I. Yêu cầu sinh thái
1.1 Khí hậu
Ổi có thể phát triển được trong điều kiện khí hậu nhiệt đới và bán nhiệt đới.
Cây ổi chịu hạn, chịu ẩm và chua rất khá. Lượng mưa bình quân hàng
năm 1000-1200mm là trồng ổi thích hợp.
Nhiệt độ bình quân hàng năm thích hợp là 25-29oC.
1.2 Đất đai
Ổi có thể mọc tốt trên nhiều loại đất khác nhau. Đất hơi chua hay hơi
kiềm (pH = 4,5 - 8,2) nhưng thoát nước tốt và giàu chất hữu cơ đều có thể
trồng ổi.
Ổi mọc tốt trên đất phì nhiêu, có cơ cấu nhẹ như đất phù sa, đất cát pha
có tầng canh tác sâu (tối thiểu 0,5m).
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 16 trang
16 trang | 
Chia sẻ: hoang10 | Lượt xem: 785 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Kỹ thuật trồng và chăm sóc cây ổi không hạt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 KỸ THUẬT TRỒNG VÀ CHĂM SÓC CÂY ỔI KHÔNG HẠT
(Psidium guajava L.)
I. Yêu cầu sinh thái
1.1 Khí hậu
Ổi có thể phát triển được trong điều kiện khí hậu nhiệt đới và bán nhiệt đới. 
Cây ổi chịu hạn, chịu ẩm và chua rất khá. Lượng mưa bình quân hàng 
năm 1000-1200mm là trồng ổi thích hợp. 
Nhiệt độ bình quân hàng năm thích hợp là 25-29oC. 
1.2 Đất đai
 Ổi có thể mọc tốt trên nhiều loại đất khác nhau. Đất hơi chua hay hơi 
kiềm (pH = 4,5 - 8,2) nhưng thoát nước tốt và giàu chất hữu cơ đều có thể 
trồng ổi.
 Ổi mọc tốt trên đất phì nhiêu, có cơ cấu nhẹ như đất phù sa, đất cát pha 
có tầng canh tác sâu (tối thiểu 0,5m).
II. Giống và kỹ thuật nhân giống
2.1 Giống ổi không hạt (nguồn gốc Thái Lan)
Cây sinh trưởng mạnh, quả thuôn dài khá ổn định, vỏ quả khá láng màu 
trắng đến xanh nhạt, thịt quả màu trắng kem, chắc, dòn, hương thơm 
trung bình, vị chua ngọt và không hạt (tỉ lệ thịt quả cao >90%). Tỉ lệ đậu quả 
biến động trên dưới 60%. Nếu chăm sóc tốt, năng suất có thể đạt khá cao 
(năm 1: 10-12kg, năm 2: 20-25kg và năm 3: 35-40kg/cây/năm). Giống ổi này 
đang được phát triển và rất được thị trường ưa chuộng. 
2.2. Kỹ thuật nhân giống ổi không hạt
- Tuyển chọn cây mẹ tốt của giống tốt để nhân giống: Đúng giống, cây 
sai quả và ổn định, quả khá đồng đều, chất lượng ngon, không hay ít sâu 
bệnh hại.
- Ổi có thể nhân giống ổi bằng hạt, ghép, giâm cành, giâm rễ, nhưng 
phổ biến nhất là chiết cành. Khi nhân giống với số lượng lớn, có thể trồng 
ổi dày trên mặt líp với khoảng cách 0,5-1m để chiết cành. Thời điểm thực 
hiện: tháng 3 - 4 Dl để trồng cây vào đầu mùa mưa. 
Phương pháp chiết cành: Chọn cành bánh tẻ dài 0,5m (có 1 - 2 cành 
28
ngọn), đường kính 0,5cm có 4 - 5 cặp lá tốt. dùng dao sắc khoanh khắc hai 
vòng cách nhau khoảng 1cm, bóc tách bỏ khoanh vỏ nằm giữa hai vòng 
khấc này, sau đó dây ny lon buộc lại hoặc để 1-2 ngày cho khô nhựa chỗ 
vết khấc rồi dùng vật liệu bó bầu lại. Vật liệu để bó bầu bạn có thể dùng 
cám xơ dừa hoặc rể lục bình phơi khô hay đất mùn mặt vườn trộn với phân 
chuồng đã được ủ hoai mục theo tỷ lệ 1:1, phun nước cho vật liệu vừa đủ 
ẩm rồi đem bó bầu. Sau khi đã chuẩn bị xong vật liệu bạn dùng bao nilon 
màu trắng bó bầu lại. Bầu bó lớn cỡ nắm tay là vừa (dài 5-6 cm, rộng 3 - 
4cm). Sau khi bó một thời gian rễ sẽ mọc ra trong bầu, chờ cho rễ chuyển 
từ mầu trắng sang mầu vàng nâu là có thể cắt hạ bầu. Sau khi cắt hạ xếp 
bầu vào chỗ mát, chăm sóc phun tưới nước hàng ngày để nhánh giống 
không bị khô héo, chờ cho nhánh giống mọc thêm rễ rồi đem đi trồng 
(Hoặc giâm trong bầu đất 1-2 tháng trước khi trồng). Trước khi trồng có 
thể cắt tỉa bớt cành lá để giảm bớt sự thoát hơi nước trên lá, cây giống sẽ 
không bị héo. Khoảng 8 tháng sau khi trồng thì cây cho quả. 
III. Kỹ thuật trồng và chăm sóc
3.1. Thời vụ:
Ở miền Nam, trồng ổi vào đầu mùa mưa (tháng 4-5 Dl) là tốt nhất. Nếu 
có điều kiện tưới, không có nguy cơ bị ngập úng thì trồng tháng nào cũng 
được. 
3.2. Khoảng cách trồng: 
- Trường hợp trồng xen (hay trồng lấy ngắn nuôi dài): khoảng cách 
trồng cây ổi xen trong vườn cây có múi, măng cụt, chôm chôm, dâu, để 
tăng thu nhập tùy thuộc vào khoảng cách cây trồng chính. Khi cây trồng 
chính lớn thì tỉa và đốn bỏ ổi dần.
- Trồng chuyên canh ổi: Những năm đầu ổi mọc chậm, tán nhỏ, có thể 
trồng dầy với khoảng cách 2m x 2m để tăng thu nhập. Khi giao tán sẽ tỉa 
bỏ bớt để giữ khoảng cách 4m x 4m.
3.3 Cách trồng:
Khi trồng dùng dao cắt đáy bầu, đặt cây xuống giữa mô và mặt bầu 
bằng với mặt mô, sau đó rạch theo chiều dọc của bầu để kéo bao nilon lên 
và lắp đất lại nén đất xung quanh, cắm cọc giữ chặt cây con. Sau đó dùng 
rơm hay cỏ khô đậy kín mô. Tưới nước giữ ẩm cho cây mỗi ngày một lần và 
che mát cho cây nếu nắng khô và cây còn yếu. 
29
3.4 Chuẩn bị mô, hố trước khi trồng: 
Mặt líp thấp có thể vun mô cao 20-30cm, rộng mô 40-60cm và bón lót 
phân hữu cơ hay phân chuồng và lân, tối thiểu 15 ngày trước khi trồng. 
Vùng đất cao có thể đào hố 40x40x40 cm và bón lót như trên. 
3.5 Chăm sóc:
3.5.1 Tưới nước:
Cây mới trồng cần tưới ngay và thường xuyên giúp cây sinh trưởng tốt 
nhất là vào mùa nắng. Trong mùa này, khi cây cho quả cũng cần tưới 2-3 
ngày/lần: tưới vừa đủ ướt cây và lưu ý tránh tưới quá nhiều khi quả còn nhỏ 
sẽ làm rụng quả. Đất thấp tận dụng nước lớn để tưới tràn (cho nước dâng 
vừa tràn qua mặt líp 1-2 giờ, sau đó tháo ra)
3.5.2 Tủ gốc: Vào mùa nắng phủ cỏ khô hay rơm rạ vào gốc để giữ ẩm.
3.5.3 Tỉa cành và xử lý ra hoa ổi: 
- Tỉa cành: Mức độ tỉa cành tùy thuộc vào tình hình sinh trưởng, tuổi cây 
và mùa vụ để quyết định đốn đau hay cắt nhẹ, cụ thể như sau:
+ Cây khoảng 4 - 6 tháng tuổi cắt bớt đọt những cành mọc xà chừa 3-4 
cặp lá hay chừa một cặp phía trên hoa và uốn ngọn những cành mọc vượt 
xuống thấp (tạo dạng tán hình cầu hay hình nấm để cây nhận được nhiều 
ánh sáng). Khoảng 08 đến 12 tháng có thể thu lứa quả đầu tiên. 
+ Sau khi thu hoạch quả, tiến hành cắt tỉa cành sâu bệnh, cành khô, cành 
tăm hay cành gầy yếu và cắt ngọn ở độ cao 1m nhằm giúp cây phát triển cành 
mới khỏe (cành mập), cây thấp và thông thoáng nhất là khi cây đã giao tán.
+ Cần khống chế chiều cao cây ổi để dễ chăm sóc và thu hoạch quả, 
nhất là các vườn trồng ổi chuyên canh. Chiều cao cây 3 - 4 năm tuổi nên 
khoảng 1,5m; 5 - 6 năm tuổi cao 1,6 - 1,7m và 7 – 8 năm tuổi cao 2m. 
- Xử lý ra hoa ổi: Cây ổi có thể ra hoa và cho quả quanh năm, tuy nhiên 
cần xử lý ra hoa để tạo ra sản lượng tập trung nhằm tránh sâu bệnh phá hại 
và có giá cao vào một thời điểm nhất định. Việc xử lý để ổi cho quả vào mùa 
nắng sẽ tốt hơn vì quả ít bị ruồi đục quả phá hại, có phẩm chất cao hơn.
Phương pháp bấm đọt xử lý ra hoa ổi:
+ Cành ổi chưa ra hoa: dùng kéo bấm bỏ đọt chừa lại 3 cặp lá kép. 
+ Cành ổi ra 1 cặp nụ hoa và cây có nhiều cành mang quả: bấm bỏ đọt 
nhưng chừa phía trên cặp hoa đó một cặp lá để có thể ra thêm một cặp nụ 
mới hay khi cây có 
30
+ Cành ổi có đủ 2 cặp nụ và nhiều cành không cho quả thì cắt đọt trên 
cặp nụ 2, không chừa cặp lá nào nữa để cành ổi có thể tập trung dinh 
dưỡng nuôi quả.
+ Việc bấm đọt được tiến hành thường xuyên 1-2 tuần/lần.
3.5.4 Bón phân: 
- Cây ổi tăng trưởng nhanh, ra hoa và quả liên tục nên đòi hỏi nhiều chất 
dinh dưỡng: chất Đạm và Lân cần thiết cho cây phát triển tốt, ra nhánh, ra 
hoa và quả phát triển kết hợp với Kali sẽ tăng phẩm chất quả.
- Kỹ thuật bón phân:
a/ Cây chưa cho quả (8 tháng đến 1 năm tuổi): 
sử dụng phân NPK 16-16-8 hoặc Đạm, Lân hay DAP kết hợp với Kali, hòa 
nước tưới và bón ½ đến 1 tháng/lần với liều lượng 50-200g/gốc/lần bón. 
Có thể tăng thêm đạm và lân sau lần tạo tán. Đất trồng bị phèn (pH <5) 
phải bón thêm vôi và lân hay phun phân bón lá có tác dụng hạ phèn, giải 
độc, ra rễ mạnh (Humate vi lượng, Super Humix) 
b/ Cây cho quả: 
- Phân đa lượng (Đạm, Lân, Kali - NPK): 
+ Loại phân: Cây đang nuôi quả chủ yếu sử dụng dạng hỗn hợp NPK 
(20-20-15, 16-16-8, 12-12-17-2+ TE, 15-15-15). Cây sinh trưởng kém bón 
thêm phân đạm và lân giúp tăng ra đọt, đọt mập, ra rễ nhiều và hoa to. Cây 
sinh trưởng tốt phải hạn chế hay không bón phân (nhất là phân bón lá) vì 
cây sẽ ít hay không ra đọt dẫn đến không ra hoa và cho quả (sử dụng ở các 
tháng giá quả thấp). Trước khi thu hoạch 20 ngày có thể tưới hay bón bổ 
sung phân Kali Sulphate (Kali trắng) để tăng phẩm chất quả.
+Thời điểm bón phân: Tốt nhất là sau khi bọc quả 7 ngày hay xen kẻ 
giữa các lần bấm đọt và định kỳ mỗi tháng 1 lần. 
+ Lượng phân: Khoảng 200-500 g/cây/lần bón.
+ Phương pháp: Mùa mưa thường rãi quanh gốc, cách gốc 30-50 cm 
theo tán cây và bón ở ngoài sâu, trong hơi cạn. Mùa nắng tốt nhất nên hòa 
nước tưới hay bón rãi kết hợp với phủ cỏ hay xới gốc để tránh mất phân.
+ Phân trung lượng (Canxi, Magiê,..): Kết hợp với phân đa lượng hay 
sử dụng riêng lẽ, giúp tăng đậu quả, cành mang quả chắc khỏe,... Một số 
dạng phân như: NPKMg (12-12-17-2 +TE), Super Canxi, vôi, phân bón lá 
kích thích ra hoa- đậu quả,...
31
+ Phân vi lượng (Boron, kẽm,..): Chủ yếu ở dạng phân bón lá và được 
phun qua lá, kết hợp với các lần thuốc sâu (không chung với thuốc trừ 
bệnh) giúp tăng đậu quả, cuống quả dai, quả ít dị dạng. Một số loại thường 
dùng GA3 (Progibb, 1 tép/bình 8 lít), Super Bo, Kẽm sulphate 
Ngoài ra, phun thuốc bệnh (Antracol 0,2%, Ridomyl Gold 0,2%, Man-
cozeb,) và thuốc sâu (Regent, Karate,) 1 tháng/lần. Hàng năm nên bón 
thêm phân hữu cơ hoai mục hay hữu cơ vi sinh 5-10kg/cây (phân chuồng 
hoai hay vi sinh ủ nấm tricoderma). Thời gian bón tốt nhất là đầu mùa nắng 
khi thu hoạch quả xong.
3.5.5 Làm cỏ: Vườn ổi có cho cỏ phát triển hay không là tùy vào quan 
điểm của mỗi người. Tuy nhiên, nếu giữ cỏ trên vườn thì rễ ổi sẽ ăn sâu 
hơn làm tăng khả năng bị bệnh thối rể đồng thời sẽ tăng canh tranh dinh 
dưỡng của cỏ đối với cây ổi. Tuy nhiên, nếu dọn sạch cỏ thì cần tủ gốc để 
tránh xói mòn lớp đất mặt vào mùa mưa và tủ giữ ẩm vào mùa nắng. 
3.5.6 Bao quả: Trước khi bao quả 1-2 ngày cần phun thuốc phòng 
ngừa sâu bệnh hay tỉa bỏ quả dị dạng, bị sâu bệnh gây hại. Thời gian bao 
quả tốt nhất khi quả có đường kính 2,5-3 cm. Vật liệu bao quả phổ biến 
hiện nay là dùng riêng bao nilon trắng có lổ hổng hai bên đáy hay kết hợp 
với lưới xốp (bao quả lê, táo..). Những quả được bao lại sẽ có vỏ quả bóng 
đẹp hơn, quả bớt cháy nắng. 
IV. Phòng trừ sâu, bệnh
A- Côn trùng và nhên trên cây ổi
1. Sâu đục trái Conogethes punctiferalis
 Một số đặc điểm sinh học của sâu đục trái Conogethes punctiferalis 
Guenee.
Trứng: 
Bầu dục, dài 2 - 2,5mm, trắng trở nên vàng nhạt khi sắp nở. Trứng được 
đẻ trên trái, nở vào buổi sáng, mỗi con cái đẻ khoảng 20-30 trứng. Thời gian 
ủ trứng 4 – 6 ngày
Ấu trùng:
Tuổi 1 và Tuổi 5 Đầu màu nâu, thân mình màu nâu đỏ, có mang những 
u lông tròn và mờ Màu trắng, đầu đen, thân nhiều lông mịn và dài, ở bên 
ngoài vỏ trái, chiều dài cơ thể khoảng 6 mm. Màu nâu đậm, đầu nâu, dài 
khoảng 19 - 22 mm, giai đoạn này sâu thường ở bên trong trái.
Nhộng màu nâu, dài khoảng 10 - 13 mm. Sâu có thể làm nhộng ngay 
32
bên trong trái hoặc ở kẹt giữa hai trái. Nhộng có kén tơ kết dính thành một 
lớp kén mỏng.
Thành trùng:
Bướm màu vàng, dài từ 11- 13 mm, có nhiều đốm đen trên cánh. Thành 
trùng hoạt động suốt đêm, ban ngày thường đậu nghỉ mặt dưới lá.
Vòng đời:
Khoảng 29 – 32 ngày. Theo Huang (1992) thì vòng đời đến 42 ngày
2. Bọ trĩ băng đỏ Selenothrips rubrocinctus 
Đặc điểm
Con cái có kích thước chiều dài nhỏ hơn 1 mm. Bọ trĩ với một băng đỏ 
tươi trên lưng, băng đỏ này nằm liền sau đôi chân thứ ba. Cơ thể có màu 
hơi vàng lợt, đầu màu vàng sậm, mắt có màu đỏ, phần đuôi là một túi tròn 
có màu đỏ tươi thì đây là túi phân của bọ trĩ, đốt đuôi có màu nâu đen. 
Trưởng thành đực có kích thước 1-1,4mm ấu trùng có 2 tuổi kích thước 
1,3mm. Vòng đời kéo dài khoảng 3 tuần và có rất nhiều thế hệ trên năm. 
Loài bọ trĩ này thường xuất hiện trên lá non và trái non, ấu trùng và 
trưởng thành đều gây hại. Chúng gây hại trên lá non và trái non, giai đoạn 
trái non chúng chủ yếu tập trung ở phía dưới lá đài và phía dưới của trái 
nên khi trái lớn những mảng sẹo này lộ ra phía ngoài lá đài làm cho trái 
có những vết sẹo hoặc vòng sẹo rất đặt trưng, những phần lồi hay những 
mảng có màu xám ở vỏ trái hoặc phía dưới trái. Ở trên lá chúng gây hại tập 
trung hai bên đường gân chính của lá làm cho lá có những vết sẹo màu sét, 
nếu mật số bọ trĩ cao chúng tấn công phần nhu mô của lá làm lá bị mất 
màu khi đó lá bị vàng và rụng
3. Ruồi đục trái Bactrocera dorsalis
Loài Batrocera (Batrocera) dorsalis Hendel
Theo Nguyễn Thị Chắt (1998), ruồi đục trái Batrocera dorsalis Hendel. Con 
trưởng thành là một loại ruồi màu nâu. Đầu hình bán cầu, trên ngực giữa có 
3 vệt vàng xếp theo hình chữ U, trong đó có 2 vệt dọc ở 2 góc cánh, vệt nằm 
ngang trên đốt ngực thứ 3 lớn hơn. Bụng thành trùng tròn giống bụng ong 
và cuối bụng nhọn. Trên phía lưng của bụng có 2 vệt đậm đen hình chữ T, 
đốt chày và đốt bàn chân màu vàng, kích thước của ruồi có thể dài đến 7mm, 
con đực nhỏ hơn con cái. Thành trùng có thể sống 20 – 40 ngày. 
Ruồi cái có kim đẻ trứng dài và nhọn ở cuối bụng chọc thủng vỏ, đẻ 
trứng vào trong vùng tiếp giáp giữa vỏ và thịt trái. Vết chích rất nhỏ chỉ 
33
nhìn thấy từ vết mủ chảy ra. Trứng được đẻ thành từng ổ. Mỗi ổ từ 5 – 10 
trứng. Một con cái đẻ 50 – 60 trứng, tối đa có thể đến 200 trứng. Trứng ruồi 
hình trái dưa leo dài 1mm, lúc mới đẻ màu vàng sữa hoặc trắng trong, khi 
trứng gần nở màu vàng nhạt hoặc trắng đục. 
Giai đoạn ủ trứng 2 đến 3 ngày. Sau đó, trứng nở thành ấu trùng (dòi). 
Giai đoạn dòi 10 đến 18 ngày. Ấu trùng dạng dòi, mới nở dài 1.5 mm, đẫy 
sức có thể dài đến 8 mm. Dòi nở ra đục ngay vào trong trái ăn phần mềm, 
thảy phân tạo điều kiện cho vi sinh vật, nấm phát triển; làm cho trái hư và 
rụng. Đẫy sức dòi cắn vỏ chui ra búng mình xuống đất thành nhộng. 
4. Rệp sáp phấn, rệp dính
- Planococcus lilacinus
- Planococcus sp
- Pseudococcus sp
Họ: Coccoidea - Bộ: Homoptera
Một số đặc điểm hình thái, sinh học, gây hại:
+ Tất cả các loài đều có đặc điểm chung là cơ thể tiết ra một lớp sáp che 
chở cho cơ thể, lớp này hình thành nên một lớp vỏ cứng, có hình dạng, 
màu sắc và kích thước khác nhau (rệp sáp dính, rệp sáp phấn).
+ Các loài rệp sáp đều có chu kỳ sinh trưởng ngắn (1 tháng trong điều 
kiện ĐBSCL).
+ Gây hại bằng cách chích hút lá, cành, trái, cuống trái. Nếu bị nhiễm 
nặng, lá bị vàng, rụng, cành bị khô, và chết, trái cũng có thể bị biến màu, 
phát triển kém và bị rụng. Khi mật số rệp sáp cao, chúng còn là tác nhân 
tạo điều kiện cho nấm bồ hóng phát triển. Chúng gây hại chủ yếu vào màu 
nắng. 
+ Nhìn chung hiện diện khá phổ biến nhưng mật số rệp sáp thường 
thấp nên chưa thấy gây hại đáng kể, do trong điều kiện tự nhiên rệp sáp 
có rất nhiều thiên địch (ong ký sinh nhóm: Encasia, Aphytis, Metaphycus và 
các loài bọ rùa).
5. Sâu ăn lá Archips micaceana
Loài sâu ăn lá này chủ yếu gây hại vào giai đoạn lá non, khi gây hại sâu 
kéo tơ cuốn các lá non lại với nhau, ăn phá trên lá và làm cho lá có các phần 
bị lỏm vào từ phiến lá hoặc lá bị biến dạng nhỏ lại hay phát triển không 
đồng đều. Nếu trường hợp gây hại nặng chồi non sẽ không phát triển 
được vì sâu đã ăn toàn bộ phần đọt non. 
34
6. Rầy phấn trắng Aleurodicus disperses, Metaleurodicus cardini
Thành trùng đẻ trứng theo một cái vòng xoắn ốc ở mặt dưới lá và được 
che phủ bởi những lớp lông sáp trắng mịn. Chúng gây hại bằng hai cách, 
thứ nhất là chích hút dịch cây trồng, ngoài ra chúng còn tiết mật ngọt tạo 
điều kiện cho nấm bồ hống phát triển ảnh hưởng đến sự quang hợp của 
cây.
7. Rầy mềm Aphis gossypii
Dạng hình trái lê, trên phần lưng của phía đuôi có mang một ống bụng. 
Râu đầu hình sợi chỉ, dài. Trong điều kiện ĐBSCL thường chỉ ghi nhận chủ 
yếu con cái, ít ghi nhận có sự hiện diện của con đực. Con đực luôn có cánh 
(2 cặp cánh). Con cái có hai dạng: dạng có cánh dài, phát triển và dạng 
hoàn toàn không cánh tuy nhiên trong tự nhiên hầu như chỉ ghi nhận 
thành trùng cái không cánh, đẻ con. Thành trùng có cánh chỉ xuất hiện 
khi mật số quần thể của rầy mềm cao hoặc lá đã già hoặc bị nhiễm bệnh.
Cả hai loài có màu nâu đen hoặc nâu đỏ, bóng. Kích thước thành trùng 
cái không cánh dài khoảng 1,7-2,1mm , đối với con cái có cánh dài 1,7-
1,8mm. Rầy mềm chủ yếu sinh sản đơn tính, đẻ con. Chúng gây hại bằng 
cách chích hút chồi non, tập trung chủ yếu ở mặt dưới lá, làm chồi biến 
dạng, lá cong queo còi cọc, ngoài ra chúng còn tiết mật ngọt làm nấm bồ 
hóng phát triển. Chu kỳ sinh trưởng kéo dài khoảng 7-9 ngày, mỗi con cái 
có khả năng đẻ trung bình 41 con.
Ảnh 12: Ổ trứng rầy phấn trắngẢnh 11: Triệu chứng của sâu đục trái
35
Ảnh 14: Ruồi đục trái
Ảnh 13: Ấu trùng (dòi) ruồi đục trái
Ảnh 15: Rệp sáp Ảnh 16: Rệp sáp dính
Ảnh 17: Rầy mềm (rệp nhớt, rệp muội) Ảnh 18: Rầy phấn trắng
36
Ảnh 20: Rầy nhảyẢnh 19: Triệu chứng sâu ăn lá
B/ Tuyến trùng trên ổi
Tuyến trùng là nhóm sinh vật gây hại trên thực vật rất nguy hiểm. Mức 
độ gây hại của chúng đối với thực vật là rất lớn. Các nhóm gây hại trên các 
bộ phận khác nhau của thực vật có thể là thân hoặc rễ. Cho đến nay tuyến 
trùng gây hại trên rễ của thực vật vẫn là nguy hiểm nhất. Hàng năm chúng 
xâm hại và gây thiệt hại hàng tỷ tấn hoa màu trên toàn thế giới. Ở Việt Nam 
mức độ gây hại của tuyến trùng tuy chưa đến mức thiệt hại nghiêm trọng 
nhưng ảnh hưởng rất lớn đến năng suất của cây trồng. Tuyến trùng gây hại 
trên khoai tây, cà rốt Ngoài ra, tuyến trùng còn gây hại trên một số loại 
cây ăn trái như ổi, nhóm cây có múi
Tuyến trùng sần rễ (Melodogyne spp)
Tuyến trùng nốt sần ở rễ được coi là nhóm tuyến trùng ký sinh quan 
trọng nhất trong ngành nông nghiệp. Nhóm tuyến trùng này phân bố 
rộng khắp thế giới và ký sinh trên hầu hết các loại cây trồng ở các vùng 
khí hậu khác nhau. Chúng gây thiệt hại về sản lượng thu hoạch cũng như 
chất lượng sản phẩm cây trồng. Tuyến trùng tấn công ở rễ vào giai đoạn 
cây con, nếu mật số cao sẽ làm chết cả cây. Hiện nay khoảng 80 loài ký 
sinh thuộc giống này, trong đó có 4 loài ký sinh gây hại đó là M.incognita, 
M.arenaria, M.javanica và M.hapla. 
Ấu trùng cảm nhiễm có thể xâm nhập vào rễ ngay cạnh sần hoặc có 
thể xâm nhập vào rễ mới. Tuyến trùng chỉ xâp nhập vào những cây trồng 
thích hợp với chúng. Khi chưa gặp cây chủ thích hợp chúng có thể tồn tại 
một thời gian tương đối dài ở trong đất. Như vậy, thực tế chỉ có thể tìm thấy 
tuyến trùng tuổi 2 có mặt ở trong đất.Trong thời gian này tuyến trùng lấy 
37
nguồn dinh dưỡng bằng cách sử dụng nguồn thức ăn dự trữ trong ruột 
chúng. Tuyến trùng tuổi 2 có thể xâm nhập vào thực vật bằng các chất do 
vật chủ tiết ra. 
Sau khi xâm nhập vào trong rễ, tuyến trùng di chuyển giữa các tế bào vỏ 
rễ để đến vùng kéo dài của rễ, tế bào bị tách dọc ra, sau đó tuyến trùng cư 
trú tại vùng mô phân sinh của vỏ rễ và bắt đầu quá trình dinh dưỡng. Khi 
lấy dinh dưỡng, tuyến trùng cắm phần đầu vào các tế bào mô mạch của 
rễ, tiết enzyme tiêu hoá làm cho quá trình sinh lý sinh hoá của mô rễ thay 
đổi và hình thành các điểm dinh dưỡng cho tuyến trùng. Vùng dinh dưỡng 
mà tuyến trùng cư trú gồm 5-6 tế bào khổng lồ là những tế bào có nhiều 
nhân được tạo thành trong vùng nhu mô hoặc vùng libe. Chính vì rễ bị tổn 
thương nên cây sẽ nhanh khô héo và chết.
Ảnh 23: Trứng tuyến trùng
Ảnh 21-22: Triệu chứng héo lá do tuyến trùng gây ra và nốt sần ở rễ
38
Các biện pháp phòng trừ tuyến trùng
Từ kết quả thí nghiệm và các tài liệu mà chúng tôi tham khảo được, hiện 
nay có những phương pháp hạn chế tác hại của tuyến trùng gây ra cho cây 
trồng như sau:
1. Ngăn ngừa
Để ngăn ngừa sự lây lan phát triển của tuyến trùng người ta có thể chọn 
giống sạch bệnh, giống chịu bệnh, kiểm tra vệ sinh đồng ruộng, xử lý các 
nông cụ và hạn chế tưới tràn.
2. Biện pháp canh tác
Các biện pháp bao gồm: luân canh, xen canh, bón chất hữu cơ Nhằm 
tạo điều kiện ngoại cảnh không thuận lợi cho tuyến trùng phát triển. Các 
biện pháp này cũng có tác dụng đáng kể trong việc phòng trừ tuyến trùng 
gây bệnh cho cây.
3. Các biện pháp vật lý
Phương pháp này dựa trên sự tương thích của tuyến trùng với nhiệt độ 
và môi trường để tiêu diệt hoặc hạn chế sự phát triển của chúng. Tuyến 
trùng rất mẫn cảm với nhiệt độ, đa số tuyến trùng không chịu được nhiệt 
độ trên 600C do đó các biện pháp xử lý nhiệt đa số đều cho hiệu quả cao, 
nhưng chúng cũng đòi hỏi chi phí cao và thời gian dài. 
4. Biện pháp sinh học
- Nghiên cứu thiên địch của tuyến trùng. Việc này có tầm quan trọng rất 
lớn để xác định các thiên địch có khả năng làm giảm mật độ quần thể để 
hạn chế tác hại do tuyến trùng ký sinh gây ra cho cây trồng. Trồng các loại 
cây như vạn thọ, sao nhái để xua đuổi tuyến trùng.
5. Biện pháp hoá học
- Từ những năm 1950 trở lại đây các loại thuốc hoá học khác nhau đã 
được sử dụng rộng rãi để phòng trừ tuyến trùng ký sinh thực vật. Các biện 
pháp hoá học có hiệu quả rất lớn