĩ diệt rắn ác “sẽ là đại diện văn hoá, là người khám phá ra bí mật của tự nhiên để giải phóng con người, cải tạo cuộc sống và xây dựng nền văn hoá”(11). Việc Thạch Sanh nhận được bộ cung tên bằng vàng sau khi thiêu xác Chằn tinh là phần thưởng cho nỗ lực giải mã tự nhiên của con người. Tuy nhiên, trong cuộc đấu tranh với ác thú không phải bao giờ người dũng sĩ cũng chiến thắng. Nhiều khi dũng sĩ cũng bị nuốt, thậm chí bị chết nhưng cuối cùng quái vật cũng đã bị tiêu diệt. Điều đáng chú ý ở đây là quái vật thường bị dũng sĩ chặt đầu, băm thành nhiều khúc, bị tiêu hủy (Truyện A Xanh) Đây có lẽ không đơn thuần là một chiến thắng mà chiến thắng triệt để, hoàn toàn, dù mất mát hi sinh là có thật. Phải chăng chinh phục tự nhiên, vượt lên làm chủ tự nhiên là khát vọng muôn đời của người xưa, người nay và cả mai sau. Trong truyện cổ của người Việt, đôi khi diệt rắn ác không phải là một dũng sĩ tài ba. Đó có thể là ông bố bình thường vì thương con bị quái vật bắt cóc, ăn thịt mà liều mình đi giết ác thú, hay một người đánh cá bình thường vì căm giận ác thú mà hành động. Truyện Con thuồng luồng kể rằng! Ngày xưa, có một bác nông dân nghèo có một cô con gái bị thuồng luồng bắt mất. Bác quyết tâm đi giết thuồng luồng để trả thù cho con. Hay trong truyện Ông lão bán muối giết thuồng luồng, đối thủ của quái vật cũng chỉ là người bán muối bình thường. Rõ ràng, trong cuộc đấu tranh chinh phục tự nhiên, những người nông dân có phẩm chất bình thường trong nỗ lực bảo vệ thành quả lao động của mình đã trở thành những vị anh hùng trên mặt trận văn hoá. Để tiêu diệt quái vật, các nhân vật dũng sĩ không những phải có tài năng, lòng can đảm mà còn phải có vũ khí. Một mô tuýp được lặp lại nhiều lần là đối thủ của quái vật luôn luôn có công cụ, vũ khí bằng sắt như con rựa, kiếm, dao... Mỗi chi tiết, mô tuýp nào đó tồn tại trong truyện cổ dân gian đều không bao giờ vô lí và ngẫu nhiên. Chúng tôi cho rằng mô tuýp này ẩn chứa bên trong những vấn đề về văn hoá lịch sử cần được giải mã. Theo từ điển biểu tượng văn hoá thế giới, Sắt là “biểu tượng của tính cường tráng, sự cứng rắn, tính bướng bỉnh, tính hà khắc thái quá, tính không lay chuyển được”(12). Trong khi đó thanh kiếm lại biểu tượng cho phẩm chất dũng cảm của nghề nhà binh. “Quyền lực của kiếm có hai mặt: nó tiêu hủy nhưng có thể tiêu hủy sự bất công, sự độc ác, sự ngu tối và vì vậy có tác dụng tích cực; và nó xây dựng, nó kiến lập và duy trì hoà bình và công lí” và khi kết hợp với cái cân, thanh kiếm có ý nghĩa riêng về công lí: “thanh kiếm phân biệt thiện á