Phương pháp dự án và triết lý giáo dục

TÓM TẮT Bài viết đề cập đến phương pháp Dự án (PPDA), một trong những phương pháp dạy học hiện đại đáp ứng được nhiều yêu cầu của đổi mới giáo dục. PPDA ra đời dựa trên nền tảng của tư tưởng triết học hiện đại, theo đó, giáo dục không đơn giản là chuẩn bị cho trẻ bước vào đời mà phải thực sự giúp trẻ trải nghiệm trong chính đời sống thực tiễn; PPDA hướng tới phát triển năng lực người học, lấy học sinh làm trung tâm; học kết hợp với hành; tạo cơ hội cho học sinh có những trải nghiệm cuộc sống; khơi gợi hứng thú học tập; rèn luyện những kỹ năng sống thông qua quá trình làm việc nhóm, tham gia giải quyết những vấn đề, những mục tiêu của dự án do chính học sinh đề xuất.

pdf7 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 121 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phương pháp dự án và triết lý giáo dục, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 2 (27) - Thaùng 3/2015 55 PHƯƠNG PHÁP DỰ ÁN VÀ TRIẾT LÝ GIÁO DỤC BÙI THỦY NGÂN (*) TÓM TẮT Bài viết đề cập đến phương pháp Dự án (PPDA), một trong những phương pháp dạy học hiện đại đáp ứng được nhiều yêu cầu của đổi mới giáo dục. PPDA ra đời dựa trên nền tảng của tư tưởng triết học hiện đại, theo đó, giáo dục không đơn giản là chuẩn bị cho trẻ bước vào đời mà phải thực sự giúp trẻ trải nghiệm trong chính đời sống thực tiễn; PPDA hướng tới phát triển năng lực người học, lấy học sinh làm trung tâm; học kết hợp với hành; tạo cơ hội cho học sinh có những trải nghiệm cuộc sống; khơi gợi hứng thú học tập; rèn luyện những kỹ năng sống thông qua quá trình làm việc nhóm, tham gia giải quyết những vấn đề, những mục tiêu của dự án do chính học sinh đề xuất. Từ khoá: phương pháp dự án, đổi mới giáo dục, lấy học sinh làm trung tâm, giải quyết vấn đề ABSTRACT This article mentions about the project method, one of the modern teaching methods meeting multiple demands of pedagogy innovation. Based on modern philosophies the project method is invented, which asserts the importance of education beyond preparation for life. It helps a child to experience life itself. This method aims to develop the real capacity of a student by putting students at the center, letting them learn through practice, open opportunities for life experience, trigger their enthusiasm in studying, apply interpersonal skills in group work, involve in their own initiative projects. Keywords: project method, pedagogy innovation, student at center, problem solving 1. TỔNG QUAN* “Đổi mới phương pháp dạy học” (PPDH) là một yêu cầu cấp thiết đặt ra cho các thầy cô giáo cũng như các cấp quản lý giáo dục từ mầm non đến đại học từ rất nhiều năm gần đây ở Việt Nam. Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VIII đã đặt ra yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục trong đó nêu rõ là đẩy mạnh hơn nữa đổi mới PPDH. Nghị quyết cũng khẳng định: “Phải đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng (*) ThS, Trường Trung học Thực hành Sài Gòn tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh”. Mặt khác, để đáp ứng nhu cầu tạo nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, theo kịp sự phát triển nhanh chóng của khoa học –công nghệ và khoa học giáo dục, chú trọng hơn đến phát triển phẩm chất và năng lực học sinh, đáp ứng tính hiện đại, hội nhập và tạo sự chuyển biến căn bản về chất lượng giáo dục, một chương trình giáo dục phổ thông mới sẽ được ra đời. Chương trình, sách giáo khoa 56 mới sẽ thực hiện theo hướng: “Tích hợp cao ở lớp và cấp học dưới; Tự chọn và phân hóa cao ở lớp và cấp học trên. Cách thiết kế này cho phép lựa chọn có chủ đích trong khối kiến thức rất lớn, rất phong phú của các lĩnh vực khoa học những nội dung phù hợp với lứa tuổi (tâm lý, kỹ năng, nhận thức) của học sinh phổ thông, gần với cuộc sống, thiết thực tham gia vào quá trình hình thành phẩm chất và năng lực của người lao động mới”. (trích phát biểu của Bộ trưởng Phạm Vũ Luận tại Hội nghị quán triệt nghị quyết T 8 và tổng kết năm học 2012-2013). Phương pháp dự án là một trong những PPDH hiện đại có khả năng đáp ứng được nhiều yêu cầu của chương trình giáo dục mới: lấy học sinh làm trung tâm; học kết hợp với hành; tạo cơ hội cho học sinh có những trải nghiệm trong chính thực tiễn đời sống; khơi gợi hứng thú học tập, xác lập động cơ học tập đúng đắn; tích cực rèn luyện những kỹ năng sống thông qua quá trình làm việc nhóm, tham gia giải quyết những vấn đề, những mục tiêu của dự án do chính học sinh đề xuất. Tất nhiên, không thể khẳng định rằng phương pháp Dự án (PPDA) là chiếc đũa thần có khả năng giải quyết được mọi vấn đề của giáo dục. Nhưng sự thực, PPDA là trường hợp của một quan điểm sư phạm đã vượt khỏi biên giới của một quốc gia và đã mang tầm vóc quốc tế khi đã được nghiên cứu, ứng dụng ở hàng loạt nước phát triển cũng như đang phát triển. 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHƯƠNG PHÁP DỰ ÁN (PPDA) Vào năm 1922, nhà sư phạm người Mỹ, alter Barnes đã đưa ra câu hỏi: “Cái gì là bản chất của nền giáo dục mới?” và để trả lời câu hỏi này, ông đưa ra 7 yếu tố cơ bản góp phần định hình nền giáo dục mới so với giáo dục truyền thống, đó là: (1) Nền giáo dục mới dựa vào quan niệm của tâm lý học hiện đại cho rằng: “mỗi đứa trẻ là trung tâm trong thế giới riêng của chính nó” - “each child is the center of his universe” (Nguồn alter Barnes (1922); (2) tinh thần khoa học trong giáo dục; (3) một triết lý mới của giáo dục, theo đó, giáo dục không đơn giản là chuẩn bị cho trẻ bước vào đời mà phải thực sự giúp trẻ trải nghiệm trong chính đời sống thực tiễn; (4) một quan niệm xã hội học mới, theo đó, phương cách duy nhất có thể giúp xây dựng một xã hội dân chủ thực sự là giáo dục phổ quát; (5) hệ thống giáo dục cần thay đổi; (6) đổi mới chương trình đào tạo, bao gồm đổi mới nội dung và hoạt động nhằm tạo sự hứng thú và giúp trẻ hình thành những giá trị cho bản thân; và (7) đổi mới phương pháp dạy học. Mọi phương pháp dạy học mới phải đáp ứng được yêu cầu tạo ra động lực học tập, tăng cường khả năng hoà nhập vào xã hội, và phương pháp dự án (The Project Method) được xem là phương pháp đáp ứng được cả hai yêu cầu nêu trên thông qua việc thực hiện “một nhiệm vụ hay một chuỗi nhiệm vụ quan trọng để tạo ra một kết quả đáng kể từ hoạt động của một nhóm hay của cá nhân ”. PPDA ra đời trên nền tảng tư tưởng triết học của triết gia, nhà tâm lý học và là nhà giáo dục học nổi tiếng người Mỹ, John Dewey. Vào cuối thế kỉ 19, Dewey nổi tiếng với tư tưởng triết học thực dụng; Theo ông, triết học phải gắn với nhiệm vụ xã hội và giải quyết những vấn đề thực tại, gần với con người. Ông cho rằng: “Đời sống là một chuỗi vấn đề và một đời sống thành công là một đời sống, trong đó, cá nhân và tập thể xác định được vấn đề đặt ra cho họ và tìm cách giải quyết những vấn đề này”. (Nguồn TS.Nguyễn Ái Học, 2014). Từ quan điểm triết học này, ông quan niệm giáo dục, học tập là một quá trình hội nhập xã hội và là một quá trình tương tác; do đó, các trường phải được 57 hiểu như một tổ chức xã hội và thông qua đó, cải cách xã hội có thể sẽ được diễn ra. Nhà trường không đơn giản là nơi chuẩn bị cho trẻ bước vào đời mà phải là nơi giúp trẻ trải nghiệm chính cuộc sống thực tiễn. Nhà trường chính là nơi giúp trẻ phát hiện và hiện thực hoá năng lực, khả năng hay kỹ năng sống của chính mình. Mặc dù chưa chứng minh được ai là cha đẻ của PPDA, song có thể nói Kilpatrick là người đầu tiên đã đưa ra định nghĩa rất nổi tiếng về PPDA là “Một hoạt động có mục đích và được thực hiện trong một môi trường xã hội với tất cả nhiệt huyết” (nguồn .H. Kilpatrick, 1918). Kilpatrick tự nhận rằng ông không phải là tác giả của PPDA nhưng ông là người đã dùng nó một cách có ý thức để chứng minh rằng nó là một phương pháp tiêu biểu cho tư tưởng giáo dục mới, hiện đại. Vào thập niên đầu của thế kỉ 20, từ “Dự án” đã trở nên phổ biến đối với các giáo viên trong các lĩnh vực nông nghiệp, thủ công, nghệ thuật và khoa học ứng dụng. Năm 1911, Stimson và nhóm của ông là những người đầu tiên đã dùng khái niệm PPDA vào trong giảng dạy tại khoa nông nghiệp của trường đại học Massachusetts, việc này đánh dấu một sự khởi đầu của cuộc tranh đua ở nhiều lĩnh vực khác nhau. PPDA nhanh chóng được tiếp nhận và được các giáo viên ứng dụng trong dạy học, ví dụ để dạy cho trẻ em biết xà bông được tạo ra như thế nào, họ đã cho trẻ em làm xà bông, hay để dạy về qui trình làm giấy thì họ đã cho học sinh tự làm giấy, .v.v Ngày nay Dạy học theo dự án là một trong những PPDH được thực hiện rộng rãi, chủ yếu trong các trường THPT và đại học ở các nước có nền GD tiên tiến trên thế giới như Mỹ, Thụy Sĩ, Đan Mạch, Canada. Ở Châu Á, các nước như Thái Lan, Singapore, Hong Kong, .v.v các dự án học tập được học sinh xây dựng và thực hiện ở nhiều lĩnh vực, dạy học theo dự án cũng được áp dụng khá phổ biến ở các trường phổ thông. Ở Việt Nam, từ năm 2003, phương pháp dạy học theo dự án được Bộ Giáo dục và Đào tạo kết hợp với công ty Intel Việt Nam triển khai thí điểm tại 20 trường học thuộc 9 tỉnh thành trên cả nước trong chương trình Dạy học cho tương lai của Intel (Intel Teach to the Future), có nhiều tác giả đã nghiên cứu về phương pháp dạy học theo dự án. Dưới đây là tên một số công trình, bài nghiên cứu: Tác giả Phan Đồng Châu Thủy với bài viết “Nhiệm vụ, thách thức của giáo viên, học sinh Việt Nam trong dạy học dự án” đăng trong Tạp chí Khoa học Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh (Số 31, 2011) đã trình bày những nhiệm vụ và thách thức mà giáo viên và học sinh phải đối mặt khi sử dụng phương pháp dạy học theo dự án (DHDA) và đề ra một số giải pháp giúp người dạy và người học vượt qua các thách thức đó. Các tác giả Trịnh Văn Biều, Phan Đồng Châu Thủy, Trịnh Lê Hồng Phương với bài viết “Dạy học dự án – từ lí luận đến thực tiễn” đăng trên tạp chí Khoa học Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh (số 28, 2011) đã trình bày một số khái niệm, phân loại, cấu trúc, đặc điểm, tác dụng, ưu, nhược điểm, cách tiến hành, đánh giá và những bài học kinh nghiệm để thành công trong việc dạy theo dự án. Những năm gần đây, với những ưu điểm vượt trội, Dạy học theo dự án tiếp tục thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu và Dạy học theo dự án được đề cập nhiều hơn trong các tài liệu Tiếng Việt với những tên gọi khác nhau như: đề án, dạy học theo dự án, phương pháp dự án. 3. PHƯƠNG PHÁP DỰ ÁN (PPDA) Theo K.Frey, học giả hàng đầu về dạy học theo PPDA của Cộng hòa Liên bang Đức thì: Dạy học theo dự án (Project 58 Based Learning) là một hình thức của hoạt động học tập trong đó nhóm người học xác định một chủ đề làm việc, thống nhất một nội dung làm việc, tự lập kế hoạch và tiến hành công việc để dẫn đến một sự kết thúc có ý nghĩa, thường xuất hiện một sản phẩm có thể trình ra được. Với một số nhà nghiên cứu về dạy học theo dự án của Hoa Kỳ như Thomas, Mergendoller hay Michaelson thì: Dạy học theo dự án là một mô hình tổ chức học tập xung quanh dự án. Các dự án có nhiệm vụ phức tạp, dựa trên các câu hỏi hay vấn đề đầy thử thách, đòi hỏi học sinh phải thiết kế, giải quyết vấn đề hoặc tiến hành các hoạt động điều tra. PPDA nhấn mạnh vai trò của người học, theo định nghĩa của Bộ Giáo dục Singapore: Học theo dự án là hoạt động học tập nhằm tạo cơ hội cho học sinh tổng hợp kiến thức từ nhiều lĩnh vực học tập và áp dụng một cách sáng tạo vào thực tế cuộc sống. Từ những quan điểm cơ bản về dạy học theo dự án nêu trên, có thể khái quát PPDA là một phương pháp dạy học hiện đại, thông quá quá trình học theo dự án, học sinh phát huy được năng lực tiềm tàng cũng như định hình được những giá trị của bản thân, giúp cho các em có khả năng hoà nhập và thích ứng cùng nhịp phát triển của xã hội. Trong PPDA, học sinh tích cực tham gia vào quá trình học tập chứ không phải là người tiếp nhận thông tin một cách thụ động. Trong các hoạt động theo PPDA, giáo viên đóng vai trò của một nhà tư vấn, giúp học sinh tiếp thu kiến thức mới, rèn luyện kỹ năng và phát huy năng lực của học sinh nhưng không hề làm thay những công việc của học sinh. Theo tổng hợp ý kiến của những nhà sư phạm như Hus (2009), Bulajeca (2011), Jung (2011), Boondee (2011), Vicheanpant và Ruenglertpanyakul (2012) sự khác biệt chính giữa cách dạy học truyền thống và dạy học dựa trên PPDA được tóm tắt qua bảng so sánh sau đây: Bảng 1: So sánh dạy học truyền thống và dạy học theo phương pháp Dự án (Hus, 2009; Jung et al., 2011; Boondee et al., 2011; Vicheanpant &Ruenglertpanyakul, 2012) Dạy học truyền thống Dạy học theo dự án Dạy học theo từng bước. Tập trung vào những kỹ năng cơ bản. Học sinh được mong đợi hiểu một ý tưởng theo những cách tương tự như cách hiểu của thầy giáo. Công cụ học tập phổ biến là sách giáo khoa. Học sinh là đối tượng tiếp nhận thông tin thụ động. Dạy học nhấn mạnh vào những khái niệm và ý tưởng. Nó được bắt đầu từ một nhiệm vụ tổng quát và được phân chia thành những phần nhỏ hơn. Học theo PPDA ủng hộ những sở thích, những ý tưởng nảy sinh từ chính học sinh. Học sinh được khuyến khích sử dụng nhiều nguồn thông tin, tài liệu khác nhau, bao gồm cả sách giáo khoa. Việc học hỏi kinh nghiệm dựa trên đối thoại, qua đó giúp học sinh củng cố kiến thức. 59 Kiến thức của học sinh được xem như khô cứng Thầy giáo đóng vai trò của người truyền thụ trực tiếp. Học sinh làm việc cá nhân, riêng rẻ. Việc nhận xét đánh giá kiến thức học sinh căn bản dựa trên kết quả các bài kiểm tra, các kỳ thi Kiến thức của học sinh được thâu thái một cách năng động và luôn được cập nhật dựa vào kinh nghiệm. Thầy giáo được hiểu ngầm như một cố vấn. Học sinh làm việc nhóm. Việc nhận xét đánh giá được xem xét trong cả quá trình thực hiện dự án, những hoạt động, những sự quan sát và kết quả của dự án. Tuỳ theo tính chất, mục đích cụ thể, mỗi dự án có thể có nhiều hình thức và được phân chia ra nhiều bước thực hiện khác nhau, nhưng qua thực tiễn ứng dụng ở nhiều nơi, có thể hình dung các dự án đều có những phần chính giống như mô tả trong bảng 2. Bảng 2: Mô hình chung của PPDA (1) Lập kế hoạch dự án Xác định mục tiêu và nội dung của dự án Chọn những đề tài thiết thực và được học sinh quan tâm một cách hứng thú Phân công làm việc nhóm Nhận diện rõ các vấn đề, các mục tiêu cần đạt được của dự án Miêu tả các nhiệm vụ cụ thể (2) Thực thi dự án Hiện thực hoá các yêu cầu của kế hoạch đã đề ra Xử lý các tình huống phát sinh để dự án thành công (3) Tổng kết và nhận xét đánh giá Trình bày các kết quả đã đạt được Nhận xét đánh giá về quá trình thực hiện dự án Ghi nhận những phản hồi của học sinh về kết quả dự án 60 4. VÀI KINH NGHIỆM QUA THỰC TIỄN NGHIÊN CỨU & ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP DỰ ÁN TẠI TRƯỜNG TRUNG H C THỰC HÀNH SÀI GÒN. Trong báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở: “Nghiên cứu và ứng dụng phương pháp dự án vào các hoạt động dạy học và giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trường Trung học Thực hành Sài Gòn” (Mã số: CS2012-48), chúng tôi đã tổng hợp và phân tích khá chi tiết kết quả khảo sát các đối tượng học sinh, giáo viên, cũng như đã giới thiệu một số dự án cụ thể của trường THTH Sài Gòn liên quan đến một số môn học, những dự án liên môn và cả những dự án nằm ngoài các môn học nhưng có liên quan đến mục đích giáo dục đạo đức, lối sống, hình thành và phát triển các kỹ năng cho học sinh. Ở đây, trong phạm vi của một bài báo, chúng tôi chỉ xin nêu vài kinh nghiệm mà trong quá trình ứng dụng PPDA, nếu không lưu ý đúng mức, nhiều giáo viên mới bắt đầu làm quen với PPDA có thể mắc phải. (1) Khái niệm “Phương pháp Dự án” trong thực tế đã được một số thầy cô giáo chuyển hướng thành dạy học theo chủ đề. Các chủ đề này lại do chính các thầy cô đưa ra chứ không thật sự nảy sinh từ sáng kiến của học sinh. Và như thế, từ yêu cầu của PPDA là phát huy sáng kiến của học sinh, trở thành phát huy sáng kiến của giáo viên. (2) Yêu cầu của PPDA là giáo viên chỉ đóng vai trò của người tư vấn hay cố vấn, có thể gợi ý đề tài, lĩnh vực để kích thích học sinh tham gia dự án một cách hứng thú, tuyệt đối không được làm thay công việc của học sinh. Nhưng trong thực tế, nhiều giáo viên đã áp đặt kế hoạch của mình, và học sinh chỉ còn là những người thực hiện kế hoạch của giáo viên. Mặc dù dự án được thực hiện theo cách này vẫn mang lại những hiệu quả nhất định, nhưng điều đó chủ yếu chỉ là thành tích của giáo viên, có thể được xem như một phương pháp dạy học tích cực nhưng vẫn chưa đạt yêu cầu của phương pháp dự án và chưa thể hiện được tinh thần của triết lý giáo dục mới. (3) Những vấn đề của dự án phải được đề xuất từ chính sự hứng thú tìm tòi của học sinh nhưng trong thực tế, một số vấn đề này lại do chính giáo viên đề xuất, xây dựng kế hoạch thực hiện, điều này chẳng những tước đi niềm vui sáng tạo mà còn đánh mất cơ hội hình thành động lực học tập cho học sinh. (4) Một số giáo viên thường có khuynh hướng tự giới hạn các dự án trong khuôn khổ nội dung chương trình giáo dục, chưa mạnh dạn khuyến khích học sinh đề xuất những dự án liên quan đến đời sống thực tiễn. Điều đó cho thấy một số giáo viên chưa thật sự cảm nhận và thấu hiểu triết lý giáo dục mới là nhà trường không đơn giản là nơi truyền thụ những kiến thức nhất định để chuẩn bị cho học sinh bước vào đời mà phải là nơi thật sự giúp học sinh có những trải nghiệm từ chính thực tiễn đời sống, là nơi hiện thực hoá năng lực và những kỹ năng sống giúp học sinh làm quen với việc nhận diện và giải quyết những vấn đề của chính mình trong đời sống thực tiễn. (5) Khi nghiên cứu, ứng dụng PPDA, cần lưu ý rằng mặc dù PPDA không phải là chiếc chìa khoá vạn năng của giáo dục, nhưng ẩn phía sau phương pháp thu hút được sự chú ý của nhiều nhà sư phạm trên thế giới này là những quan niệm sư phạm hiện đại, những triết lý giáo dục nhân văn và khoa học. Nếu vận dụng một cách hời hợt, tuỳ tiện thì rất dễ biến phương pháp dự án trở thành một thứ thủ thuật mang tính chất thời thượng, như J. Stockton (1920) 61 từng cảnh báo:“ Phương pháp dự án đã từng được sử dụng nhiều hay ít như là một thủ thuật mang tính thời thượng và không thực hiện đầy đủ đặc tính và thế mạnh của nó” (The project-based method was viewed as something fashionable, as a gimmick, used more or less as a trick and without full realization of its character and power). TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt: 1. Trịnh Văn Biều và nhóm tác giả, Dạy học dự án – Từ lí luận đến thực tiễn, Tạp chí khoa học Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, số 28, 2011. 2. Nguyễn Văn Cường/Bernd Meier: Một số vấn đề chung về đổi mới phương pháp dạy học ở trường trung học PT. (Berlin/ Hà nội, 2010). 3. Nguyễn Ái Học, Triết lý giáo dục của John Dewey với giáo dục và dạy học ở Việt Nam, Tạp chí khoa học, Đại học Sư phạm Hà Nội, tháng 2/2014. 4. Bùi Thủy Ngân, Nguyễn Long Sơn, Trần Thị Ánh, Nguyễn Thanh Loan, Vũ Duy Đăng, Nghiên cứu phương pháp dự án và ứng dụng trong hoạt động dạy, học và giáo dục KNS cho học sinh trường TH Thực hành Sài Gòn, 12/2014. 5. Phan Đồng Châu Thủy, Nhiệm vụ, thách thức của giáo viên, học sinh Việt Nam trong dạy học theo dự án, Tạp chí khoa học Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, số 31, 2011. Tài liệu tiếng nước ngoài: 1. Esther Marques Lepe Maria Luisa Jimenez – Rodrigo, Project – based learning in virtual environments: a case study of a university teaching experience, RUSC, 2014. 2. Jana Kratochvilova, The teacher’s conception of Project-based teaching, The New Educational Review. 3. Maria del Mar del Pozo Andres, The transnational and national dimensions of pedagogical ideas: the case of the project method, 1918-1939, Routledge, October 2009. 4. Michael Knoll, The Project Method: Its Vocational Education Origin and International Development, Journal of Industial Teacher Education, 1997. 5. Stephanie Bell, Project-Based Learning for the 21 st century: Skills for the future, The Clearing House, 2010. 6. William.H.Kilpatrick, The project Method, Teachers College Record XIX, 1918. * Ngày nhận bài: 21/01/2015 Biên tập xong: 01/3/2015 Duyệt đăng: 20/3/2015
Tài liệu liên quan