Khái niệm Thị trường ngoại hối và tỷ giá hối đoái

Mỗi quốc gia trên thế giới đều có đồng tiền riêng của mình, và do đó, trong mội hoạt động buôn bán quốc tế, ít nhất phải có một bên tham gia sử dụng đến ngoại tệ. Còn nếu như đồng tiền của tất cả các bên tham gia đều không đổi được thì họ thỏa thuận sử dụng đến một ngoại tệ chuyển đổi tự do để giao dịch với nhau. Để thực hiện các giao dịch này các bên tham gia mua bán phải tìm gặp gỡ nhau để thương lượng. Do vậy, cần phải có một thị trường để chuyển đổi từ đồng tiền nước này sang đồng tiền nước khác, tức là đòi hỏi phải có thị trường ngoại hối. Thị trường ngoại hối là thị trường tiền tệ quốc tế trong đó diễn ra các hoạt động giao dịch các ngoại tệ và các phương tiện thanh toán có giá trị như ngoại tệ. Các giao dịch thực hiện trên thị trường ngoại hối sẽ quyết định các mức tỷ giá theo đó các đồng tiền được trao đổi với nhau, và từ đó tác động tới chi phí của các giao dịch mua bán hàng hóa, dịch vụ và tài sản.

doc19 trang | Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 3573 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Khái niệm Thị trường ngoại hối và tỷ giá hối đoái, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thị trường ngoại hối và tỷ giá hối đoái 5.1.1. Khái niệm, nội dung và chức năng của thị trường ngoại hối 1. Khái niệm thị trường ngoại hối Mỗi quốc gia trên thế giới đều có đồng tiền riêng của mình, và do đó, trong mội hoạt động buôn bán quốc tế, ít nhất phải có một bên tham gia sử dụng đến ngoại tệ. Còn nếu như đồng tiền của tất cả các bên tham gia đều không đổi được thì họ thỏa thuận sử dụng đến một ngoại tệ chuyển đổi tự do để giao dịch với nhau. Để thực hiện các giao dịch này các bên tham gia mua bán phải tìm gặp gỡ nhau để thương lượng. Do vậy, cần phải có một thị trường để chuyển đổi từ đồng tiền nước này sang đồng tiền nước khác, tức là đòi hỏi phải có thị trường ngoại hối. Thị trường ngoại hối là thị trường tiền tệ quốc tế trong đó diễn ra các hoạt động giao dịch các ngoại tệ và các phương tiện thanh toán có giá trị như ngoại tệ. Các giao dịch thực hiện trên thị trường ngoại hối sẽ quyết định các mức tỷ giá theo đó các đồng tiền được trao đổi với nhau, và từ đó tác động tới chi phí của các giao dịch mua bán hàng hóa, dịch vụ và tài sản. Hiện nay, có hai hệ thống tổ chức thị trường ngoại hối khác nhau: - Hệ thống Anh _mỹ: thị trường ngoại hối có tính chất biểu tượng, các giao dịch ngoại hối chỉ được xảy ra thường xuyên giữa một số ngân hàng và người môi giới, chủ yếu thông qua điện thoại, telex - Hệ thống ngoại hối Châu Âu, thị trường ngoại hối có địa điểm nhất định, giao dịch hàng ngày. Các ngân hàng thương mại cỡ lớn có các chi nhánh, đại lý ở nước ngoài giữ vai trò kinh doanh chủ yếu, chi phối các ngân hàng khác trong thị trường ngoại hối. 2. Các chức năng của thị trường ngoại hối Các thị trường ngoại hối tích cực tham gia vào quá trình tái sản xuất xã hội. Thông qua các giao dịch mua bán ngoại tệ mà chúng thực hiện các chức năng cơ bản sau đây: * Thị trường ngoại hối là cơ chế hữu hiệu đáp ứng nhu cầu mua bán, trao đổi ngoại tệ nhằm phục vụ cho chu chuyển, thanh toán trong các lĩnh vực đầu tư, thương mại và phi thương mại quốc tế. * Thị trường ngoại hối là công cụ để ngân hàng trung ương có thể thực hiện chính sách tiền tệ nhằm điều khiển nền kinh tế theo mục tiêu của chính phủ. Chẳng hạn, chính phủ muốn khuyến khích xuất khẩu, nhằm giảm thiểu sự thâm hụt cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế, chính phủ có thể yêu cầu ngân hàng trung ương can thiệp thông qua thị trường ngoại hối bằng cách mua ngoại tệ vào. Ngược lại, nếu ngoại tệ lên giá quá cao so với nội tê đến mức có thể tạo áp lực gây ra lạm phát, chính phủ có thể yêu cầu ngân hàng trung ương can thiệp bằng cách bán ngoại tệ ra để nâng giá đồng nội tệ lên. 5.1.2. Các thành phần tham gia thị trường ngoại hối Về nguyên tắc, bất cứ một cá nhân hay chủ thể kinh tế nào muốn đổi từ một đồng tiền sang một đồng tiền khác đều trở thành chủ thể tham gia vào thị trường ngoại hối. Song tùy theo luật lệ riêng của mỗi nước quy định, chủ thể tham gia vào thị trường ngoại hối có thể khác nhau. Nhìn chung, các thành phần tham gia vào thị trường ngoại hối bao gồm những chủ thể sau: 1. Các ngân hàng : Bao gồm các ngân hàng trung ương, các ngân hàng thương mại và các ngân hàng đầu tư. * Các ngân hàng trung ương: Ở hầu hết các nước, ngân hàng trung ương là người đóng vai trò tổ chức, kiểm soát, điều hành và ổn định hoạt động của thị trường ngoại hối nhằm ổn yết giá cả và tỷ giá hối đoái. * Các ngân hàng thương mại và các ngân hàng đầu tư: tham gia chủ yếu vào các hoạt động của thị trường ngoại hối nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh hay cung cấp các dịch vụ cho khách hàng khi thực hiện vai trò môi giới. Vai trò của các ngân hàng tham gia vào thị trường ngoại hối phụ thuộc nhiều vào các yếu tố như quy mô, uy tín, mạng lưới các chi nhánh ở nước ngoài, tình trạng mạng lưới thông tin liên lạc tại nơi ngân hàng đặt trụ sở. Do vậy, phần lớn các giaodịch về ngoại tệ thuộc về các ngân hàng hàng đầu, chẳng hạn như ngân hàng Châu Mỹ, City Bank, các ngân hàng Clearing ở Anh, các ngân hàng ở Đức. 2. Các nhà môi giới Các nhà môi giới là chủ thể trung gian trong các giao dịch ngoại hối. Do có nhiều mối quan hệ nên họ cung cấp cho các ngân hàng những thông tin kịp thời về thị trường một cách thường xuyên, đồng thời giúp ngân hàng có được khả năng tìm thấy bạn hàng ngay khi cần thiết. Thông thường trên thế giới, người ta áp dụng cách phân chia tiền hoa hồng trả cho người môi giới, trong đó mỗi bên bán và mỗi bên mua phải trả một nửa. 3. Các công ty xuyên quốc gia và các doanh nghiệp Từ cuối những năm 1960, vai trò của các công ty xuyên quốc gia trên thị trường ngoại hối đã tăng lên mạnh mẽ. Nguyên nhân là do các công ty này thi hành chính sách mở rộng các nguồn dự trữ ngoại tệ, giảm bớt nguy cơ thiệt hại do mất giá của các nguồn vốn tính bằng các đồng tiền không ổn định, đồng thời tích cực chạy đua vì lợi nhuận trên cơ sở thu chênh lệch tỷ giá. Nếu như tỷ giá của một đồng tiền nào đó có xu hướng giảm xuống thì các công ty xuyên quốc gia sẽ chuyển nguồn vốn của mình sang các đồng tiền khác ổn định hơn. Hiện nay, các chi nhánh của nhiều công ty xuyên quốc gia có quy mô lớn hơn cả một vài ngân hàng cỡ trung bình. Các doanh nghiệp tham gia vào thị trường ngoại hối chủ yếu là các doanh nghiệp có chức năng xuất nhập khẩu vì các doanh nghiệp này vừa là chủ thể cần ngoại tệ, vừa là chủ thể cung ngoại tệ trong các hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Các doanh nghiệp này được xem như là chủ thể hình thành nên khối lượng mua và bán ngoại tệ lớn nhất trên thị trường ngoại hối. 4. Các cá nhân Nhóm này bao gồm các công dân trong và ngoài nước có nhu cầu mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối khi đầu tư, cho vay, đi công tác hay du lịch ở nước ngoài hoặc khi nhận được các khoản lợi tức đầu tư hay chuyển tiền. 5.1.3. Các hình thức giao dịch trên thị trường ngoại hối Thị trường ngoại hối có thể được chia thành thị trường giao ngay và thị trường kỳ hạn. Trên thị trường giao ngay, các giao dịch mua bán được thực hiện trong vòng 3 ngày kể từ thời điểm hợp đồng được thỏa thuận, còn trên thị trường kỳ hạn thì hợp đồng được thực hiện vào một ngày nào đó trong tương lai, thường là 30, 60 hoặc 90 ngày kể từ ngày ký kết hợp đồng. Các mức tỷ giá giao ngay và tỷ giá kỳ hạn đều được quy định vào thời điểm ký kết hợp đồng. Tỷ giá giao ngay là tỷ giá được xác định và có giá trị tại thời điểm giao dịch. Tỷ giá có kỳ hạn là tỷ giá được xác định trước vào lúc ký kết hợp đồng nhưng được áp dụng cho tương lai. Ngoài các giao dịch giao ngay và giao dịch có kỳ hạn trên thị trường hối đoái còn phổ biến nhiều hình thức giao dịch phức tạp khác như giao dịch chuyển hối, giao dịch hoán đổi, giao dịch giao sau và giao dịch quyền chọn. Các nghiệp vụ cơ bản trên thị trường ngoại hối a. Nghiệp vụ ngoại hối giao ngay Khái niệm: Nghiệp vụ ngoại hối giao ngay là nghiệp vụ mua hay bán ngoại tệ mà việc chuyển giao ngoại tệ được thực hiện ngay hoặc chậm nhất là sau hai ngày làm việc (trừ ngày nghỉ cuối tuần và ngày nghỉ hàng tuần của các quốc gia tôn giáo vào thứ sáu như Kuwait và A rập) kể từ khi thỏa thuận hợp đồng mua bán. Nghiệp vụ này diễn ra trên thị trường giao ngay và được thực hiện trên cơ sở tỷ giá giao ngay (Spot rate), tức là tỷ giá được xác định và có giá trị tại thời điểm giao dịch. Tỷ giá giao ngay thường được niêm yết ở tất cả các ngân hàng thương mại và trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, đài truyền thanh, truyền hình. Chi phí giao dịch Các ngân hàng không thường không thu phí giao dịch mà sử dụng chênh lệch giữa tỷ giá mua và tỷ giá bán để trang trải chi phí giao dịch, bù đắp rủi ro và thu lợi nhuận. Chênh lệch giữa tỷ giá mua và tỷ giá bán thường được xác định như sau: Cơ chế giao dịch: Cơ chế giao dịch hối đoái giao ngay tương đối đơn giản hơn các giao dịch khác. Chẳng hạn, một nhà nhập khẩu Việt Nam cần 1 triệu USD để chi trả cho nhà xuất khẩu Mỹ. Sau khi liên hệ với một ngân hàng và thỏa thuận tỷ giá ngân hàng, các thức thanh toán, ngân hàng gửi cho nhà nhập khẩu bản hợp đồng bằng văn bản trong đó ghi rõ lượng ngoại tệ mua, số lượng VND phải chi trả theo tỷ giá thỏa thuận và hình thức thanh toán. Sau đó, ngân hàng sẽ liên hệ với ngân hàng đại lý ở Mỹ để thực hiện thanh toán. Đến ngày thanh toán (sau hai ngày làm việc) ngân hàng sẽ ghi Nợ tài khoản nhà nhập khẩu trong ngân hàng trong khi ngân hàng đại lý ghi Có trong tài khoản nhà xuất khẩu. b. Nghiệp vụ chuuyển hối (Arbitrage operations) Khái niệm: Đây là nghiệp vụ dựa vào chênh lệch tỷ giá giữa các thị trường ngoại hối để thu lợi nhuận thông qua hoạt động mua và bán. Căn cứ vào số lượng thị trường tham gia vào quá trình mua bán, nghiệp vụ chuyển hối được chia làm hai loại: - Nghiệp vụ chuyển hối giản đơn (Simple arbitration): Đây là nghiệp vụ chuyển hối mà quá trình mua bán ngoại tệ được thực hiện qua hai thị trường. - Nghiệp vụ chuyển hối phức tạp (complicative arbitration): Đây là nghiệp vụ chuyển hối mà quá trình mua bán ngoại tệ được tiến hành từ ba thị trường trở lên. Trong điều kiện ngày nay, do ảnh hưởng của cuộc cách mạng khoa học công nghệ, các phương tiện thông tin hiện đại đã làm cho thị trường hối đoái trở nên thông suốt trên phạm vi toàn thế giới và nghiệp vụ chuyển hối không còn ý nghĩa lớn trong kinh doanh ngoại hối nữa. c. Nghiệp vụ giao dịch ngoại hối có kỳ hạn (Forward exchange operations) Khái niệm: Nghiệp vụ giao dịch ngoại hối có kỳ hạn là nghiệp vụ mua bán ngoại tệ mà việc giao nhận sẽ được thực hiện sau một thời gian nhất định theo tỷ giá thỏa thuận lúc ký kết hợp đồng. Tỷ giá thỏa thuận luc ký kết hợp đồng ở đây là tỷ giá có kỳ hạn, tức là tỷ giá áp dụng cho tương lai nhưng được xác định trước ở hiện tại. Theo lý thuyết cân bằng lãi suất tỷ giá này có thể được xác định nếu như dự đoán được sự tác động của lãi suất:  Trong đó Ký hiệu : - F tỷ giá có kỳ hạn - S tỷ giá giao ngay - id lãi suất đồng tiền định giá - iy lãi suất đồng tiền yết giá - K hệ số thời hạn cho vay trong năm - N thời hạn cho vay Sự chênh lệch giữa tỷ giá giao ngay và tỷ giá có kỳ hạn phụ thuộc vào sự biến động của sức mua tiền tệ và tình hìh mức lãi suất của nước có các đồng tiền đó. d. Nghiệp vụ hoán đổi Khái niệm: Đây là nghiệp vụ ngoại hối phối hợp giữa hai nghiệp vụ ngoại hối giao ngay và nghiệp vụ ngoại hối có kỳ hạn để kiếm lãi, tức là thực hiện việc mua bán ngoại tệ xảy ra đồng thời ở hai thời điểm khác nhau, bán một đồng tiền nào đó ở một thời điểm hiện tại và mua lại chính đồng tiền đó vào một thời điểm xác định trong tương lai hoặc ngược lại. e. Nghiệp vụ ngoại hối tương lai Khái niệm: Nghiệp vụ ngoại hối tương lai là nghiệp vụ tiến hành một thỏa thuận mua bán một số lượng ngoại tệ đã biết theo tỷ giá cố định tại thời điểm hợp đồng có hiệu lực và thực hiện việc chuyển giao ngoại tệ được thực hiện vào một ngày trong tương lai được xác định bởi Sở giao dịch. Tại đây, các hợp đồng mua bán ngoại tệ được ký kết thông qua môi giới. Đặc điểm: Thị trường giao sau thực chất là thị trường có kỳ hạn có tính tiêu chuẩn hóa cao về loại ngoại tệ giao dịch, số lượng ngoại tệ giao dịch và ngày chuyển giao ngoại tệ Hợp đồng giao sau có tính thanh khoản cao hơn hợp đồng có kỳ hạn bởi vì các bên tham gia hợp đồng có thể bán hợp đồng khi thấy có lời hoặc có thể xóa hợp đồng nếu như thấy bất lợi. Khi bán hợp đồng hoặc xóa bỏ hợp đồng, hai bên thanh toán cho nhau phần chênh lệch giá trị hợp đồng. Đặc điểm này khiến cho hầu hết hợp đồng giao sau đều được thanh toán trước ngày hợp đồng đến hạn nên ít bị rủi ro. f. Nghiệp vụ quyền chọn mua bán ngoại tệ Khái niệm: Nghiệp vụ quyền chọn mua bán là một loại giao dịch được thực hiện trên cơ sở hợp đồng quyền chọn mua hoặc quyền chọn bán một số lượng ngoại tệ nhất định theo một giá quy định và việc thực hiện hợp đồng sẽ xảy ra trong tương lai. Quyền chọn mua là kiểu hợp đồng quyền chọn cho phép người mua có quyền nhưng không bắt buộc mua một số lượng ngoại tệ ở một mức giá và trong thời hạn được xác định trước. Quyền chọn bán là kiểu hợp đồng quyền chọn cho phép người bán nó có quyền nhưng không bắt buộc bán một số lượng ngoại tệ ở một mức giá và trong thời hạn xác định trước. 5.1.4. Xu hướng phát triển của thị trường ngoại hối hiện nay 5.2. Tỷ giá hối đoái 5.2.1. Khái niệm tỷ giá hối đoái Trong điều kiện nền kinh tế mở, quan hệ giữa các nước về kinh tế, chính trị, văn hóa, ngoại giao, du lịch ngày càng được mở rộng, cho nên phát sinh những quan hệ thanh toán quốc tế. Trong thanh toán quốc tế, vàng được dùng làm tiền tệ thế giới. Nhưng trong giao dịch quốc tế nói chung, người ta không dùng vàng để chi trả trực tiếp mà dùng đơn vị tiền tệ của một nước nào đó thông qua các phương tiện thanh toán quốc tế như sec, hối phiếu, kỳ phiếu, thẻ tín dụng… Đồng tiền của một nước là công cụ chi trả bắt buộc và chỉ có giá trị lưu thông trên lãnh thổ nước đó. Vì thế, để có thể mua bán hàng hóa, dịch vụ, chi trả nợ nần cho nhau… đòi hỏi phải đổi tiền nước này ra tiền nước khác, từ đó phát sinh vấn đề tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đồng tiền hay tính bằng một đồng tiền khác hay là quan hệ so sánh về mặt giá cả giữa hai đồng tiền khác nhau. 5.2.2. Các hình thức tỷ giá hối đoái Theo tập quán kinh doanh tiền tệ, tỷ giá hối đoái thường được yết theo hai phương thức khác nhau: * Phương pháp yết giá trực tiếp: lấy ngoại tệ làm đơn vị so sánh với đồng tiền quốc gia. Ví dụ: Ngân hàng Vietcombank công bố * Phương pháp yết giá gián tiếp: lấy đồng tiền quốc gia là đơn vị so sánh với ngoại tệ. Ví dụ: Ngân hàng National Anh công bố Hiện nay, phần lớn các quốc gia đều sử dụng phương pháp yết giá trực tiếp, chỉ có một số nước như Anh, Mỹ sử dụng phương pháp yết giá gián tiếp vì những lý do truyền thống hoặc vì mục đích đề cao vai trò đồng tiền nước mình. Sự biến động của tỷ giá hối đoái diễn ra khi có sự tăng giá hoặc giảm giá các đồng tiền (hoặc gọi là nâng giá hay phá giá trong chế độ tỷ giá cố định). Sự tăng giá cho thấy giá trị đồng tiền tăng lên. Ví dụ : Ban đầu Sau đó Như vậy, đồng USD tăng giá 25% so với đồng DEM hoặc đồng DEM giảm 20% so với đồng USD, hay nói cách khác tỷ giá hối đoái tăng lên. Hiện nay, phần lớn các nước trên thế giới yết giá đồng tiền nước mình theo đơn vị đồng USD dựa vào quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối. Tuy nhiên, muốn xác định được tỷ giá giao dịch giữa hai đồng tiền không phải là đồng USD phải tính toán thông qua đồng USD, tức là sử dụng phương pháp tính chéo. Ví dụ: Tỷ giá giữa DEM và FRF sẽ là: Tỷ giá hối đoái được xem xét dưới nhiều giác độ khác nhau, bao gồm: * Tỷ giá danh nghĩa: Là mức giá thị trường của một đồng tiền tính bằng đồng tiền khác vào một thời điểm nhất định. Tuy có giá trị tham khảo nhất định nhưng tỷ giá hối đoái danh nghĩa chưa phản ánh được tương quan thực sự giữa các đồng tiền do sự tác động của hàng hóa, lạm phát và các nhân tố khác. * Tỷ giá hối đoái hữu hiệu danh nghía (EER): Là giá của một đồng tiền tính băng nhóm các đồng tiền khác. EER cho phép đánh giá sức mạnh tương đối của một đồng tiền khi quốc gia tiến hành buôn bán đồng thời với nhiều bạn hàng khác nhau. Tuy đồng tiền của quốc gia được coi là tăng hoặc giảm giá trong tương quan với một nhóm các đồng tiền khác, nhưng trong điều kiện thả nổi tỷ giá thì đồng tiền quốc gia có thể giảm giá đối với một số đồng tiền này nhưng tăng giá so với một số đồng tiền khác trong nhóm. Tác động của những biến động tỷ giá song phương này tới EER của quốc gia tùy thuộc vào tỷ trọng của các bạn hàng trong quan hệ thương mại với quốc gia đó và một loạt các tham số khác. * Tỷ giá hối đoái thực tế (RER): Là tỷ giá phản ánh tương quan sức mua giữa hai đồng tiền trong tỷ giá. Khi giá hàng hóa và dịch vụ trong nước hoặc nước ngoài tăng lên hoặc giảm xuống thì không thể sác định được giá cả tương quan của hàng hóa và dịch vụ của nước ngoài nếu như chỉ căn cứ vào tỷ giá hối đoái danh nghĩa mà không tính đến các biến động giá cả đó. Chẳng hạn, nếu VND giảm giá 10% so với USD nhưng giá cả hàng hóa và dịch vụ của Mỹ lại giảm 10% trong tương quan với mức giá ở Việt Nam, thì lúc đó giá tương quan của hàng hóa và dịch vụ của Mỹ đối với người tiêu dùng Việt Nam sẽ không có gì thay đổi. Trong trường hợp này, chúng ta không thể kết luận rằng nhu cầu nhập khẩu của Việt Nam đối với hàng hóa mỹ sẽ giảm mặc dầu có sự tăng giá của đồng USD. Vì lý do này mà người ta thường tính toán tỷ giá hối đoái thực tế, trong đó tính đến biến động giá cả hàng hóa và dịch vụ ở hai quốc gia. Tỷ giá hối đoái thực tế được tính bằng công thức sau: Trong đó: - RER tỷ giá hối đoái thực tế (Real Exchange Rate) - EER tỷ giá hối đoái danh nghĩa - PIf Chỉ số giá cả nước ngoài - PId Chỉ số giá cả trong nước Giả sử, để tính tỷ giá hối đoái thực tế giữa USD và VND trong năm 1998 (lấy năm 1995 làm năm cơ sở), và sử dụng các số liệu về tỷ giá hối đoái danh nghĩa và chỉ số giá cả ở hai nước của các năm 1995, 1998. Cụ thể nếu tỷ giá danh nghĩa của năm 1995(e1995) và 1998(e1998) tương ứng là  và , chỉ số giá cả của Mỹ và Việt Nam trong năm 1998 tương ứng là PIUS = 109 và PIVN = 125 thì tỷ giá hối đoái thực tế giữa USD và VND trong năm 1998 (RER1998) được tính như sau: Kết quả cho thấy tỷ giá thực tế trong năm 1998 nhỏ hơn tỷ giá danh nghĩa. Lý do là từ 1995 đến 1998, chỉ số giá cả ở Mỹ tăng chậm hơn ở Việt Nam. Tỷ giá thực tế năm 1998  cũng thấp hơn mức tỷ giá năm 1995, và điều này có nghĩa là trên thực tế USD đã giảm giá so với đồng VND từ năm 1995 đến năm 1998, mặc dầu tỷ giá danh nghĩa tăng lên trong giai đoạn này. * Tỷ giá hối đoái thực tế hữu hiệu (REER), được tính theo như công thức tính tỷ giá  hối đoái hữu hiệu danh nghĩa (RER) với mức tỷ giá thực tế chứ không phải tỷ giá danh nghĩa. Do vậy, REER cho thấy sự tăng hay giảm giá trên thực tế của một đồng tiền trong tương quan với một nhóm các đồng tiền khác, REER còn cho thấy sự biến động về sức mạnh tương đối của một đồng tiền trên thực tế trong tương quan với một nhóm đồng tiền của các nước bạn hàng. 5.2.3. Sự cân bằng tỷ giá hối đoái Cách tiếp cận truyền thống về tỷ giá hối đoái cho rằng tỷ giá là kết quả tương tác giữa cung và cầu đối với các đồng tiền nảy sinh từ hoạt động mua bán hàng hóa, dịch vụ và di chuyển vốn quốc tế. Nói cách khác, chính những giao dịch được liệt kê trong các hạng mục của cán cân thanh toán là những yếu tố dẫn tới sự hình thành cung và cầu đối với ngoại hối. Các giao dịch như xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ, đầu tư ra nước ngoài, và các giao dịch tài chính do các ngân hàng thực hiện sẽ tạo ra nhu cầu đối với ngoại hối. Còn nguồn cung ứng ngoại hối chính là kết quả của các giao dịch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ, tiếp nhận đầu tư từ bên ngoài, và các giao dịch tài chính của các ngân hàng. Tuy có tính đến các giao dịch về vốn, nhưng quan điểm nói trên chủ yếu tập trung xem xét mối liên hệ giữa cán cân thường xuyên với tỷ giá hối đoái, coi thương mại quốc tế là nguyên nhân chính dẫn đến hình thành thị trường ngoại hối. Lý do là vì quan điểm truyền thống về tỷ giá hối đoái được hình thành từ vào những năm 50, trong bối cảnh quy mô di chuyển về vốn quốc tế còn tương đối nhỏ so với quy mô hoạt động của thương mại quốc tế. Với những biến động trong nền kinh tế thế giới kể từ những năm 50 trở đi thì quan điểm truyền thống ngày càng bộc lộ những hạn chế của mình. Có hai sự kiện chủ yếu dẫn đến sự cần thiết phải tìm kiếm những cách tiếp cận mới về tỷ giá hối đoái. - Thứ nhất là tầm quan trọng ngày càng tăng của cán cân luồng vốn trong cán cân thanh toán. Sự phát triển mạnh mẽ của các công ty đa quốc gia dẫn đến gia tăng nhanh chóng dòng vận động của vốn trên phạm vi toàn quốc tế. Đồng thời những biênh pháp kiểm soát dòng vốn được nới lỏng nên đã gia tăn cơ hội cho các công ty và cá nhân chuyển sang nắm giữ các tài sản nước ngoài. - Thứ hai, tình trạng lạm phát phổ biến trên phạm vi toàn thế giới trong những năm 70. Quan điểm truyền thống không tính đến những biến động giá cả trên phạm vi quốc tế khi phân tích sự vận động của tỷ giá hối đoái. Thực tế cho thấy là, biến động giá cả trong và ngoài nước có mối liên hệ thật chặt chẽ với nhau. Hai diễn biến quan trọng nói trên đã dẫn đến sự ra đời của các lý thuyết về tỷ giá hối đoái dựa trên cách tiếp cận tiền tệ và cách tiếp cận tài sản. Những phần trình bày này sẽ đề cập đến các lý thuyết này. 1. Tỷ giá hối đoái trong
Tài liệu liên quan