Nghi tục nhảy lửa trong lễ cúng ma của người Tu Dí ở Lào Cai

Tóm tắt Người Tu Dí ở Lào Cai là một nhánh của tộc người Bố Y ở Việt Nam. Nghi tục nhảy lửa của người Tu Dí ở Lào Cai không phải là một lễ riêng mà là một phần trong lễ cúng ma của họ. Nghi tục này có những nét đặc sắc so với nghi tục cùng loại của một số tộc người khác ở Việt Nam. Ngoài ý nghĩa chính là dùng lửa để tẩy rửa linh hồn cho người quá cố trước khi về nhập với tổ tiên, nghi tục nhảy lửa của người Tu Dí còn mang ý nghĩa giải đen, giải hạn hoặc đem lại may mắn cho những người tham gia. Những con người ở trạng thái bình thường dám bước đi trên than hồng, nhảy qua chảo lửa cũng là nét đặc biệt của nghi tục này. Những điều đó góp phần cho thấy người Tu Dí vẫn còn giữ được ít nhiều bản sắc dân tộc cho tới ngày nay.

pdf6 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 141 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghi tục nhảy lửa trong lễ cúng ma của người Tu Dí ở Lào Cai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 25 - Tháng 9 - 201852 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA NGHI TỤC NHẢY LỬA TRONG LỄ CÚNG MA CỦA NGƯỜI TU DÍ Ở LÀO CAI TRẦN QUỐC VIỆT Tóm tắt Người Tu Dí ở Lào Cai là một nhánh của tộc người Bố Y ở Việt Nam. Nghi tục nhảy lửa của người Tu Dí ở Lào Cai không phải là một lễ riêng mà là một phần trong lễ cúng ma của họ. Nghi tục này có những nét đặc sắc so với nghi tục cùng loại của một số tộc người khác ở Việt Nam. Ngoài ý nghĩa chính là dùng lửa để tẩy rửa linh hồn cho người quá cố trước khi về nhập với tổ tiên, nghi tục nhảy lửa của người Tu Dí còn mang ý nghĩa giải đen, giải hạn hoặc đem lại may mắn cho những người tham gia. Những con người ở trạng thái bình thường dám bước đi trên than hồng, nhảy qua chảo lửa cũng là nét đặc biệt của nghi tục này. Những điều đó góp phần cho thấy người Tu Dí vẫn còn giữ được ít nhiều bản sắc dân tộc cho tới ngày nay. Từ khóa: Nghi tục, nhảy lửa, Tu Dí, cúng ma Abstract The Tu Di in Lao Cai province is a branch of Bo Y ethnic group in Vietnam. Their fire dance ritual is a not separate one but is a part of their ghost worshipping. It has some special characteristics compare to the common rituals of some other ethnic groups in Vietnam. In addition to the main meaning that using fire to cleanse the soul for the deceased before following their ancestors, it also has meaning that using the fire to release their troubles or bring lucky to the attendance. Normal people who dare to walk on the hot red charcoal, jump over the fire are also characteristics of this ritual. Those contribute to the fact that Tu Di people still retain some of their traditional identity up to present. Keywords: Ritual, fire dance, the Tu Di, ghost worshipping Đặt vấn đề Nói đến nghi tục nhảy lửa, nhiều người thường nghĩ ngay đến người Pà Thẻn ở Hà Giang, bởi nghi tục nhảy lửa của tộc người này đã khá nổi tiếng, được các nhà nghiên cứu văn hóa và các phương tiện thông tin đại chúng quảng bá. Tuy nhiên, ở Việt Nam không chỉ người Pà Thẻn mà một số tộc người khác như Tày, Dao, Chăm... cũng có nghi tục nhảy lửa. Nhóm người Tu Dí ở Lào Cai - một bộ phận của tộc người Bố Y, cũng có nghi tục nhảy lửa nhưng nghi tục này của họ còn chưa được nhiều người biết đến, cũng chưa được đề cập chi tiết trong các tài liệu đã công bố về văn hóa người Tu Dí. Khi điền dã thâm nhập vào đời sống người Tu Dí, chúng tôi được nghe một số người ở các tộc lân cận như Nùng, Pa Dí, H’mông, Kinh... kể người Tu Dí có lễ nhảy lửa rất kỳ bí nhưng họ chỉ có thể kể sơ lược bởi nghi tục này luôn được người Tu Dí thực hiện vào đêm khuya ở trên núi cao - trong phần cuối của một lễ cúng ma, nên ít người các tộc khác được chứng kiến trọn vẹn. Điều đó khiến chúng tôi tò mò, quan tâm và muốn tìm hiểu. Chúng tôi trình bày nguyện vọng của mình xin tham dự khi có lễ đó diễn ra với các thầy cúng Tu Dí mà chúng tôi quen biết và được họ đồng ý. 1. Sơ lược về người Tu Dí ở Việt Nam Theo các tài liệu đã được công bố, Tu Dí là một bộ phận thuộc tộc người Bố Y ở Việt Nam 53Số 25 - Tháng 9 - 2018 VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA (trong các văn bản của tỉnh Lào Cai hiện nay đều gọi họ là người Bố Y nhưng người dân vẫn tự xưng tộc danh là người Tu Dí). Theo gia phả của dòng họ Lồ (chiếm đa số trong các dòng họ người Tu Dí) và lời kể của những cụ già, người Tu Dí di cư từ phủ Đô Vân, tỉnh Quý Châu, Trung Quốc sang Việt Nam vào khoảng những năm cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII. Thời gian đó, người Tu Dí tham gia vào một cuộc khởi nghĩa chống nhà Thanh nên bị đàn áp, truy đuổi gắt gao. Họ buộc phải chạy trốn từ Quý Châu xuống Vân Nam, trà trộn vào cộng đồng người Hán ở đó một thời gian. Nhà Thanh tiếp tục truy đuổi tới Vân Nam nên một số dòng họ chạy tiếp tới Lào Cai, Việt Nam, hình thành nên tộc người Tu Dí ở Việt Nam. Do hoàn cảnh lịch sử như vậy, người Tu Dí đã dùng tiếng Hán thay tiếng mẹ đẻ và một số tục lệ đã bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố văn hoá Hán. Tuy nhiên, họ vẫn giữ được những nét sinh hoạt cổ truyền, trong đó có nghi tục nhảy lửa. Nghi tục nhảy lửa của người Tu Dí là một phần của lễ cúng ma và là một sinh hoạt văn hóa lễ tục mang màu sắc tín ngưỡng dân gian đặc sắc của tộc người này. 2. Lễ cúng ma của người Tu Dí Người Tu Dí quan niệm có hai trường hợp chết: chết trong nhà và chết ngoài nhà. - Chết trong nhà là những trường hợp chết ở trong ngôi nhà của gia đình mình đang ở. Chết như vậy được coi là chết bình thường, linh hồn sạch sẽ, có thể cúng ma cho linh hồn vào nhập với tổ tiên mà không cần phải làm nghi tục nhảy lửa. - Chết ngoài nhà không chỉ có nghĩa là chết ở ngoài trời mà là tất cả các trường hợp chết ở ngoài ngôi nhà của gia đình mình đang ở bao gồm cả chết trong bệnh viện, nhà trọ, nhà người khác Chết ngoài nhà được coi là chết không sạch, linh hồn lang thang ở bên ngoài và lễ cúng ma bắt buộc phải có nghi tục nhảy lửa. Ngoài ra, người Tu Dí còn chia lễ cúng ma ra làm hai loại: lễ cúng ma ướt và lễ cúng ma khô. - Lễ cúng ma ướt là lễ cúng ma cho người mới chết. Thi thể có trong lễ cúng ma, sau lễ cúng thì mới đem đi chôn. - Lễ cúng ma khô là lễ cúng ma cho người chết đã được đem đi chôn trước đó. Do vậy, thi thể không có trong lễ cúng ma. Một gia đình có người chết làm lễ cúng ma ướt hay ma khô là tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế của họ. Chi phí để tổ chức một lễ cúng ma khá nhiều nên chỉ những gia đình khá giả mới làm ma ướt. Các gia đình nghèo thường làm ma khô. Thời điểm làm ma khô thường diễn ra khi gia đình đó đã chuẩn bị đủ về điều kiện vật chất, tiền của và có sự thúc ép bởi những bất an trong cuộc sống như ốm đau, làm ăn không thuận Bởi họ tin rằng: nếu hồn chưa được cúng ma, còn lang thang, không nhập được với tổ tiên thì hồn có thể quay trở về quấy nhiễu cuộc sống con cháu. Người Tu Dí luôn làm lễ cúng ma khô vào mùa đông, tầm cuối tháng 10, đầu tháng 11 âm lịch, vì lúc này ruộng nương đã thu hoạch xong, sẽ có mặt bằng để làm các nghi tục tang ma và mọi người cũng rảnh rỗi để có thể đến dự lễ cúng ma đông đủ. Như vậy, phần lễ cúng ma của các trường hợp chết trong hoặc ngoài nhà, ma ướt hay ma khô đều như nhau; phần nghi tục nhảy lửa chỉ có trong lễ cúng ma cho người chết ngoài nhà mà thôi; dù cúng ma ướt hay ma khô cho người chết ngoài nhà thì nghi tục nhảy lửa cũng vẫn làm như nhau. Nghi lễ chính của lễ cúng ma gồm các bước tiến hành như sau: Lễ cúng ma cổ truyền của người Tu Dí diễn ra trong ba ngày ba đêm. - Ngày thứ nhất, là ngày cúng gọi hồn. Địa điểm người qua đời ở chỗ nào thì phải tới chỗ đó làm lễ để cúng gọi hồn về. Trong trường Số 25 - Tháng 9 - 201854 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA hợp không xác định được chính xác chỗ người đó chết hoặc tang gia ở quá xa không có điều kiện đến tận nơi để gọi hồn, thầy cúng phải đi theo hướng khi người đó ra khỏi nhà trước khi chết cho đến khi gặp ngã ba/ngã tư đầu tiên thì sẽ dừng lại và cúng gọi hồn tại đó. Bởi từ chỗ này, người ta không biết người chết rẽ đi theo hướng nào nữa. - Ngày thứ hai là ngày các thầy cúng viết rất nhiều các loại sớ bằng chữ Hán, nội dung cầu xin các vị bồ tát ở các phương hướng mở đường cho hồn đi về nhà. Gia chủ dựng bốn bàn thờ để đón hồn về: * Bàn thờ thứ nhất đặt liền trước bàn thờ tổ tiên của tang gia để các vị bồ tát khắp nơi tọa lạc. * Bàn thờ thứ hai đặt ở giữa nhà. Bàn thờ này có hai mặt: một mặt đối diện với bàn thờ thứ nhất (mặt trong), mặt còn lại quay ra cửa ra vào (mặt ngoài) là nơi ngự của Phật tổ. * Bàn thờ thứ ba đặt ở sát tường, phía bên trái bàn thờ thứ nhất, là chỗ cắm cây tre gai làm đường lên trời cho hồn. * Bàn thờ thứ tư đặt ở ngoài nhà, phía trước cửa ra vào. Đây là chỗ cho hồn dừng chân nghỉ trước khi vào trong nhà. - Ngày thứ ba, các thầy cúng chủ yếu cầu các vị bồ tát xá tội cho hồn. Ngoài ra các thầy cúng còn đọc những bài kinh kể về con đường đi lấy kinh của Đường Tăng, những lời của tổ tiên răn dạy về lễ nghĩa sống ở đời cho con cháu. Khi trời xẩm tối, tang gia sẽ chuyển bàn thờ ở ngoài sân ra nơi bãi đất trống đã được chuẩn bị để thực hiện phần nghi tục nhảy lửa rồi đưa hồn lên nhập vào bàn thờ với tổ tiên. 3. Nghi tục nhảy lửa của người Tu Dí Nghi tục nhảy lửa của người Tu Dí là phần lễ diễn ra vào đêm cuối của ngày thứ ba trong lễ cúng ma. Chuẩn bị cho lễ nhảy lửa, tang gia đã chọn một bãi đất trống (là mặt bằng của một ruộng lúa đã thu hoạch xong). Họ đào một hố đất rộng khoảng 0,6m, dài 5m và sâu 0,4m. Hố được đổ đầy than củi - loại than cục. Một số thanh niên nhóm lửa cho than cháy và dùng những chiếc mẹt lớn quạt cho than nóng đỏ rực lên. Phía đầu trên của hố than, có một bàn thờ để thầy cúng thỉnh thần linh và làm phép cho lễ nhảy lửa. Cách phần cuối hố than khoảng 1m, người ta đào một hố nhỏ, dưới hố đặt chiếc chảo đổ đầy dầu mỡ ăn và đốt dầu cháy bùng lên. Một người cầm chai rượu mạnh đứng gần chảo và mỗi khi có người sắp Ảnh 1, 2. Rãnh than hồng và chảo lửa trong nghi tục nhảy lửa của người Tu Dí (Ảnh: Tác giả) 55Số 25 - Tháng 9 - 2018 VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA nhảy qua chảo thì phun rượu vào làm ngọn lửa trong chảo bùng lên cao. Những người sẽ đi trên than hồng và nhảy qua chảo lửa (không phân biệt già - trẻ, nam - nữ) bao gồm gia chủ và những người đến tham dự lễ cúng ma đã đăng ký nhờ thầy cúng xin phép thần linh cho nhảy lửa. Những người này phải kiêng kỵ một số điều sau: - Nếu là nam đã có vợ hoặc bạn gái thì người vợ hoặc bạn gái đó phải đang không có mang. Nếu vi phạm mà vẫn cố tình nhảy lửa thì hoặc sẽ bị bỏng hoặc người vợ hay bạn gái sẽ bị sảy thai. - Nếu là nữ đang có mang thì không được nhảy lửa vì sẽ bị bỏng hoặc sảy thai. Lễ nhảy lửa bắt đầu từ khoảng 19h kéo dài đến 24h. Thầy cúng dùng một nhạc khí thiêng đặc biệt - chiếc tù và làm bằng một cái rễ cây bị sét đánh chết, hướng lên trời và thổi một hồi. Tiếp đó, ông một tay cầm quyền trượng, tay kia cầm một nhạc khí thiêng khác - tiếng Tu Dí gọi là Shư tao, vừa cúng vừa lắc Shư tao và nhảy múa. Các động tác múa có những điểm đặc biệt như động tác dùng tay viết các chữ Nho vào không trung hoặc dùng chân viết chữ vô hình trên mặt đất. Trong khi thầy cúng múa làm phép, các học trò gõ chiêng liên tục. Thầy cúng trình lên với thần linh danh sách những người sẽ nhảy lửa. Sau khi thần linh đã chứng, thầy cúng vừa cúng vừa lấy thẻ xem quẻ ở hai đầu và hai bên khoảng giữa hố than. Ông ngậm nước trong một cái bát phun vào hố than ở mỗi chỗ xem quẻ một lần. Vậy là xong phần cúng. Tiếp đến phần chuẩn bị nhảy lửa, một thầy phụ cúng tay xách một cặp gà, vịt đi dọc mép hai bên hố than, đưa gà vịt lướt đi trên mặt than hồng và qua chảo lửa cầu cho gia súc, gia cầm không bệnh tật, sinh sôi nảy nở thật nhiều. Đến phần đi trên than hồng và nhảy qua chảo lửa, người ta mang đến một chậu nước lã. Những người nhảy lửa phải rửa chân sạch trước khi đi trên than hồng và nhảy qua chảo lửa. Mỗi người nhảy lửa ba lần nhưng chỉ rửa chân một lần đầu trước khi nhảy. Thầy cúng rửa chân và làm đầu tiên. Những người phụ việc đứng dọc hai bên hố than dùng những chiếc quạt lớn luôn tay quạt cho than đỏ hồng lên. Khi thầy cúng đi chân trần trên than hồng và nhảy qua ngọn lửa bùng cao ở chảo cuối hố than, các học trò cùng nhau khua chiêng, Ảnh 3. Thầy cúng người Tu Dí làm lễ trong nghi tục nhảy lửa (Ảnh: Tác giả) Ảnh 4. Người Tu Dí nhảy lửa (Ảnh: Tác giả) Số 25 - Tháng 9 - 201856 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA chũm chọe dồn dập trong tiếng reo hò của những người đứng xem hai bên. Sau khi nhảy lửa ba lần, thầy cúng đứng ở phía cuối hố than hồng chống chiếc phương trượng xuống chặn ngang hố than, trong khi phía đầu kia của hố, một học trò của ông xướng to tên các thành viên của gia chủ sẽ nhảy lửa để báo cho thần linh biết. Tiếp đó, thầy cúng nhấc chiếc phương trượng chặn cuối đường hố than ra, lập tức người chủ tang gia hai tay rước bài vị của người chết phải bước chân trần vào hố than, đi trên than hồng và nhảy xuyên qua ngọn lửa lớn bùng lên từ chảo lửa. Tiếp sau chủ tang gia, các thành viên khác trong gia đình chủ tang nối tiếp nhau làm theo. Mỗi người làm như vậy ba lần trong tiếng reo hò, tiếng chiêng và chũm chọe tạo nên một không khí vừa kỳ bí vừa sôi nổi. Sau khi gia chủ đã nhảy lửa xong, những người đã đăng ký và được thần linh cho phép sẽ rửa chân và lần lượt đi qua than hồng, nhảy qua chảo lửa ba lần. Hai bên người xem vừa hò reo, vừa quạt cho than hồng, thổi cho chảo lửa bùng lên thật to. Không khí lúc này vừa linh thiêng vừa có phần hào hứng, sôi nổi như của một ngày hội. Khi tất cả mọi người đều đã nhảy lửa xong, các thầy cúng tập trung vào một bên ở khoảng giữa hố than cúng bài cúng tạ ơn thần linh và đốt tất cả bài vị, sớ, vàng mã, cành tre gai ngay trên hố than. Lễ nhảy lửa sẽ phải kết thúc trước 24h một lúc để mọi người còn kịp trở về nhà gia chủ làm nốt lễ cuối cùng đưa hồn lên bàn thờ nhập với tổ tiên vào đúng 24h. Khi làm lễ đưa hồn nhập với tổ tiên, thầy cúng chỉ làm lễ cúng ở bàn thờ của gia chủ. Các bàn thờ khác đều được dọn đi. Bát hương thờ người chết ở ngoài cửa được mang vào đặt lên bàn thờ tổ tiên. Các thầy cúng đọc các bài cúng cầu chúc cho hồn siêu thoát, cầu hồn phù hộ con cháu những điều tốt đẹp. Sau khi cúng xong, mọi người vui vẻ ăn cơm, uống rượu với nhau rồi chia tay gia chủ, kết thúc lễ cúng. 4. Những nét đặc sắc trong nghi tục nhảy lửa của người Tu Dí Để thấy được những nét đặc sắc trong nghi tục nhảy lửa của người Tu Dí ở Lào Cai, chúng tôi đã so sánh nghi tục này với một số nghi tục nhảy lửa của các tộc người khác ở Việt Nam và rút ra những nhận xét sau: - Nếu như các tộc người khác như Dao, Chăm, Tày, Pà Thẻn dùng lễ nhảy lửa để vui chơi, tiễn mùa, giải xui hoặc chế ngự thiên nhiên thì người Tu Dí không chỉ dùng để giải xui mà ý nghĩa chính là tẩy rửa tội lỗi, làm trong sạch linh hồn. - Trong khi nghi tục của người Tày chỉ đi trên than hồng, người Dao bốc than hồng tung vào người, người Chăm múa, đạp dập tắt đống lửa, người Pà Thẻn nhảy vào lăn lộn dập tắt lửa, thì nghi tục nhảy lửa của người Tu Dí mang tính tổng hợp: vừa đi trên than hồng vừa nhảy xuyên qua ngọn lửa mà không dập tắt lửa. - Trong khi các tộc người khác rất hạn chế thành phần trực tiếp tham gia nhảy lửa như: chỉ thầy cúng (người Chăm), chỉ nam thanh niên (người Pà Thẻn) hoặc chỉ thanh niên trong họ (người Dao)... mới được phép tham gia nhảy lửa, thì thành phần trực tiếp nhảy lửa của người Tu Dí phong phú hơn rất nhiều: bao gồm cả tang gia và khách tham dự, cả nam và nữ các lứa tuổi khác nhau. - Sự kỳ bí, đặc sắc khiến người dân trong khu vực thán phục ở nghi tục này chính là việc những người Tu Dí hành lễ là những người dân bình thường, không phải chỉ là những người đặc biệt như thầy cúng trong nghi tục nhảy lửa của người Chăm; khi đi chân trần trên than hồng và nhảy qua chảo lửa, họ cũng hoàn toàn tỉnh táo, không bị nhập hoặc thôi miên, như các thanh niên trong nghi tục nhảy lửa của người Dao và Pà Thẻn. 57Số 25 - Tháng 9 - 2018 VĂN HÓA CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA - Các tộc người ở miền núi coi những thầy cúng có khả năng tổ chức lễ nhảy lửa là cao tay. Nghi tục nhảy lửa của người Tu Dí cho thấy quyền năng đáng chú ý của một số thầy cúng Tu Dí sánh ngang với các thầy cúng cao tay ở tộc người khác. Điều đó góp phần khẳng định vị thế tương xứng của văn hóa Tu Dí với văn hóa các tộc người lân cận, gìn giữ lòng tự hào về truyền thống văn hóa cổ truyền của người dân Tu Dí. - Những nét đặc sắc trong nghi tục nhảy lửa của người Tu Dí góp phần khẳng định họ vẫn giữ được ít nhiều bản sắc văn hóa riêng của mình. Điều này trái với nhận xét của một số nhà nghiên cứu văn hóa trước đây cho rằng người Tu Dí đã hoàn toàn bị Hán hóa. Kết luận Tuy không phải là một hiện tượng văn hóa cá biệt, nhưng nghi tục nhảy lửa chỉ có ở một số ít tộc người. Mỗi tộc người lại có những nét văn hoá riêng hết sức độc đáo. Nghi tục nhảy lửa của người Tu Dí về cách thức hành lễ có tính tổng hợp, phong phú hơn so với nghi tục nhảy lửa của một số tộc người khác. Tuy mục đích chính là dùng lửa để tẩy rửa linh hồn, nhưng nghi tục nhảy lửa của người Tu Dí cũng ít nhiều bao gồm cả ý nghĩa giải hạn, vượt qua thử thách chế ngự thiên nhiên và còn là lễ hội vui chơi giải trí Những nét đặc sắc trong nghi tục này của họ cho thấy bản sắc văn hóa của tộc người vẫn còn được gìn giữ cho tới ngày nay. Do vậy, chúng tôi nhận thấy nghi tục nhảy lửa của người Tu Dí hàm chứa một giá trị văn hoá độc đáo, cần được nghiên cứu sâu và quảng bá rộng rãi trong nước và quốc tế. Sự độc đáo của nghi tục nhảy lửa Tu Dí có thể thu hút du khách tham quan tương tự như nghi tục nhảy lửa của người Pà Thẻn. Vì vậy, nếu nghi tục này được khai thác tốt trong các loại hình du lịch khám phá văn hóa ở Lào Cai, nó có thể không chỉ góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân nơi đây một cách tích cực, mà còn góp phần giới thiệu, quảng bá di sản văn hóa đặc sắc của một trong những tộc người thiểu số vùng núi cao phía Bắc Việt Nam. T.Q.V (TS., Trường Đại học Thủ đô Hà Nội) Tài liệu tham khảo 1. Trần Trung Hiếu (2007), Tín ngưỡng và lễ hội nhảy lửa của người Pà Thẻn (xã Tân Bắc - huyện Bắc Quang - tỉnh Hà Giang), Luận văn thạc sĩ Văn hoá học, Viện Nghiên cứu Văn hóa. 2. Nguyễn Thị Thanh Nga (2005), Những tương đồng và khác biệt giữa người Bố Y và người Tu Dí (thuộc tộc người Bố Y) ở Lào Cai, Tài liệu đánh máy. 3. Trần Hữu Sơn (2013), Văn hóa dân gian người Bố Y ở Lào Cai, Tập I, Nxb. ĐHQG Hà Nội, Hà Nội. 4. Trần Hữu Sơn (2015), Văn hóa dân gian người Bố Y ở Lào Cai, Tập II, Nxb. ĐHQG Hà Nội, Hà Nội. 5. Viện Dân tộc học (1987), Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía bắc), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 6. Trần Quốc Việt (2015), Âm nhạc dân gian của người Bố Y ở Việt Nam và những vấn đề văn hóa liên quan, Nxb. Thế giới, Hà Nội. Ngày nhận bài: 9 - 7 - 2018 Ngày phản biện, đánh giá: 12 - 9 - 2018 Ngày chấp nhận đăng: 25 - 9 - 2018