Không - Thời gian nghịch dị trong tiểu thuyết Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi của G.G.Marquez

Tóm tắt. Áp dụng lí thuyết của M.Bakhtin về những đặc trưng của nền văn hóa trào tiếu dân gian, chúng tôi đã chứng minh tiểu thuyết Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi của G.G.Marquez là sự kế tục và phục hưng truyền thống văn hóa đặc sắc ấy trong thời hậu hiện đại. Từ đặc trưng nghệ thuật của tác phẩm là không – thời gian nghịch dị, bài viết đã làm rõ mã thẩm mĩ đặc thù của tác phẩm, xóa bỏ những định kiến và khoảng cách thẩm mĩ với người đọc đương đại. Qua những phát hiện trên, bài viết nỗ lực khám phá tính chất nhân văn của tiểu thuyết Marquez, với tư cách sự kế thừa xuất sắc nền tảng nền văn hóa trào tiếu dân gian Trung cổ và Phục hưng, cũng như dấu ấn hậu hiện đại và phong cách cá nhân của tác giả.

pdf8 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 125 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Không - Thời gian nghịch dị trong tiểu thuyết Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi của G.G.Marquez, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
JOURNAL OF SCIENCE OF HNUE Social Sci., 2013, Vol. 58, No. 6, pp. 39-46 KHÔNG - THỜI GIAN NGHỊCH DỊ TRONG TIỂU THUYẾT HỒI ỨC VỀ NHỮNG CÔ GÁI ĐIẾM BUỒN CỦA TÔI CỦA G.G.MARQUEZ Phan Tuấn Anh Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế Tóm tắt.Áp dụng lí thuyết của M.Bakhtin về những đặc trưng của nền văn hóa trào tiếu dân gian, chúng tôi đã chứng minh tiểu thuyết Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi của G.G.Marquez là sự kế tục và phục hưng truyền thống văn hóa đặc sắc ấy trong thời hậu hiện đại. Từ đặc trưng nghệ thuật của tác phẩm là không – thời gian nghịch dị, bài viết đã làm rõ mã thẩm mĩ đặc thù của tác phẩm, xóa bỏ những định kiến và khoảng cách thẩm mĩ với người đọc đương đại. Qua những phát hiện trên, bài viết nỗ lực khám phá tính chất nhân văn của tiểu thuyết Marquez, với tư cách sự kế thừa xuất sắc nền tảng nền văn hóa trào tiếu dân gian Trung cổ và Phục hưng, cũng như dấu ấn hậu hiện đại và phong cách cá nhân của tác giả. Từ khóa: Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi, Marquez, yếu tố nghịch dị. 1. Mở đầu Rất có thể trong nhiều năm qua, chúng ta đã chưa thực sự hiểu đúng và đủ về giá trị thẩm mĩ trong ngôn ngữ tiểu thuyết Marquez. Nhiều công trình nghiên cứu về Marquez chủ yếu đi vào quan niệm về cái huyền ảo, về nỗi cô đơn, về cảm quan hậu hiện đại. Một số công trình khác chủ yếu phân tích vào hình thức tác phẩm, nhưng cũng chỉ trên góc độ những thủ pháp nghệ thuật như giễu nhại, huyền thoại hóa, đa trị, tính nhục thể. . . Trong một số công trình và bài viết có đề cập đến phương thức trần thuật (trong đó có chúng tôi) cũng chỉ mới dừng lại ở việc khảo cứu đặc trưng tự sự mê lộ trong tiểu thuyết của Marquez. Không/chưa có ai chú ý đúng/đủ mức đến nền tảng cốt lõi nhất của hình thức tiểu thuyết Marquez, đó chính là ngôn ngữ và không gian, thời gian. Bài viết sẽ đi sâu tìm hiểu không gian, thời gian này như là những yếu tố nghịch dị trong tiểu thuyết Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi của Marquez. Ngày nhận bài 5/10/2012. Ngày nhận đăng 25/1/2013. Liên lạc Phan Tuấn Anh, e-mail: fantuananh@gmail.com 39 Phan Tuấn Anh 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Không gian nghệ thuật nghịch dị Tiểu thuyết Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi trước tiên đã được xây dựng dựa trên không gian nghệ thuật điển hình cho thi pháp học tiểu thuyết của Marquez: không gian nhà chứa. Trong nhiều tác phẩm khác nhau của Marquez, nhiều nhân vật (nam) chính đã sống một cuộc đời trong các động gái điếm. Ở đó, họ đã nhận chân ra những giá trị của cuộc sống, bản chất của con người và khám phá được những bí mật của xã hội. F.Ariza đã sống những năm tháng cô đơn sau khi F.Daza ra đi trong những khu phố đèn đỏ (Tình yêu thời thổ tả), hai anh em Aureliano và José Arcadio cũng đã được ủi an và thỏa mãn trong nhà chứa của bà chủ chứa có tài tiên tri Pilar Ternera (Trăm năm cô đơn), ngay trong tự truyện Sống để kể lại của mình, Marquez cũng thừa nhận đã từng đốt đời mình bên cạnh những cô gái làng chơi gợi cảm. Đặc biệt, với truyện ngắn Chuyện buồn không thể tin được của Erendira và người đàn bà bất lương, toàn bộ câu chuyện đã được diễn ra trong không gian của một nhà chứa. Cuộc sống của nhà báo già chủ yếu cũng diễn ra trong không gian nhà chứa, nơi ông lén lút đến vào mỗi tối sau khi xong công việc và chuồn đi vào sáng sớm. Nhà chứa là một không gian nghệ thuật đặc biệt, là nơi thân xác trở thành trung tâm của thế giới, ân ái là mục đích chủ yếu và là nơi mọi thiết chế đạo đức, tuổi tác, địa vị xã hội bị bỏ qua một bên. Những nhà thổ luôn tồn tại một cách đặc biệt, nó luôn bất hợp pháp trong xã hội, nhưng lại là sự tồn tại có tính tất yếu, được các Nhà nước ngầm ẩn cho phép tồn tại. Chính những quan chức nắm chính quyền và luật pháp lại thường là những khách hàng thường xuyên của các nhà chứa: “Không bao giờ bà ta (Rosa Cabarcas) phải trả một xu tiền phạt nào, bởi vì sân vườn của bà ta là miền khoái lạc của quan chức địa phương từ viên tỉnh trưởng đến nhân viên quèn của tòa thị chính” [4;25]. Nhà chứa chính là không gian bất hợp pháp nhưng lại phổ thông và được mọi người sử dụng khá phổ biến trong xã hội. Nhà chứa vừa là không gian công cộng, vì mọi người đều có thể đến nhằm sử dụng dịch vụ, nhưng lại là không gian riêng tư cá nhân, bởi từng hành vi làm tình cụ thể chỉ có thể diễn ra một cách biệt lập so với không gian xã hội và cả đối với những không gian nhà chứa khác. Chính vì nằm giữa làn ranh hợp pháp/bất hợp pháp, suy đồi/tất yếu, cấm đoán/thừa nhận đó nên nhà chứa là không gian có tính nghịch dị rõ nét. Không gian nhà chứa mang đậm tính chất của thứ không gian hội hè carnaval, nó đề cao khoái lạc, không có tên thật và địa chỉ công khai, không phân biệt đối xử với bất kì hạng người nào và là nơi tự do, bình đẳng nhằm trải nghiệm thân xác. Theo Bakhtin, trong những lễ hội cải trang, người ta cũng không phân biệt diễn viên và quần chúng, không phân biệt địa vị xã hội, không phân biệt đường biên sân khấu và thời gian quảng diễn, một không gian mang tính “trò chơi”. Không gian nhà chứa trong văn học hậu hiện đại là không gian hội hè đặc thù, nơi lưu trữ lại truyền thống trào tiếu của nền văn học dân gian. Bởi ở đó, con người được sống với hạ tầng thân xác, nơi họ đến với nhau bằng những tên giả, biệt danh, nơi thể hiện sự lộn trái của xã hội, những kẻ đạo mạo có tiền nhất lại lộ nguyên hình là kẻ đê tiện nhất. Chúng tôi đang đề cập đến “nhà chứa” như một hình tượng văn học hậu hiện đại đặc thù, 40 Không - thời gian nghịch dị trong tiểu thuyết Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi... nơi thể hiện cảm quan và dụng ý nghệ thuật ngầm ẩn trong tiểu thuyết của Marquez nói riêng và văn học hậu hiện đại nói chung, chứ không có ý biện hộ, khuyến khích cho sự tồn tại, hoặc ngợi ca, cắt nghĩa giá trị của hoạt động mại dâm. Bởi vì, nhà chứa xuất hiện không chỉ một lần trong tiểu thuyết Marquez, không hề và không đơn thuần chỉ mang ý nghĩa trụy lạc, tiêu khiển cuộc đời tha hóa của những nhân vật (nam) chính, mà là một biểu tượng văn hóa đặc thù có nguồn gốc xa xưa từ văn hóa trào tiếu dân gian, kết hợp với cảm quan hậu hiện đại, nên cần xét đến nó như một không gian nghệ thuật mang tư tưởng của tác giả. Sự suy giảm tiếng cười sau thời Phục hưng, tức sự lấn át của văn hóa kinh viện, văn hóa duy lí và giáo điều, văn hóa của những đại tự sự đối với văn hóa trào tiếu dân gian đã đẩy không gian lễ hội rộng lớn ngoài đường phố (các lễ hội carnaval) thu gọn vào trong không gian của nhà chứa. Tức thu hẹp hóa và bất hợp pháp hóa không gian của những lễ hội. Trong nghĩa đó, chúng tôi tin rằng, không gian nhà chứa là thánh địa bí mật còn sót lại cuối cùng của những lễ hội trào tiếu dân gian quảng trường có nguồn gốc từ xa xưa. Chỉ còn trong không gian những nhà chứa, con người mới sống thật với bản nguyên của mình, cởi bỏ mọi danh xưng đạo mạo và những trách nhiệm xã hội nặng nề. Trong Tình yêu thời thổ tả cũng như Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi, Marquez đã cho thấy mọi hạng người cao quý, có địa vị trong xã hội đã lộ nguyên hình như thế nào trong nhà chứa, nơi họ thường để lộ những bí mật quan trọng của quốc gia và công việc, cũng như bị những cô gái điếm mạt hạng của xã hội chi phối bởi quyền lực ghê gớm của “tình yêu”. Nơi “tính mau mồm mau miệng của các vị chính khách vốn thường hay thổ lộ bí mật quốc gia cho các người tình một đêm mà không biết rằng ngay sát vách bìa các tông có đôi tai của đại diện báo chí. . . ” [4;21-22]. Nhìn chung, nhà chứa là một loại không gian nhại không gian của thiên đường trong các kinh sách. Ở trong nhà chứa, các khách làng chơi là những thượng đế, các cô gái bán dâm là những thiên thần, mụ/ông chủ chứa là Chúa trời và nguyên nhân được tưởng thưởng hoan lạc chỉ đơn giản là vì tiền, không hề có một quy tắc đạo đức hay thiện nguyện nào. Marquez đã từng miêu tả hình tượng mụ chủ chứa kiêm gái điếm Castorina trong hào quang của Đức Mẹ đồng trinh Maria: “. . . bà ta là một người đàn bà đi lên từ những góc phố khốn cùng ở cảng sông để chiếm giữ ngai vàng thiêng liêng của mẹ thánh lớn nhất (PTA nhấn mạnh)” [4;118]. Bước vào nhà chứa là chỉ có hai hạng người: khách làng chơi và gái điếm. Con người được sống trọn vẹn cuộc sống thiên đường trên trần thế, bất chấp họ đã cư xử như thế nào và có ngoan đạo hay không. Thật vậy, cuốn tiểu thuyết của Marquez từng tả về nhà chứa: “tôi đã đi lên trên và thấy một quang cảnh thần tiên. Những người đàn bà đã bán rẻ thân xác của mình cho đến tận sáng bạch. . . lõa thể và luôn miệng hét kể lại những cuộc phiêu lưu đêm hôm trước” [4;117]. Một thiên đàng hoan lạc nằm ở ngoại biên đời sống xã hội, nhưng không kém phần nhân văn: “nơi bà ta (Castorina – PTA) mời các khách hàng nghèo cùng dùng bữa ăn điểm tâm kha khá, cho họ mượn xà phòng, chữa đau răng cho họ, và trong những trường hợp cấp hơn, còn cho họ một cuộc tình từ thiện” [4;118]. Cần hiểu đúng không gian nhà chứa trong tiểu thuyết của Marquez, chứ không thể lấy quan niệm hẹp hòi, khắc kỷ của một người hiện đại nhằm cắt nghĩa về một hình tượng đậm tính nhân văn có nguồn gốc xa xưa từ nền văn hóa trào tiếu dân gian. Bởi vậy, khi nhân vật nhà báo già nói rằng ông 41 Phan Tuấn Anh đã bị các cô gái điếm không cho đủ thời gian để lấy vợ, cũng như cuộc sống mỗi đêm đều đốt đời mình trong những khu đèn đỏ, thì không nên hiểu đó là một cuộc sống sa ngã suy đồi, mà chính là ước vọng và nỗ lực được sống trong một thế giới lộn trái, thế giới mang tính chất nghịch dị cuối cùng còn sót lại của những lễ hội trào tiếu dân gian xa xưa. 2.2. Không gian nghệ thuật nghịch dị Ngoài việc đưa ra một cảm quan không gian nghịch dị đặc thù, cuốn tiểu thuyết của Marquez còn đưa thời gian trở thành một hình tượng mang tính nghịch dị. Marquez đã diễn trình lại thời gian bằng sự đối lập của hai chiều kích: từ quá khứ đến hiện tại và từ hiện tại vận động chưa hoàn thành để tiếp tục phát triển. Chiều kích từ quá khứ đến hiện tại trải dài đến 90 năm, bao gồm sự điểm xuyết qua một số cột mốc cơ bản như: + 12 tuổi: bị cưỡng dâm, lần đầu tiên quan hệ xác thịt. + 19 tuổi: mẹ dắt đến tòa soạn và bắt đầu nghiệp cầm bút trong 40 năm. + 20 tuổi: bắt đầu ghi lại tên những người phụ nữ đã làm tình cho đến năm 50 tuổi, đây cũng là thời gian bắt đầu đến chợ hoa Cartagena. + 32 tuổi: mồ côi cha lẫn mẹ và bắt đầu một cuộc đời cô đơn. + 42 tuổi: bắt đầu thấy những cơn đau vai và đi khám. + 50 tuổi: bắt đầu nhầm lẫn và lãng quên nhiều điều. + 90 tuổi: tổ chức một lễ sinh nhật đặc biệt bằng cách gọi cho mụ chủ chứa. Chúng ta có thể nhận ra, trong quãng thời gian gần một thế kỉ ấy, tác giả không miêu tả nhiều thông tin, mà chủ yếu chỉ điểm qua những sự kiện chính với khoảng cách trên dưới mười năm mới miêu tả đến một lần. Trong 90 năm đằng đẵng ấy, chỉ có khoảng ước chừng bảy cột mốc chính được nhắc đến một cách cụ thể. Ngược lại, khoảng thời gian hiện tại chưa hoàn thành chỉ kéo dài trong vòng chưa đầy một năm, nhưng lại chiếm phần lớn thời gian trần thuật. Như vậy, đã có một độ chênh giữa thời gian biên niên và thời gian trần thuật. Trong đó, 90 năm cô đơn trôi qua chỉ được miêu tả sơ sài còn một năm tình yêu trong thì hiện tại chưa hoàn thành thì tái hiện chi tiết đến từng phút, từng giờ. Chỉ tính riêng trong 1/2 ngày thứ 6 (28 tháng 8), vào dịp sinh nhật lần thứ 90, đã có một hệ thống điểm mốc thời gian được miêu tả đến như sau: + 15h gọi điện cho mụ chủ chứa Rosa yêu cầu một cô gái đồng trinh (chúng tôi căn cứ vào việc mụ Rosa hẹn một tiếng sau sẽ hồi âm). + 16h: có được cuộc gọi của mụ Rosa về việc đã tìm được một cô gái đồng trinh. + 19h hoặc 20h: băn khoăn trong việc chọn trang phục, cạo râu. + 22h: lên xe taxi đến nghĩa trang Hoàn Cầu. + 23h: vào phòng có Delgadina đang ngủ và làm vệ sinh thân thể. + 24h: đi ngủ và tiếng chuông báo hiệu bước sang ngày 29 tháng 8. + 5h sáng ngày 29: tỉnh dậy và rời nhà chứa. Như vậy, chỉ trong một ngày, mà thực chất là chưa trọn 24h (từ 15h hôm trước đến 5h sáng hôm sau), đã có 7 điểm mốc thời gian được miêu tả đến, cứ trung bình 2h thì 42 Không - thời gian nghịch dị trong tiểu thuyết Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi... miêu tả một lần. Những này sau đó (ngày 29, “ngày thứ hai”, “ngày thứ ba”) cũng đều được miêu tả với mật độ chi tiết thời gian dày đặc một cách tương tự. Thông qua thủ pháp nghịch dị, tính tương đối của thời gian biên niên trong thực tại đã bị vạch rõ. Khi đó, con người ta chỉ thực sự sống, thực sự cảm nhận được thời gian chỉ ở thì hiện tại, một cánh cửa hiện tại được mở ra bằng chìa khóa của tình yêu. Mặt khác, thời gian luôn là hình tượng trung tâm trong văn hóa lễ hội carnaval, cũng như trong nền văn học mang dấu ấn nghịch dị trào tiếu dân gian. Trong thế giới lễ hội carnaval, thời gian hiện hữu không phải là thời gian của ba chiều kích quá khứ - hiện tại – tương lai, mà là thời gian của hiện tại vận động đến tương lai. Bakhtin từng cho rằng: “Mô hình thế giới về thời gian biến đổi tận gốc: nó trở thành cái thế giới mà ở đó không có lời đầu tiên (sự khởi nguyên của ý tưởng), còn lời cuối cùng thì cũng chưa được phát ra” [Bakhtin (1992), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Trường Viết văn Nguyễn Du, tr.61]. Bên cạnh đó, Bakhtin cũng cho rằng: “Nhưng tiếng nói hội hè của thời gian trước hết là tiếng nói về tương lai. . . dự đoán một tương lai tốt đẹp hơn” [1;454]. Chính nhờ tính hiện tại hướng đến tương lai này, mà con người đã dám sống và được sống một cách hiện sinh trong thời gian. Nhân vật nhà báo già ở tuổi 90 đã không bao giờ chấp nhận chờ đợi, mà luôn đòi hỏi nhu cầu phải được thực thi trong hiện tại. Ông không “chuẩn bị sống” (Trương Đăng Dung), mà luôn cố gắng sống một cách đích thực trong hiện tại, hiện hữu tại thế. Chính bởi cảm quan này, mà nhà báo già luôn phát ngôn chối từ sự chờ đợi trong thời gian (tương lai), chối từ cả thời gian đã trôi qua và thời gian đánh mất (quá khứ): “Tôi nói một cách nghiêm túc với bà ta. . . ở vào tuổi của tôi, thì mỗi giờ là bằng cả một năm” [4;10]. Hình tượng nghịch dị luôn được xây dựng dựa trên một cảm quan về thời gian đang trong trạng thái biến thiên, chưa hoàn thành, mọi sự việc đều vận động theo thời gian. Chính vì vậy, nhà báo già từng thú nhận: “Tôi không bao giờ quỳ gối trước thứ của lạ. . . Mà đạo đức cũng thay đổi theo thời gian” [4;10]. Việc một ông lão 90 tuổi nằm bên cạnh một cô gái 14 tuổi với một tình yêu tha thiết điên cuồng, một mối giao hòa tinh thần ngầm ẩn thông qua thân xác chính là biểu tượng rõ nét nhất cho sự tuần hoàn của thời gian. Sự sống và cái chết, thanh xuân và tuổi già, tàn lụi và sinh sôi luôn đồng hành với nhau, không phủ định nhau mà thống nhất trong một mối quan hệ tạo sinh biện chứng. Lúc này, nhờ xác lập quan hệ thời gian tuần hoàn, và đề cao tính biến chuyển chưa hoàn thành, nên cái chết và tuổi già đã không còn mang khuôn mặt tử thần, hoàn toàn không mang nỗi sợ hãi. Nỗi sợ hãi thường trực trong những cuốn tiểu thuyết của Marquez không phải là cái chết, mà là nỗi cô đơn trong thời gian. Do đó, các nhân vật thường xuyên nghĩ rằng: “Không có gì bất hạnh bằng chết trong cô đơn” [4;106], chứ không phải không có gì bất hạnh bằng cái chết hoặc cái chết sớm. Do đó, nếu tìm thấy ý nghĩa của hiện sinh trong thời gian, thì bản thân cái chết không hề đáng sợ hãi: “Cuối cùng thì đó chính là đời thực, với trái tim tôi mạnh khỏe nhưng đã bị tuyên án sẽ chết vì tình yêu đẹp đẽ trong cơn hấp hối hạnh phúc vào một ngày nào đó ở tuổi ngoài một trăm của tôi” [4;122]. Thông qua hình tượng Delgadina và tình yêu bất diệt với nàng, nhà báo già đã khắc phục được cảm thức cô đơn trong thời gian. Trên một phương diện khác, với cảm quan nghịch dị, bản thân hình tượng thời gian của tuổi trẻ, của mùa xuân, của sinh nhật cũng hàm chứa cái mệnh đề phản thân của nó. 43 Phan Tuấn Anh Từ cảm quan thời gian nghịch dị này, chúng ta có thể hiểu tại sao mỗi sinh nhật của nhà báo già là một gánh nặng, một nỗi ám ảnh cái chết và càng tăng thêm cảm thức cô đơn. Trong cảm quan hiện sinh rõ nét, luôn ý thức về thời gian, mỗi lần sinh nhật là nhà báo già lại cảm thấy cận kề với cái chết: “tôi bắt đầu cảm thấy sức nặng của chín mươi năm đè lên mình, và bắt đầu đếm từng phút một số phút giây ban đêm còn lại để đến với cái chết” [4;36]. Phải hiểu cảm quan thời gian mang tính nghịch dị ấy trong tiểu thuyết của Marquez, mới hòng giải mã được tại sao một ông lão trí thức tuổi 90, vào đúng sinh nhật của mình lại quyết định mua trinh một cô bé 14 tuổi, dù cả đời đã ý thức sâu sắc rằng: “không có cuộc phiêu lưu nào tránh khỏi sự trừng phạt” [4;19]. Nếu theo quan niệm tuổi già càng phải giữ gìn và tôn trọng đạo đức, tuổi già phải nâng đỡ cho tuổi trẻ. . . thì chúng ta sẽ hiểu sai hoàn toàn giá trị nhân văn trong tiểu thuyết của Marquez. Cần nhớ lại hai bài kinh cầu nguyện của Panurge và thầy dòng Jean (Gargantua và Pantagruel – Rabelais) về hình tượng chúa Kyto cần phải xả hết ống dẫn tinh trước Ngày phán xử cuối cùng, và đề xuất cho mỗi tên tử tội trước khi tử hình được phép thụ thai cho một người phụ nữ như một hành vi tái sinh để hiểu về văn phong nhại kiểu nghịch dị, cũng như nỗi lo sợ trước cái chết của nền văn hóa trào tiếu dân gian. Thời gian trong tiểu thuyết của Marquez là thời gian nghịch dị, kết hợp tính hiện sinh với cảm quan văn hóa trào tiếu dân gian. Trong đó, cặp đối xứng già/trẻ, sống/chết phải đi liền với nhau, và càng già người ta lại càng cần được cứu rỗi thông qua vẻ đẹp của một thiếu nữ trẻ tuổi, bởi họ nhận thức được sự bi đát của kiếp người thông qua thời gian. “Đó là hình tượng của cơ thể song thân: ông (Rabelais – PTA) nói rằng bản thân tuổi già lại khai hoa trong tuổi trẻ mới. Ông đã chuyển cái hình tượng nghịch dị - dân gian tuổi già mang thai hay cái chết sinh nở sang một thứ ngôn ngữ hoa mĩ chính thống, gần gũi với tinh thần của nguyên bản” [1;642-643]. Trong Lolita, nhân vật H.Humbert cũng từng nhắc nhở chúng ta: “Ngoài ra, vì ý niệm thời gian đóng vai trò kì diệu đến thế trong chuyện này, người nghiên cứu chớ ngạc nhiên khi biết rằng phải là một khoảng cách, không bao giờ dưới mười năm, theo tôi nghĩ, thường là ba hay bốn mươi, thậm chí chín mươi năm (PTA nhấn mạnh) trong một số trường hợp nổi tiếng, giữa cô gái với người đàn ông, mới khiến cho người này gục ngã dưới sức quyến rũ của tiểu nữ thần” [9;27]. Nên nhớ rằng, ông lão Eguchi trong Người đẹp say ngủ đến với những cô gái điếm khỏa thân say ngủ là nhằm hoài niệm về quá khứ, còn nhà báo già đến với Delgadina là nhằm sống với hiện tại. Eguchi không yêu những cô gái điếm đang ngủ cạnh mình, mà hoài niệm về nhưng cô gái đã đi qua đời ông, những cô gái đang say ngủ chỉ là những khách thể trong tâm hồn Eguchi. Ngược lại, nhà báo già yêu Delgadina đến điên cuồng, nàng là toàn thể hiện tại đối với ông, những cô gái được hoài niệm lại trong quá trình yêu nàng chỉ làm rõ hơn giá trị tinh thần của Delgadina, bởi tất cả những người phụ nữ trong quá khứ ấy đã không thể cứu rỗi nỗi cô đơn trong trái tim nhà báo già, nhưng nàng thì hoàn toàn có thể. Delgadina là chủ thể của trái tim nhà báo già trong thời gian hiện hữu tại thế. Do đó, tựa đề là “hồi ức” về “những cô gái điếm” nhưng kì thực lại là cuốn tiểu thuyết được viết trong thì hiện tại, và chủ yếu chỉ viết về Delgadina. Chúng ta có thể thấy tiêu chí để lường định thời gian trong Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi cũng mang tính chất nghịch dị. Marquez đã không dùng mùa màng, 44 Không - thời gian nghịch dị trong tiểu thuyết Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi... năm tháng, thiên nhiên nhằm đo lường thời gian, mà dùng chính thân thể của con người nhằm xác định sự trôi chảy của thời gian. Nhà báo già chỉ tin mình đang già đi và thời gian đang trôi bằng những triệu chứng bệnh lí của cơ thể: chiều cao thu ngắn lại cả một gang tay, xương cốt đau nhức, hậu môn bỏng rát, lãng quên trí nhớ, đau vai. . . Ngược lại, ông cũng tin thực chất thời gian đang không trôi đi quá nhanh, bởi dòng nước đái vẫn chảy “ào ào và liên tục như của chú ngựa hoang” [4;33]. Như vậy, đo thời gian bằng tín hiệu và hiện t