Lợi thế văn hóa và lợi thế nghệ thuật trong chiến lược ngoại ngữ thời hội nhập

Tóm tắt: Bài viết sử dụng hướng tiếp cận liên ngành và liên văn hóa nhằm đưa ra giả thuyết: Chiến lược phát triển ngoại ngữ cho các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam thời hội nhập là tận dụng những hiểu biết về văn hóa và những kỹ năng nghệ thuật để giúp người học tiếp thu ngoại ngữ một cách hiệu quả hơn. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Năng lực ngôn ngữ (ngữ pháp và vốn từ vựng) là năng lực chuyên môn hẹp, không đủ giúp người học ngoại ngữ đương đầu với những thách thức khi giao tiếp trong bối cảnh thời đại hội nhập văn hóa. Để giao tiếp tốt, người sử dụng ngoại ngữ cần bổ sung những năng lực liên ngành/liên văn hóa - chúng tôi gọi đó là lợi thế văn hóa và lợi thế nghệ thuật.

pdf9 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 112 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Lợi thế văn hóa và lợi thế nghệ thuật trong chiến lược ngoại ngữ thời hội nhập, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ti u ban 4: Văn hóa trong hot đng ging dy ngoi ng thi kỳ hi nhp 660 LỢI THẾ VĂN HÓA VÀ LỢI THẾ NGHỆ THUẬT TRONG CHIẾN LƯỢC NGOẠI NGỮ THỜI HỘI NHẬP Nguyn Hoàng Anh Tu n Trường ĐH KHXH& NV-ĐHQG Tp. HCM Tóm t t: Bài viết sử dụng hướng tiếp cận liên ngành và liên văn hóa nhằm đưa ra giả thuyết: Chiến lược phát triển ngoại ngữ cho các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam thời hội nhập là tận dụng những hiểu biết về văn hóa và những kỹ năng nghệ thuật để giúp người học tiếp thu ngoại ngữ một cách hiệu quả hơn. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Năng lực ngôn ngữ (ngữ pháp và vốn từ vựng) là năng lực chuyên môn hẹp, không đủ giúp người học ngoại ngữ đương đầu với những thách thức khi giao tiếp trong bối cảnh thời đại hội nhập văn hóa. Để giao tiếp tốt, người sử dụng ngoại ngữ cần bổ sung những năng lực liên ngành/liên văn hóa - chúng tôi gọi đó là lợi thế văn hóa và lợi thế nghệ thuật. T khóa: chiến lược ngoại ngữ, liên ngành, liên văn hóa, lợi thế văn hóa, lợi thế nghệ thuật. DẪN NHẬP Xuất phát từ nhu cầu đổi mới toàn diện giáo dục đại học Việt Nam, góp phần thiết thực triển khai Đề án Ngoại ngữ Quốc gia (2014-2020) do Thủ tướng phê duyệt, chúng tôi viết bài Lợi thế văn hóa và lợi thế nghệ thuật trong chiến lược ngoại ngữ thời hội nhập. “Hội nhập, toàn cầu hóa, thế giới phẳng... là những danh từ thời thượng mà các chính trị gia và các chuyên gia sính dùng. Đó ám chỉ một hiện tượng mới về xã hội và kinh tế do cuộc cách mạng công nghệ thông tin (IT) mang lại. Nếu Thomas Friedman đặt giả thuyết: sự lan tỏa của thông tin và kiến thức qua Internet đã san bằng mọi cách biệt về lợi thế kinh tế giữa các quốc gia/các thể chế chính trị/các tầng lớp nhân dân... kết quả là một thế giới phẳng, ai cũng có cơ hội do công nghệ mới tạo dựng, thì “hội nhập” cũng với ý nghĩa gần tương tự: là khái niệm chỉ xu thế thời đại mà công nghệ đã san bằng mọi đường biên giới, một dân tộc dù muốn hay không vẫn phải đối diện với giao lưu tiếp xúc với thế giới. Tuy nhiên, nhiều học giả phê phán giả thuyết về một xã hội đại đồng bình đẳng của Thomas Friedman là hoang tưởng (trong đó có Alan Phan). Dù cho những thành quả của IT có mang lại cuộc cách mạng vĩ đại về tri thức “nhưng thế giới sẽ vẫn là thế giới ta đã quen biết suốt 5.000 năm lịch sử... Thật sự IT lại có khả năng làm gia tăng sự cách biệt giàu nghèo, học thức và vô học... Người biết sử dụng IT sẽ khôn khéo dùng lợi thế cạnh tranh này để kiếm tiền, kiếm quyền và nhiều đặc lợi hơn so với đám đông còn bỡ ngỡ” [13: 13]. Tương tự, Đề án Ngoại ngữ của Việt Nam (2014-2020) với tư cách là một chiến lược đào tạo cần khai thác những lợi thế gì, hay chỉ làm gia tăng sự cách biệt giữa những cá thể có năng lực đặc biệt về ngoại ngữ so với “đám đông còn bỡ ngỡ”? Để giải quyết vấn đề này, bài viết áp dụng hướng nghiên cứu liên ngành và liên văn hóa, với giả thuyết: Chiến lược phát triển ngoại ngữ cho các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam trong thời kỳ hội nhập là tận dụng những (lợi thế) hiểu biết về văn hóa và những kỹ năng nghệ thuật để giúp người học tiếp thu ngoại ngữ một cách hiệu quả hơn. Mục đích của bài viết là đề xuất thuần túy về mặt lý thuyết, những chiến lược trình bày trong này là để khẳng định sự tiên tiến của giáo dục phương Tây nhưng đến nay vẫn còn mới mẻ và xa lạ đối với lịch sử giáo dục ngoại ngữ của Việt Nam. Vì thế bài viết sẽ không đáp ứng những kỳ vọng về một nghiên cứu thực chứng, hay một nghiên cứu thực trạng-giải pháp với những số liệu định lượng cụ thể. 1. Khái niệm “liên ngành” và “liên văn hóa” 1.1. “Liên ngành” như một định hướng nghiên cứu, một chiến lược đào tạo ngoại ngữ Trước hết, trong thời đại hội nhập, “liên ngành” là một bước chuyển của nhận thức về tính cách đa tầng của những vấn đề khoa học đang Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014 661 được đặt ra, như một sự phản ứng đối với sự chuyên môn hóa ngày càng cao của những chuyên ngành khoa học ổn định. Do những yêu cầu khách quan và cả những hạn chế chủ quan của bối cảnh thời đại, khoa học khởi nguyên từ tư duy tổng hợp, rồi đi vào quỹ đạo phân tích, chuyên sâu. Thời cổ đại đã xuất hiện một hình mẫu “nhà khoa học liên ngành” như Aristoteles (384-322 TCN). Nhưng khi thời đại “mặt trời triết học đã lặn” (con người kiểu mẫu ấy qua đời), nhân loại hầu như chỉ còn những con người “thường thường bậc trung” (hạn chế chủ quan), trong khi khoa học ngày càng phát triển đòi hỏi có sự phân công chuyên môn hóa để đi vào từng khía cạnh của vấn đề (yêu cầu khách quan). Tư duy phân tích – chuyên môn hóa có tính ưu việt của nó; nhưng bản chất thế giới luôn chằng chịt các mối liên hệ biện chứng, trên bước đường tiến hóa, người ta chợt nhận ra, không thể nhận thức thế giới một cách đơn lẻ và siêu hình, mà cần liên ngành dựa trên nền tảng phát triển cao của các khoa học phân tích đã có sẵn. Đó chính là hướng nghiên cứu và đào tạo mang tính hợp đề (synthese). Thứ hai, “liên ngành” là một khái niệm mô tả thực tế diễn ra trong lý luận và nghiên cứu một ngành khoa học mà có hơn một chuyên ngành tham gia. J.Kokelmans (1979) đã thử tìm cách khu biệt khái niệm “liên ngành” (interdisziplin) với những khái niệm cùng loại như: đa ngành (multidisziplin), đa số ngành (pluridisziplin), xuyên ngành (transdisziplin). Nhưng, thử nghiệm cắt nghĩa của J. Kokelmans không đạt kết quả, không tạo được một thuật ngữ có tính chính xác khoa học. Bởi vậy, J.Mittelstrass đề nghị nên xác định sự chuyên ngành hóa đích thực là sự xuyên ngành - tức là “làm cho các ngành riêng lẻ không còn như nó vốn có” [Mittelstrass, dẫn theo 12: 20]. Trong khi phương Đông thời kỳ cổ trung đại, khoa học còn ẩn mình trong tư duy tổng hợp sơ khai “Nho, y, lý, số gắn liền / Văn, sử, triết bất phân”, phương Tây thời kỳ cổ điển (cuối thế kỷ VI - đầu thế kỷ V TCN), thế giới quan của người Hy Lạp đã không ưa tính chuyên nghiệp hẹp. Một nhà triết học tài năng có thể có những phát minh toán học và thiên văn học, một nhà điêu khắc nổi tiếng không những có thể xây dựng đền đài mà còn có thể tô vẽ nó, có thể biên soạn một chuyên luận khoa học và đa số những người Hy Lạp nổi tiếng mà ký ức còn lưu lại hậu thế là các nhà thơ [14: 325]. Chính vì thế, “liên ngành” còn là một chính sách văn hóa, một chiến lược giáo dục, đào tạo toàn diện con người. “Nhà nước Aten quan tâm đến đời sống văn hóa của công dân bằng cách tạo cho họ khả năng tham gia vào ngày hội và đi xem hát. Thợ thủ công và thương nhân nghèo được trợ cấp để đi xem hát. Những cuộc thi đấu thể thao trong một thời gian dài là đặc quyền của giới quý tộc thì nay đã trở thành quyền của mọi công dân Aten” [14: 325]. Trong chiến lược đào tạo ngoại ngữ, chúng tôi kêu gọi “liên ngành” trên các bình diện: 1. Về phương pháp dạy ngoại ngữ, cần áp dụng phương pháp của các ngành khoa học xã hội và nhân văn khác trong đào tạo ngoại ngữ, điển hình là phương pháp so sánh của văn hóa học, phương pháp luyện giọng và trình diễn của các ngành nghệ thuật (sân khấu, điện ảnh); 2. Về chuẩn mực đào tạo nguồn nhân lực ngoại ngữ, cần đánh giá năng lực ngoại ngữ trên “năng lực liên văn hóa” và năng lực “trình diễn” ngôn ngữ. 1.2. “Liên văn hóa” như một yêu cầu của thời đại, một năng lực giao tiếp ngoại ngữ “Liên văn hóa” (intercultural) là một khái niệm ra đời trong thời đại mà giao tiếp là một yếu tố then chốt của thành công (thế kỷ XXI), đã xa rồi những thời kỳ mà mỗi quốc gia, mỗi nền văn hóa vẫn có thể tồn tại được trong chính sách “bế quan tỏa cảng” và bưng bít thông tin. Tiền tố “liên” biểu thị “mối quan hệ”. Tính từ “liên-văn hoá” hàm ý một quan niệm rằng, cứ hai nền văn hoá trở lên thì chắc chắn có quan hệ với nhau theo cách nào đó [8]. Trong quan hệ “đa văn hoá” như vậy, cần một sự hòa giải toàn diện những “xung đột văn hóa” như xung đột tư tưởng/tôn giáo/chính trị Đó là một thái cởi mở và khoan dung, giúp ta tránh được mọi cám dỗ của óc cuồng tín tôn giáo và thuyết “bảo căn” (fundamentalism), tư tưởng cục bộ, toàn thủ (integrism), vị chủng. Trong viễn Ti u ban 4: Văn hóa trong hot đng ging dy ngoi ng thi kỳ hi nhp 662 tượng chính trị, liên văn hóa cũng là một tên gọi khác của tinh thần cộng hòa-dân chủ, không chấp nhận sự độc quyền thống trị. Trong giáo dục - là viễn tượng quan trọng nhất, thái độ, tinh thần và sự thức nhận liên văn hóa cần được dạy và học trong gia đình và xã hội, từ nhà trẻ cho đến đại học, trong tư tưởng lẫn hành động [2]. Tính liên văn hoá hàm ý một mối quan hệ bình đẳng / đối thoại đóng vai trò một nguyên lý, giữa những nền văn hoá khác biệt như những chủ thể bình đẳng với các quyền bình đẳng. Đó là nền tảng để chấp nhận người khác với tính căn nguyên độc đáo của họ trong khi vẫn nhận biết sự khác biệt và đa dạng. Nó mặc định sự gạt bỏ mọi hình thái của thuyết trung tâm (thuyết coi châu Âu là trung tâm, thuyết Trung Quốc là trung tâm, thuyết dân tộc Arian là trung tâm, v.v.) và tạo dựng một nền tảng để phát triển sự giao tiếp và liên đới [8]. Claude Clanet, định nghĩa “liên văn hóa” là “toàn bộ các tiến trình phát sinh do sự tương tác giữa các nền văn hóa, trong mối liên hệ trao đổi qua lại và với mục đích bảo toàn bản sắc văn hóa tương đối của các bên tham gia” (1990). Martine Abdallah-Pretceille nhắc nhở thêm rằng:“cái chính yếu không phải là miêu tả các nền văn hóa mà là phân tích xem điều gì đang diễn ra giữa các cá nhân hay các nhóm thuộc những nền văn hóa khác nhau, phân tích các thói quen xã hội và giao tiếp của mỗi nền văn hóa” (1999) [4]. Vì thế, từ những năm 70 của thế kỷ XX, liên văn hóa đã được các nhà sư phạm phương Tây đề xuất như một hướng tiếp cận mới trong việc giảng dạy ngoại ngữ - nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cung cấp cho người học những kiến thức về văn hóa song song với quá trình giảng dạy một ngoại ngữ, giúp nâng cao năng lực giao tiếp của người học [4]; một năng lực giao tiếp ngoại ngữ, một chiến lược tiếp cận đối tượng tham thoại bằng thái độ chấp nhận các giá trị, niềm tin, cách ứng xử - văn hóa của bản thân chỉ là tương đối, không duy ngã độc tôn, tự biết đặt mình vào vị trị bình đẳng với đối tác và tôn trọng sự khác biệt văn hóa. Theo Đỗ Bá Quý: “Năng lực giao tiếp liên văn hóa là một tổ hợp của ba khối kiến thức gồm năng lực tri thức ngôn ngữ (đích), năng lực tri thức thế giới và năng lực chiến lược giao tiếp” [5]. 2. Lợi thế văn hóa 2.1. Lợi thế của mối quan hệ liên ngành ngôn ngữ và văn hóa Lời nói và kho tàng ngữ ngôn của văn hóa Nhà ngôn ngữ học nổi tiếng F. de Saussure đã khu biệt và chỉ ra mối quan hệ giữa ngữ ngôn (langue) và lời nói (parole): “Trong khi lời nói hình thành nên dữ liệu có thể trực tiếp tiếp cận được thì ngữ ngôn là một kho tàng được thực tiễn nói năng của những người cùng thuộc một cộng đồng ngôn ngữ lưu lại, một hệ thống ngữ pháp tồn tại dưới dạng thức tiềm năng trong mỗi bộ óc, hay nói cho đúng hơn, trong các bộ óc của một tập thể; vì ngôn ngữ không có mặt đầy đủ trong một người nào, nó chỉ tồn tại một cách vẹn toàn trong quần chúng. Ngược lại, lời nói là một hành động cá nhân do ý chí và trí tuệ chi phối... ngữ ngôn có tính xã hội, tính cốt yếu, trừu tượng, bất biến... Ngữ ngôn và lời nói gắn bó khắng khít và giả định lẫn nhau: Ngữ ngôn là cần thiết cho hiểu quả của lời nói có thể hiểu được; về phương diện lịch sử, lời nói có trước, làm ngữ ngôn biến hóa. Vì thế, Saussure viết: “Ngôn ngữ vừa là công cụ, vừa là sản phẩm của lời nói”. Thuật ngữ langage chỉ khả năng ngôn ngữ nói chung, tức là năng lực chung đối với việc thụ đắc và sử dụng ngôn ngữ [11: 47-48]. Theo lý thuyết của Saussure1 , kho tàng ngữ ngôn là trầm tích của văn hóa, mà người sử dụng nó bất luận là người bản xứ hay người nước ngoài phải trải qua một quá trình tích lũy lâu dài mới có được một năng lực ngôn ngữ đạt chuẩn. Điều này lý giải về một nghịch lý mà lâu nay rất nhiều người ngộ nhận rằng “học ngoại ngữ cho lắm cũng không bằng người bản xứ”, nhưng, thực tế cho thấy cũng giống như nhiều người Việt Nam thi không đạt môn Tiếng Việt thực hành, người bản xứ đi thi các chứng chỉ quốc tế tiếng mẹ đẻ vẫn trượt như thường. Và đó không phải là hiện 1 F. de Saussure 2005: Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Cao Xuân Hạo dịch, Nxb KHXH, H. [11]. Chin lc ngoi ng trong xu th hi nhp Tháng 11/2014 663 tượng cá biệt. Nguyên do, người nước ngoài, cũng như người bản xứ, khi sử dụng ngôn ngữ dân tộc mình là đang sử dụng lời nói - một hành động cá nhân, còn hiệu quả sử dụng của họ đến đâu thì còn tùy thuộc vào năng lực thủ đắc ngữ ngôn hay kinh nghiệm xã hội mà họ từng trải. Và, cơ hội để có được năng lực đó chia đều cho cả hai: người học ngoại ngữ và người bản xứ. Vì ngộ nhận nên khi chọn giáo viên dạy tiếng Anh, Sở Giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh đã đánh giá quá cao giáo viên nước ngoài dạy tiếng Anh thay vì chọn giáo viên người Việt, điều này bộc lộ thói sùng ngoại của người Việt Nam hơn là nhu cầu thực học2. Nghĩa của từ và giá trị văn hóa của từ Khi học tiếng Pháp, nhiều sinh viên cảm thấy khó khăn khi phải hiểu từ “soleil” trong với nghĩa là “nắng” thay vì chỉ hiểu là “mặt trời”. Tương tự ở các ngoại ngữ khác vẫn thường có hiện tượng này. Như tiếng Anh, “sheep” có nghĩa là “con cừu”, nhưng món thịt cừu được bày trên bàn ăn lại là “mouton” (mượn của tiếng Pháp). Vấn đề là khi gặp từ “soleil”, làm sao có thể liên tưởng ngay đến nghĩa là “nắng”? Khi phải gọi tên món thịt cừu, làm sao ghi nhớ phải dùng từ “mouton” thay vì từ “sheep”. Saussure đã gợi ý đến khái niệm “giá trị” trong nghiên cứu ngôn ngữ học, theo hai cách: 1) Đó là kết quả của những quan hệ qua lại với các thành viên khác của hệ thống; 2) Đó là kết quả của những quan hệ qua lại của hai mặt trong ký hiệu ngôn ngữ. “Một từ có thể đem đổi lấy một cái gì không cùng dạng: một ý niệm, ngoài ra, nó có thể đem so sánh với cái gì cùng tính chất với nó: một từ khác. Một từ không những mang một ý nghĩa mà còn mang (chủ yếu là) giá trị” [11: 54]. Mà, giá trị của một từ có liên quan đến giá trị văn hóa. Mỗi một nền văn hóa có một hệ giá trị riêng có ảnh hưởng đến cách hiểu và ý nghĩa của từ ngữ thuộc nền văn hóa đó. 2 Xem bài báo “Giáo viên Việt thua trên sân nhà”, Báo Phụ Nữ, vien-viet-thua-tren-san-nha-/a78478.html [10]. Văn hóa nhận thức như một logic tri nhận ngôn ngữ Vào cuối những năm 1950, xuất hiện hướng nghiên cứu liên ngành, kết hợp ngôn ngữ học với khoa học tri nhận - khảo sát quá trình tâm trí trong việc thụ đắc và sử dụng tri thức ngôn ngữ. Ngôn ngữ học tri nhận kêu gọi tiếp cận ngôn ngữ dựa trên kinh nghiệm của con người về thế giới và cách thức mà con người tri giác và ý niệm hóa thế giới. Ý niệm là những biểu tượng tinh thần phản ánh cách thức chúng ta tri giác thế giới xung quanh và tương tác với nó, bao gồm cả sự liên tưởng và những ấn tượng – một trong những kinh nghiệm của người sử dụng ngôn ngữ [11: 210]. Một đứa trẻ sinh ra học ngôn ngữ mẹ đẻ bằng cách gì nếu không phải là bằng ý niệm, thông qua sự tương tác của nó với môi trường xung quanh - gia đình và xã hội. Đầu tiên nó học nói bằng cách bắt chước theo cha mẹ, sau đó, lớn lên, đến trường học, nó mới học đọc và viết. Thế nhưng, theo khẳng định của Bộ trưởng Phạm Vũ Luận, “việc đào tạo, dạy học Ngoại ngữ của Việt Nam hiện nay không giống một nước nào trên thế giới,... ở Việt Nam, học sinh, sinh viên học ngoại ngữ nhưng không nói chuẩn hay để người khác hiểu được mình đang nói, nghĩ gì. Việc dạy ngoại ngữ ở trường phổ thông chưa có những tiêu chí cụ thể mang tính tuyệt đối, trình độ của giáo viên chưa đạt được yêu cầu đề ra”3. Vậy, cái “không đạt chuẩn” của giáo dục ngoại ngữ Việt Nam là không có năng lực “nói chuẩn để người khác hiểu”, là do sai chiến lược - đi ngược với logic tri nhận ngôn ngữ (trước phải học nói, sau mới học ngữ pháp). 2.2. Lợi thế của “cái nhìn liên văn hóa” Lợi thế khi thấu hiểu những khác biệt văn hóa Đôi khi những mâu thuẫn xung đột khi giao tiếp liên văn hóa chỉ xoay quanh sự khác biệt giữa cách nói, cách dùng từ và cách hiểu của mỗi nền văn hóa. Điều này cần phải thận trọng suy xét nguyên nhân của một “cú sốc văn hóa” là do “rào 3 Xem bài “Ngành giáo dục liệu có “kham” nổi khi dạy và học Ngoại ngữ yếu kém?” đăng trên V.O.V.VN, khi-day-va-hoc-ngoai-ngu-yeu-kem-331855.vov Ti u ban 4: Văn hóa trong hot đng ging dy ngoi ng thi kỳ hi nhp 664 cản ngôn ngữ” chứ không thể vội vàng đánh giá đối phương “thiếu văn hóa”. Học giả người Nhật - Takeo Doi [3: 13-15] tâm sự: “Tôi cảm thấy lúng túng trước sự khác biệt giữa lối nghĩ và cảm của mình với lối nghĩ và cảm của người Mỹ [...] Và tôi bắt gặp mình đang tự nghĩ rằng một người Nhật thì sẽ không bao giờ thô thiển hỏi một người lạ rằng ông ta có đói không, mà sẽ làm món gì đấy mời ông ta chẳng cần phải hỏi [...] Một trường hợp nữa cũng trong những ngày đầu tiên tôi ở Mỹ-khi một nhà tâm thần học đã làm cho tôi một việc tốt, tôi đã không nói cám ơn (thank you) như người ta trông đợi, mà lại nói “tôi lấy làm tiếc” (I’m sorry). Ông lập tức nhìn tôi một cách lạ lùng “Anh lấy làm tiếc cái gì chứ?”. Tôi hết sức bối rối. Tôi hình dung mình khó mở miệng nói lời cám ơn bởi thấy điều đó hàm ý một sự quá bình đẳng với con người thực ra là cấp trên của mình. Tôi đã bắt đầu có ý niệm mơ hồ về khó khăn mà tôi phải có dính dáng đến cái gì đó còn hơn là hàng rào ngôn ngữ”. “Một điều khác làm cho tôi bực mình: tục lệ chủ nhà người Mỹ hỏi khách trước khi ăn là anh ta thích uống rượu hay nước ngọt. Rồi nếu khách xin rượu, chủ nhà sẽ hỏi anh thích rượu scotch hay rượu bourbon, muốn uống nhiều hay ít và uống theo kiểu nào... Sau khi ăn xong, anh ta lại phải chọn uống cà phê hay trà, và còn chi tiết hơn nhiều - muốn uống có đường hay, sữa... không... Sao mà họ bắt khách phải chọn lựa lắm thứ vớ vẩn đến thế [...] Và có lẽ tôi nên chấp nhận nó đúng như nó là thế, như tục lệ Mỹ, thì hay hơn”. Trong khi tục lệ của Nhật khi mời khách không phải bạn thân của mình là phải nói một câu khiêm nhường “có thể món này không hợp khẩu vị của anh nhưng...” Đằng này một chủ nhà người Mỹ có khi lại tự hào miêu tả mình nấu món ăn như thế nào, mà không cho khách có lựa chọn nào khác, trong khi cho khách tự do chọn đồ uống trước hay sau đó. [Hơn nữa] câu “please help yourself” (xin cứ tự nhiên nhá) mà người Mỹ dùng thật khó lọt tai tôi trước khi tôi trở nên quen với lối nói chuyện tiếng Anh. Tất nhiên nghĩa câu ấy chỉ đơn giản “xin cứ dùng thức gì bạn muốn, đừng ngại” nhưng dịch từng chữ thì có vẻ như “không ai giúp bạn đâu” và tôi không thể biết làm sao mà nó lại diễn đạt một thiện ý. Sự nhạy cảm Nhật Bản đòi hỏi rằng, khi đãi khách, chủ nhà phải nhạy cảm nhận biết khách cần gì và tự mình giúp khách. Để mặc một người khách không thân với gia đình “help yourself” (tự phục vụ) sẽ có vẻ cực kỳ thiếu tôn trọng. Điều đó còn làm cho tôi tăng thêm cảm giác người Mỹ là một dân tộc không thể hiện sự trọng thị và nhạy cảm đối với người khác như người Nhật [3:15-16]. Tuy nhiên, dưới cái nhìn của người Mỹ, có thể họ sẽ cho rằng lối ứng xử theo nhạy cảm và cách dùng từ kính ngữ cầu kỳ của người Nhật là một hình thức “lịch sự kiểu Nhật” - giả tạo. Và Takeo Doi [3: 16-17, 97] nhận định: “Vì sao người Nhật và người Mỹ khác nhau thế [...] tôi rất chú ý đến những từ mà họ sử dụng [...] Khi tôi sang Mỹ tôi thấy những nhà tâm thần học ở đó ghi lại những điều bệnh nhân nói bằng chính tiếng của dân tộc họ và theo đuổi việc xem xét bệnh lý của bệnh nhân với cách nói của chính họ [...] Các học giả đã đưa ra nhiều lý thuyết khác nhau về cung cách tư