Khả năng sử dụng thức ăn chế biến của cá leo (wallago attu) giai đoạn hương lên giống

1 GIỚI THIỆU Cá leo (Wallago attu Bloch và Schneider, 1801) là loài cá nước ngọt thuộc họ cá Siluridae, bộ Siluriformes có kích thước lớn với chiều dài cá đến 2 m và nặng hơn 45 kg (Talnar và Jhingra, 1991 trích dẫn bởi Giri et al., 2002). Cá leo phân bố rộng ở Nam và Đông Nam Á, ở Việt Nam cá leo phân bố chủ yếu ở Nam bộ (Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương, 1993). Cá leo thương phẩm hiện nay có giá khá cao và chủ yếu được khai thác từ nguồn cá có trong tự nhiên. Theo Lilabati và Vishwanath (1996) trong thịt cá leo có khối lượng từ 0,5 – 2 kg được đánh bắt ở Manupur, Ấn Độ có hàm lượng chất dinh dưỡng cao. Ở Cambodia cá thường được khai thác và bán sang Thái Lan dưới dạng tươi hoặc đông lạnh (Rainboth, 1996). Nguyễn Bạch Loan và ctv. (2006), đã nghiên cứu về đặc điểm hình thái và sinh học sinh sản cá leo phân bố tự nhiên ở huyện Tam Nông và Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp; thành phố Long Xuyên và Châu Đốc, tỉnh An Giang. Mùa vụ sinh sản của cá leo thường xuất hiện vào các tháng mùa mưa và tập trung nhiều nhất vào tháng 6 – 7 và sức sinh sản dao động từ 158.560 – 170.340 trứng/kg cá cái (Dương Nhựt Long và Nguyễn Hoàng Thanh, 2008)

pdf9 trang | Chia sẻ: hoang10 | Lượt xem: 426 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khả năng sử dụng thức ăn chế biến của cá leo (wallago attu) giai đoạn hương lên giống, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 361-369 Trường Đại học Cần Thơ 361 KHẢ NĂNG SỬ DỤNG THỨC ĂN CHẾ BIẾN CỦA CÁ LEO (Wallago attu) GIAI ĐOẠN HƯƠNG LÊN GIỐNG Lam Mỹ Lan và Trần Bảo Trang1 ABSTRACT The study on nursing Wallago attu small fingerlings - 27 days old (6,4 - 6,6 g/fish) using home-made feeds was carried out. Fish was stocked at density of 50 fish/tank. There were three treatments of feeds (I) home-made feed with 40% CP, (II) home-made feed with 50% CP and (III) trash fish. Each treatment had three replications. Fish were fed to satiation and feeding frequency was 4 times/day. During nursing period, fish samples were collected biweekly for fish growth performance. The results showed that some water parameters were in suitable ranges for fish growth. Survival rate in the control treatment (82 ± 11,1%) was significantly higher than that in the treatment I (p<0.05), but it was no significant difference from that in the treatment II (p>0.05). The final mean weight and total length in the control treatment were 63.8 ± 2.3 g and 23.5 ± 0.5 cm, respectively and fish in this treatment grew significantly better than two treatments using home made feed (P>0.05). Keywords: Wallago attu, nursing, home-made feed, trash fish. Title: nursing of Wallage attu using home-made feeds TÓM TẮT Nghiên cứu ương cá leo (Wallago attu Bloch và Schneider, 1801) bằng thức ăn chế biến được thực hiện ở cá 27 ngày tuổi (khối lượng 6,4 - 6,6 g/con). Thí nghiệm được bố trí trong bể composite (500 lít) ở mật độ 50 con/bể với 3 nghiệm thức thức ăn: (I) thức ăn chế biến (TĂCB) 40% đạm, (II) thức ăn chế biến 50% đạm và (III) cá tạp. Mỗi nghiệm thức lập lại 3 lần và thí nghiệm trong 30 ngày. Cá được cho ăn 4 lần/ngày và cho ăn thỏa mãn nhu cầu. Tăng trưởng của cá được theo dõi 2 tuần/lần. Kết quả một số yếu tố môi trường theo dõi nằm trong khoảng thích hợp cho sự sinh trưởng của cá con. Tỉ lệ sống của cá leo ở nghiệm thức cá tạp là 82 ± 11,1% cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nghiệm thức TĂCB 40% đạm (p<0,05), nhưng không khác biệt so với nghiệm thức TĂCB 50% đạm (p>0,05). Khối lượng và chiều dài trung bình của cá leo khi kết thúc thí nghiệm ở nghiệm thức cá tạp là 63,8 ± 2,3 g và 23,5 ± 0,5 cm, đạt cao nhất và khác biệt có ý nghĩa (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại. 1 Khoa Thủy sản, Đại học Cần Thơ Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 361-369 Trường Đại học Cần Thơ 362 Sử dụng thức ăn chế biến ương cá leo từ 27 ngày tuổi thì cá tăng trưởng chậm hơn so với sử dụng thức ăn cá tạp. Thức ăn chế biến có hàm lượng đạm cao (50%) hay thức ăn là cá tạp được sử dụng để ương cá leo đều đạt tỷ lệ sống không khác biệt nhau (p<0,05). Từ khóa: Cá leo (Wallago attu), ương cá, thức ăn chế biến, cá tạp. 1 GIỚI THIỆU Cá leo (Wallago attu Bloch và Schneider, 1801) là loài cá nước ngọt thuộc họ cá Siluridae, bộ Siluriformes có kích thước lớn với chiều dài cá đến 2 m và nặng hơn 45 kg (Talnar và Jhingra, 1991 trích dẫn bởi Giri et al., 2002). Cá leo phân bố rộng ở Nam và Đông Nam Á, ở Việt Nam cá leo phân bố chủ yếu ở Nam bộ (Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương, 1993). Cá leo thương phẩm hiện nay có giá khá cao và chủ yếu được khai thác từ nguồn cá có trong tự nhiên. Theo Lilabati và Vishwanath (1996) trong thịt cá leo có khối lượng từ 0,5 – 2 kg được đánh bắt ở Manupur, Ấn Độ có hàm lượng chất dinh dưỡng cao. Ở Cambodia cá thường được khai thác và bán sang Thái Lan dưới dạng tươi hoặc đông lạnh (Rainboth, 1996). Nguyễn Bạch Loan và ctv. (2006), đã nghiên cứu về đặc điểm hình thái và sinh học sinh sản cá leo phân bố tự nhiên ở huyện Tam Nông và Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp; thành phố Long Xuyên và Châu Đốc, tỉnh An Giang. Mùa vụ sinh sản của cá leo thường xuất hiện vào các tháng mùa mưa và tập trung nhiều nhất vào tháng 6 – 7 và sức sinh sản dao động từ 158.560 – 170.340 trứng/kg cá cái (Dương Nhựt Long và Nguyễn Hoàng Thanh, 2008) Giri et al., (2002) nghiên cứu ương cá leo bằng thức ăn là phiêu sinh động vật kết hợp với thức ăn chế biến có hàm lượng đạm là 48,7% thì cá tăng trưởng nhanh và tỷ lệ sống cao hơn chỉ cho ăn phiêu sinh động vật. Tuy nhiên, nghiên cứu này chỉ ương cá tới 11 ngày tuổi nên cá chưa đạt kích cỡ cá giống để thả nuôi trong ao, bè. Hiện nay, chưa có nghiên cứu về loại thức ăn sử dụng trong quá trình ương giống cá leo cũng như nuôi thương phẩm loài cá này. Vì thế nghiên cứu khả năng sử dụng thức ăn chế biến ương cá leo được thực hiện nhằm đánh giá khả năng sử dụng thức ăn chế biến của cá leo giai đoạn giống nhỏ, nhằm góp phần xây dựng qui trình kỹ thuật ương giống cá leo phục vụ cho nhu cầu nuôi thương phẩm ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. 2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 Hệ thống thí nghiệm Hệ thống thí nghiệm gồm 9 bể composite có thể tích 500 lít/bể, được bố trí trong Trại cá thực nghiệm, Bộ môn Kỹ thuật nuôi cá nước ngọt, Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ. Bể được sục khí liên tục trong suốt thời gian ương cá. Nguồn nước cung cấp cho hệ thống là nước máy đã được khử Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 361-369 Trường Đại học Cần Thơ 363 chlorine. Thí nghiệm được tiến hành trong hệ thống nước chảy tràn. Nước được xử lý qua hệ thống lọc sinh học tuần hoàn tách đạm và khử trùng bằng tia cực tím. 2.2 Bố trí thí nghiệm Cá dùng để thí nghiệm được ương từ khi mới nở đến 27 ngày tuổi bằng Moina và trùn chỉ. Trước khi bố trí thí nghiệm 3 ngày, cá được tập cho ăn thức ăn chế biến bằng cách giảm dần số lần cho ăn trùn chỉ. Sau đó chọn cá có kích cỡ đồng đều với khối lượng trung bình từ 6,4 – 6,6 g/con và chiều dài trung bình từ 11,1 – 11,3 cm/con bố trí ngẫu nhiên vào bể với mật độ 50 con/bể. Thí nghiệm được bố trí gồm 3 nghiệm thức thức ăn sử dụng để ương cá: nghiệm thức (I) thức ăn chế biến (TĂCB) 40% đạm, (II) TĂCB 50% đạm và (III) cá tạp. Mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần. Thành phần nguyên liệu để làm thức ăn chế biến gồm cá ngừ, bột cá, cám, khoáng (Potassium chloride, Sodium sulphate, Sodium chloride, Manganese sulphate, Copper sulphate, Zinc sulphate, Magnesium sulphate) (Bảng 1). Cá ngừ được phi lê lấy thịt và trộn với các nguyên liệu khác và cho vào máy xay. Thức ăn được bảo quản ở 4◦C. Thành phần dinh dưỡng chủ yếu của thức ăn dùng trong thí nghiệm được trình bày ở Bảng 2. Bảng 1: Thành phần nguyên liệu phối chế thức ăn chế biến Nguyên liệu Tỷ lệ nguyên liêu (% theo khối lượng tươi) TACB (40% đạm) TACB (50% đạm) Cá ngừ (66% đạm theo KLK) 39 58 Bột cá (53% đạm theo KLK) 15 15 Cám 42 23 Khoáng 2 2 Vitamin C 2 2 Ghi chú: KLK: khối lượng khô Bảng 2: Thành phần của thức ăn thí nghiệm Loại thức ăn thí nghiệm Thành phần (% khối lượng khô) TĂCB 40% đạm TĂCB 50% đạm Cá tạp (cá cơm) Chất đạm 39,36 48,92 64,63 Chất béo 5,58 3,84 6,18 Ẩm độ 54,55 62,64 79,78 Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 361-369 Trường Đại học Cần Thơ 364 2.3 Quản lý và cho ăn Trong quá trình thí nghiệm, cá được cho ăn thỏa mãn nhu cầu và cá được cho ăn 4 lần/ngày vào các thời lúc 8 giờ, 11 giờ, 14 giờ, và 18 giờ. Trong quá trình ương cá, theo dõi và ghi nhận các hoạt động ăn, bơi lội, bắt mồi của cá. Phân cá và thức ăn thừa được siphon 2 lần/ ngày vào lúc 7 giờ và 13 giờ. Thời gian thực hiện thí nghiệm là 30 ngày. 2.4 Phương pháp thu mẫu Các yếu tố môi trường như nhiệt độ, oxy, pH được theo dõi định kỳ hàng tuần bằng máy (YSI 556 MPS). Trong quá trình thí nghiệm thu mẫu và phân tích hàm lượng NO2- và N-NH4+ trong các bể thí nghiệm nhưng hàm lượng hai yếu tố này rất thấp do nước cấp cho bể thí nghiệm đã qua bộ phận xử lý và tách đạm. Trước khi bố trí thí nghiệm, tiến hành cân đo mẫu cá (30 con/ bể) để xác định khối lượng ban đầu. Trong thời gian thí nghiệm, tiến hành kiểm tra khối lượng của cá định kì 2 tuần/ lần và khi kết thúc thí nghiệm với số mẫu cá là 30 con/bể, đồng thời cân khối lượng tổng của toàn bộ số cá trong bể ương và đếm số cá còn lại trong từng bể ương để xác định tỉ lệ sống của cá thí nghiệm. 2.5 Xử lý số liệu Số liệu được tính toán giá trị trung bình, độ lệch chuẩn, so sánh trung bình giữa các nghiệm thức dựa vào Anova một nhân tố và phép thử Ducan thông qua phân tích thống kê sinh học bằng phần mềm SPSS 16.0. Hình 1. Cá leo ương trong bể bằng thức ăn chế biến (a) và cá leo sau khi kết thúc thí nghiệm (cá có khối lượng khoảng 60 g, chiều dài 20 cm) (b) 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1 Một số yếu tố môi trường Các yếu tố môi trường trong suốt thời gian thí nghiệm cho thấy nhiệt độ nước trung bình 29,2 – 29,3oC; oxy dao động từ 4,42 – 4,73 ppm và pH từ 7,08 – a b Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 361-369 Trường Đại học Cần Thơ 365 7,13 (Bảng 3). Theo Boyd (1990) thì các yếu tố môi trường theo dõi trong quá trình thí nghiệm nằm trong khoảng thích hợp cho sự phát triển của cá. Bảng 3: Một số yếu tố môi trường trong bể ương cá leo Yếu tố TĂCB 40% đạm TĂCB 50% đạm Cá tạp Nhiệt độ (◦C) 29,2 ± 0,7 29,2 ± 0,7 29,3 ± 0,5 Oxy (ppm) 4,73 ± 0,4 4,62 ± 0,7 4,42 ± 0,8 pH 7,08 ± 0,3 7,09 ± 0,4 7,13 ± 0,3 3.2 Tỉ lệ sống của cá Bảng 4: Tỉ lệ sống của cá leo ương bằng thức ăn khác nhau Đợt thu TĂCB 40% đạm TĂCB 50% đạm Cá tạp 15 ngày 87,3 ± 6,4 82,0± 2,0 90,0 ± 10,6 30 ngày 64,7 ± 4,2a 71,3 ± 2,3ab 82,0 ± 11,1b Sau 15 ngày ương, tỷ lệ sống của cá ở các nghiệm thức khá cao, dao động 82 – 90% và giữa các nghiệm thức không có sự khác biệt (p>0,05) (Bảng 4). Tuy nhiên, trong quá trình ương ở các nghiệm thức thức ăn chế biến, những ngày đầu cá ăn rất ít do chưa quen ăn thức ăn chế biến nên xảy ra hiện tượng cá ăn nhau rất nhiều. Tuy nhiên, do cá trong các bể có kích cỡ đồng đều nên cá không thể nuốt được đồng loại mà chỉ cắn phần đuôi dẫn đến cá trong các bể cho ăn thức ăn chế biến xây sát rất nhiều. Theo Phan Phương Loan (2006) thì cá leo có miệng rất rộng, răng hàm sắc nhọn và có nhiều răng chó. Ngoài ra, tỉ lệ chiều dài ruột so với chiều dài chuẩn của cá nhỏ hơn 1 (giá trị trung bình là 0,58) nên đây là loài cá ăn động vật. Vì thế, cá leo có hiện tượng cá ăn thịt lẫn nhau làm cá hao hụt trong quá trình ương nuôi. Sau 30 ngày ương tỷ lệ sống của cá giảm ở hầu hết các nghiệm thức nhưng cá hao hụt nhiều ở các nghiệm thức cho ăn thức ăn chế biến. Tỉ lệ sống đạt cao nhất vẫn là nghiệm thức cá tạp (82 ± 2,0%), thấp nhất là nghiệm thức TĂCB 40% đạm (64,7 ± 4,2%) và giữa 2 nghiệm thức này khác biệt có ý nghĩa (p<0,05). Riêng ở nghiệm thức TĂCB 50% đạm tỷ lệ sống là (71,3 ± 2,3%) khác biệt không có ý nghĩa (p>0,05) so với nghiệm thức TĂCB 40% đạm và nghiệm thức cá tạp. Theo Ngô Vương Hiếu Tính (2008) thí nghiệm ương cá leo thì nghiệm thức cho cá ăn hoàn toàn trùn chỉ cho tỷ lệ sống cao nhất (52,33%) sau 30 ngày ương. Qua đó cho thấy khi cho cá leo ăn thức ăn tươi sống thì cho tỷ lệ sống cao hơn cho cá ăn thức ăn chế biến. Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 361-369 Trường Đại học Cần Thơ 366 3.3 Tăng trưởng về khối lượng của cá Sau 15 ngày ương ở nghiệm thức cá tạp có khối lượng trung bình lớn nhất 34,6 ± 1,7 g và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức cho ăn thức ăn chế biến. Trong khi đó nghiệm thức TĂCB 40% đạm và nghiệm thức TĂCB 50% đạm tăng trưởng không chênh lệch nhiều, ở nghiệm thức TĂCB 40% đạm là 14,4 ± 1,4 g và nghiệm thức TĂCB 50% đạm là 15,8±1,2 g. Tương tự, sau 30 ngày ương thì ở nghiệm thức cá tạp cũng có khối lượng trung bình lớn nhất 63,8 ± 2,3 g và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với 2 nghiệm thức còn lại. Bảng 5: Tăng trưởng về khối lượng của cá leo khi ương bằng thức ăn khác nhau Nghiệm thức TĂCB 40% đạm TĂCB 50% đạm Cá tạp Wđầu (g) 6,60 ± 0,3 6,38 ± 0,2 6,52 ± 0,6 W15 ngày (g) 14,4 ± 1,4a 15,8 ± 1,2a 34,6 ± 1,7b DWG15 ngày (g/ngày) 0,52 ± 0,07a 0,63 ± 0,1a 1,87 ± 0,12b SGR15 ngày (%/ngày) 5,2 ± 0,3a 6,0 ± 0,8a 11,1 ± 0,6b W30 ngày (g) 22,2 ± 2,0a 26,0 ± 2,8a 63,8 ± 2,3b DWG30 ngày (g/ngày) 0,53 ± 0,06a 0,67 ± 0,12a 1,93 ± 0,06b SGR30 ngày (%/ngày) 4,0 ± 0,15a 4,7 ± 0,5a 7,6 ± 0,2b Các giá trị trong cùng một hàng theo sau bởi các chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa (p < 0,05) Sau 15 ngày ương, tốc độ tăng trưởng đặc biệt về khối lượng của cá tăng nhanh và dao động từ 5,2 – 11,1%/ngày. Mức tăng khối lượng cao nhất ở nghiệm thức cá tạp là 11,1%/ngày và sai khác có ý nghĩa (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại. Ở nghiệm thức TĂCB 40% đạm và TĂCB 50% đạm có tốc độ tăng trưởng đặc biệt lần lượt là 5,2%/ngày và 6,0%/ngày và không khác biệt nhau (p>0,05). Khi cá ở giai đoạn sau 30 ngày ương, tốc độ tăng trưởng về khối lượng chậm lại và dao động từ 4,0 – 7,6%/ngày. Cao nhất vẫn là nghiệm thức TĂCB 50% đạm (7,6%/ngày) và khác biệt có ý nghĩa (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại, trong khi đó nghiệm thức TĂCB 40% đạm (4,0%/ngày) khác biệt có ý nghĩa (p<0,05) với nghiệm thức cá tạp (4,7%/ngày). Theo Goswami và Devraj (1992) trích dẫn bởi Giri et al., (2002) thì cá leo là loài cá tăng trưởng nhanh. Cá leo ở thí nghiệm này khi kết thúc thí nghiệm ở nghiệm thức cho ăn cá tạp thì khối lượng đạt trên 60 g/con và tốc độ tăng trưởng cao so với cá được cho ăn thức ăn chế biến. Kết quả thí nghiệm ở cá leo tương tự như nghiên cứu của Long et al., (2004) khi sử dụng thức ăn chế biến 30%, 40% và 50% đạm cho cá lóc (Channa striata) thì cá tăng trưởng tốt nhất ở nghiệm thức thức ăn chế biến có hàm lượng đạm cao nhất sau 45 ngày ương. Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 361-369 Trường Đại học Cần Thơ 367 3.4 Tăng trưởng về chiều dài Sau 15 ngày ương ở nghiệm thức cá tạp, cá có chiều dài trung bình lớn nhất 19,2 cm và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại (Bảng 6). Trong khi đó nghiệm thức TĂCB 40% đạm và nghiệm thức TĂCB 50% đạm tăng trưởng chênh lệch không có ý nghĩa (p>0,05). Tương tự, sau 30 ngày ương thì ở nghiệm thức cá tạp cũng có chiều dài trung bình lớn nhất 23,5 cm và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với 2 nghiệm thức còn lại là nghiệm thức TĂCB 40% đạm (17,1 cm) và nghiệm thức TĂCB 50% đạm (17,8 cm). Bảng 6: Tăng trưởng về chiều dài của cá leo ương bằng thức ăn khác nhau Nghiệm thức TĂCB 40% đạm TĂCB 50% đạm Cá tạp Lđầu (cm) 11,3 ± 0,1 11,1 ± 0,2 11,2 ± 0,4 L15 ngày (cm) 15,4 ± 0,3a 15,6 ± 0,4a 19,2 ± 0,3b DLG15 ngày(cm/ngày) 0,27 ± 0,02a 0,29 ± 0,04a 0,54 ± 0,02b SGR15 ngày (%/ngày) 2,1 ± 0,2a 2,2 ± 0,3a 3,6 ± 0,2b L30 ngày (cm) 17,1 ± 0,6a 17,8 ± 0,5a 23,5 ± 0,5b DLG30 ngày (cm/ngày) 0,19 ± 0,02a 0,22 ± 0,02a 0,41 ± 0,0b SGR30 ngày (%/ngày) 1,4 ± 0,1a 1,6 ± 0,2a 2,5 ± 0,06b Các giá trị trong cùng một hàng theo sau bỏi các chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa (p < 0,05) Ở giai đoạn 15 ngày sau khi bố trí, cá leo có tốc độ tăng trưởng đặc biệt về chiều dài tăng khá nhanh và dao động từ 2,1 – 3,6%/ngày. Trong đó, mức tăng chiều dài cao nhất ở nghiệm thức cá tạp là 3,6%/ngày kết quả này khác biệt có ý nghĩa (p<0,05) so với 2 nghiệm thức còn lại. Khi cá ở giai đoạn 30 ngày tuổi, tốc độ tăng trưởng về chiều dài chậm hơn giai đoạn cá nhỏ và dao động từ 1,4 – 2,5%/ngày giữa các nghiệm thức thức ăn. Trong đó, cao nhất vẫn là nghiệm thức III (2,5%/ngày) và khác biệt có ý nghĩa (p<0,05) với các nghiệm thức còn lại. Giữa hai nghiệm thức thức ăn chế biến thì tốc độ tăng trưởng về chiều dài khác biệt không có ý nghĩa (p>0,05). Tốc độ tăng trưởng về khối lượng và chiều dài của cá leo ở nghiệm thức cá tạp luôn nhanh hơn các nghiệm thức thức ăn chế biến. Nguyên nhân là do cá leo là loài cá dữ, ăn động vật nên cá tạp là thức ăn ưa thích của cá và cá tạp có hàm lượng đạm cao hơn so với thức ăn chế biến. Kết quả này cũng tương tự như kết quả nghiên cứu cho cá lóc bông ăn thức ăn chế biến thì cá rất khó bắt mồi nên không đủ lượng thức ăn cần thiết (Nguyễn Anh Tuấn et al., 2004). Ở nghiệm thức TĂCB 40% đạm và TĂCB 50% đạm thì tốc độ tăng trưởng về chiều dài của cá không có sự chênh lệch nhiều. Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 361-369 Trường Đại học Cần Thơ 368 Kết quả về tỉ lệ sống và tăng trưởng của cá leo ở thí nghiệm này cho thấy cá có thể ăn thức ăn chế biến 40% và 50% đạm nhưng tăng trưởng của cá chậm so với cá được cho ăn thức ăn cá tạp. Việc thay thế thức ăn tươi sống bằng thức ăn chế biến để ương cá leo ở giai đoạn cá từ 27 ngày tuổi ảnh hưởng ít đến tỷ lệ sống của cá nhưng ảnh hưởng nhiều đến tăng trưởng về khối lượng và chiều dài của cá. Theo Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Hương Thùy (2008) cá thát lát còm giai đoạn cá hương (20 ngày tuổi) cho ăn thức ăn kết hợp giữa thức ăn chế biến và trùn chỉ thì cá đạt tỷ lệ sống và tăng trưởng sau 25 ngày ương tốt hơn so với cá chỉ cho ăn đơn thuần cá xay hay thức ăn chế biến. Vì vậy, sử dụng hoàn toàn thức ăn chế biến để ương cá leo từ giai đoạn cá hương lên cá giống trong nghiên cứu làm giảm tăng trưởng của cá. Điều này đã được khẳng định trong nghiên cứu của Ngô Minh Dung (2010) là cá lóc giai đoạn bốt có khả năng sử dụng thức ăn chế biến và phương thức tập ăn bằng cách thay thế 10% thức ăn chế biến mỗi ngày cũng như có bổ sung chất dẫn dụ là dịch cá thủy phân thì cải thiện được tỷ lệ sống và tăng trưởng của cá. 4 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 4.1 Kết luận - Sử dụng thức ăn chế biến có hàm lượng đạm 50% để ương cá leo giai đoạn từ 27 ngày tuổi thì tỷ lệ sống của cá (71,3 ± 2,3%) không khác biệt so với sử dụng thức ăn là cá tạp (đạt tỷ lệ sống 82 ± 2,0%). - Khối lượng và chiều dài trung bình của cá leo đạt 63,8 ± 2,3 g và 23,5 ± 0,5 cm khi cho cá leo ăn cá tạp và tăng trưởng của cá nhanh hơn cá được cho ăn thức ăn chế biến (22,2 – 26 g và 17,1 – 17,8 cm). 4.2 Đề xuất Cần nghiên cứu phương thức thay thế thức ăn chế biến và sử dụng thức ăn chế biến kết hợp với thức ăn tươi sống cho cá leo để tìm ra loại thức ăn thích hợp ương nuôi cá leo đạt tỷ lệ sống và tăng trưởng nhanh. Ngoài ra, cần nghiên cứu nhu cầu chất đạm và chất béo của cá leo nhằm cung cấp thức ăn có đủ dinh dưỡng theo nhu cầu của cá leo cho cá trong quá trình ương và nuôi. LỜI CẢM TẠ Các tác giả xin chân thành cảm ơn Sở Khoa học và Công nghệ An Giang đã hỗ trợ kinh phí cho nghiên cứu này. Cảm ơn thầy Trần Văn Đua, em Nguyễn Hoàng Thanh, Nguyễn Hồng Quyết Thắng, và các em sinh viên ở trại cá thực nghiệm, Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ đã hỗ trợ trong việc sinh sản nhân tạo cá leo để có nguồn cá thí nghiệm. Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 361-369 Trường Đại học Cần Thơ 369 TÀI LIỆU THAM KHẢO Boyd, C.E, 1990. Water quality in pond for aquaculture. Auburn University. Alabama. 482p. Dương Nhựt Long và Nguyễn Hoàng Thanh, 2008. Kết quả bước đầu về sinh sản nhân tạo cá leo (Wallago attu Schneider). Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Cần Thơ, 29 – 35. Giri S.S., Sahoo. S.K., Sahu B.B., Sahu A.K., Mohanty S.N., Mukhopadhyay P.K. and Ayyappan S. 2002. Larval survival and growth in Wallago attu (Bloch and Schneider): effects of light, photoperiod and feeding regines. Aquaculture 213: 151-161. Lilabati, H and W. Vishwanath, 1996. Nutritional quality of freshwater catfish (Wallago attu) available in Manipur, Indian. Food chemistry Vol. 57(2): 197 - 199. Long D.N., N.A. Tuan, N.V. Trieu, L. S. Trang, L. M. Lan, J. C. Micha. Artificial Reproduction, Larvae Rearing and Market Production Techniques of a New Species for Fish Culture: Snakehead (Channa striata Block, 1795). Mededelingen der Zittingen, Koninklijke Academie Voor Overzeer Wetenschappen, Bullentin des Seances 50(4): 497-517. 2004. Academi Royale des Sciences d'outre-Mer. Ngô Minh Dung, 2010. Nghiên cứu phương thức thay thế thức ăn chế biến trong ương cá lóc đen (Channa striata). Luận văn Thạc sĩ ngành Nuôi trồng Thủy sản, Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ. Ngô Vương Hiếu Tính, 2008. Nghiên cứu kích thích sinh sản nhân tạo và
Tài liệu liên quan