Thi pháp học thể loại – Từ cổ điển đến hiện đại

Thi pháp học thể loại là một trong những khuynh hướng nghiên cứu cơ bản của Thi pháp học. Tính từ thời điểm ra đời công trình Nghệ thuật thơ ca (Thi pháp học) của Aristote (thế kỷ IV TCN) đến nay, Thi pháp học thể loại đã có bề dày 24 thế kỷ. Trên hành trình phát triển từ cổ điển đến hiện đại, khuynh hướng này đã trải qua nhiều sự biến đổi lớn. Từ đầu thế kỷ XX, bên cạnh những công trình nghiên cứu quy phạm thể loại, còn xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu sự cách tân thể loại. Tìm hiểu khuynh hướng nghiên cứu này, chúng ta cũng hình dung được phần nào quá trình phát triển của văn chương trên thế giới và Việt Nam.

pdf8 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 139 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thi pháp học thể loại – Từ cổ điển đến hiện đại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 8 (33) - Thaùng 10/2015 12 Thi pháp học thể loại – Từ cổ điển đến hiện đại Genre-Based poetics – From classic to modern TS. Phạm Ngọc Hiền Trường Đại học Sài Gòn Ph.D. Pham Ngoc Hien Sai Gon University Tóm tắt Khuynh hướng Thi pháp học thể loại đã xuất hiện từ thời cổ đại. Đến nay, nó vẫn là hướng nghiên cứu chủ lực trong các khuynh hướng của Thi pháp học. Bài viết phác họa bức tranh tổng thể về tình hình nghiên cứu Thi pháp học thể loại trên thế giới và Việt Nam. Hy vọng rằng, nó sẽ giúp người đọc hình dung được phần nào sự phát triển của văn học. Từ khóa: thi pháp học, thể loại, loại hình, nghệ thuật thơ ca Abstract The trend of Genre-Based Poetics has appeared since ancient times. To date, it remains the key research direction in various trends of Poetics. The article outlines the overall picture of the situation of studies about Genre-Based Poetics in the World and Vietnam. Hopefully, it will help readers visualize the evolution of literary. Keywords: poetics, genre, type, poetry and art Thi pháp học thể loại là một trong những khuynh hướng nghiên cứu cơ bản của Thi pháp học. Tính từ thời điểm ra đời công trình Nghệ thuật thơ ca (Thi pháp học) của Aristote (thế kỷ IV TCN) đến nay, Thi pháp học thể loại đã có bề dày 24 thế kỷ. Trên hành trình phát triển từ cổ điển đến hiện đại, khuynh hướng này đã trải qua nhiều sự biến đổi lớn. Từ đầu thế kỷ XX, bên cạnh những công trình nghiên cứu quy phạm thể loại, còn xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu sự cách tân thể loại. Tìm hiểu khuynh hướng nghiên cứu này, chúng ta cũng hình dung được phần nào quá trình phát triển của văn chương trên thế giới và Việt Nam. 1. Khuynh hướng Thi pháp học thể loại trên thế giới 1.1. Thi pháp học thể loại cổ điển Từ thế kỷ XIX trở về trước, những công trình nghiên cứu về thể loại văn chương thường được xếp vào khuynh hướng Thi pháp học cổ điển, còn gọi là Thi pháp học sáng tác, Thi pháp học quy phạm. Khuynh hướng này thường nghiên cứu các tác phẩm, thể loại văn chương từ những khuôn mẫu có sẵn. Nó tìm hiểu việc nhà văn có tuân thủ các nguyên tắc thể loại hay không. Ví dụ, xây dựng cốt truyện kịch thì phải quán triệt luật “tam duy nhất”, sáng tác thơ Đường thì phải theo đúng hệ thống niêm luật chặt chẽ của thể loại này Việc nghiên cứu thi pháp thể loại nhằm hướng tới mục đích chính là dạy cách sáng tác và 13 cảm thụ vẻ đẹp nghệ thuật Trong Nghệ thuật thơ ca, Aristote dạy học trò cách thức sáng tác, cảm thụ các loại hình tự sự, trữ tình và kịch. Ông phân tích một số tác phẩm tiêu biểu của văn chương Hy Lạp để minh họa. Kết cấu của công trình Nghệ thuật thơ ca như sau: 1. Mở đầu, phân loại nghệ thuật; 2. Phân loại tính cách trong các thể loại; 3. Mô phỏng như thế nào; 4. Nguyên nhân nảy sinh nghệ thuật thơ ca; 5. Đặc điểm của hài kịch; 6. Đặc điểm của bi kịch; 7. Cách sắp xếp hành động trong bi kịch; 8. Sự thống nhất hành động nhân vật sử thi; 9. Cách xây dựng những tình huống bất ngờ, “cái có thể xảy ra” trong cốt truyện; 10. Cốt truyện đơn giản và cốt truyện phức tạp; 11. Sự đột biến và nhận thức của nhân vật trong cốt truyện; 12. Bố cục của một vở kịch; 13. Các cảm xúc mỹ học: đáng sợ và đáng thương, hạnh phúc và bất hạnh; 14. Bàn thêm về các biến cố đáng sợ và đáng thương trong cốt truyện kịch, 15. Tính cách cần phải cao thượng, thích hợp, giống thật, nhất quán. 16. Sự nhận biết dựa vào dấu hiệu bên ngoài, sự sắp đặt, hồi ức, suy luận; 17. Sự miêu tả các tình tiết trong cốt truyện; 18. Thắt nút và mở nút; 19. Ngôn từ và tư tưởng; 20. Cách dùng âm, vần, từ, câu; 21. Các loại từ: đơn - phức, thông dụng - ít dùng, kéo dài - rút ngắn; 22. Mỹ từ pháp, phép tu từ ẩn dụ; 23. Sự duy nhất về thời gian; 24. Sử thi: độ dài, kết cấu, cách luật, cái kỳ lạ và phi lý; 25. Nhiệm vụ của nhà thơ; 26. Bi kịch cao quý hơn sử thi. Có thể thấy quan điểm chủ đạo của ông trong đoạn mở đầu tác phẩm: “Chúng ta sẽ bàn về nghệ thuật thơ ca nói chung, về các thể loại riêng của nó, cũng như ý nghĩa mỗi thể loại, và cốt truyện cần phải xây dựng ra sao cho tác phẩm được hay () Sử thi, bi kịch, hài kịch và tụng ca, đại bộ phận nhạc sáo, nhạc đàn lục huyền - tất cả những cái đó nói chung đều là những nghệ thuật mô phỏng; giữa chúng có ba điểm khác nhau: mô phỏng bằng cái gì [phương tiện], mô phỏng cái gì [đối tượng], mô phỏng như thế nào [cách thức]” [1, tr.15]. Aristote cho rằng, nghệ thuật bắt nguồn từ sự bắt chước. Nhưng để tác phẩm hấp dẫn, nhà thơ còn phải biết “tạo kinh ngạc” bằng những hành động biểu diễn ấn tượng. Tác giả nên sử dụng nhiều lối nói tu từ, đặc biệt là phép ẩn dụ, nên dùng các từ lạ, hoa mỹ để tránh sự tầm thường, nhạt nhẽo. Ông lấy ví dụ, câu “Cái nhọt chân tôi xâm thực xác tôi” không hay bằng câu “Cái nhọt chân tôi gặm mòn xác tôi”. Cụm từ “chiếc ghế tuyệt đẹp” không hay bằng “chiếc ghế hoa lệ”. Nên dùng các từ như: “tuổi già của một ngày” (buổi chiều), “buổi chiều của cuộc sống”, “buổi hoàng hôn của cuộc đời” (tuổi già). Đây cũng chính là thủ pháp “lạ hóa” mà sau này được trường phái Hình thức cổ súy. Như vậy, Aristote phân tích “Nghệ thuật thơ ca” để dạy phương pháp sáng tác. Những nguyên lý Thi học cổ điển của ông đã chi phối nền văn nghệ châu Âu suốt thời cổ trung đại. Sau Aristote, còn có một số nhà lý luận khác cũng có công trình về Thi pháp học như Horace, Trissin, Tasso, Scaliger, Longinus, Caxtenvestro, Minturno, Lessing Vào thế kỷ XVII, ở Pháp, Boileau đã hiện đại hóa Aristote qua tác phẩm Bàn về nghệ thuật thơ ca (còn gọi là Thi học, Nghệ thuật thơ). Ông cũng dạy cách sáng tác nghệ thuật: “Các ngài có muốn được công chúng mến mộ không?/ Vậy thì khi viết hãy luôn luôn chuyển đổi ngôn từ” [5, tr.431]. Ở phương Đông, các quốc gia lớn cũng xuất hiện nhiều công trình bàn về cách thức sáng tác và quy phạm thể loại. Từ thời cổ đại, Ấn Độ có các công trình Lý luận về kịch của Bharata (thế kỷ II), Bahamaha (thế kỷ V - VI), Anandavardhana (thế kỷ IX) Họ có bàn đến trải nghiệm 14 xúc cảm, cách sử dụng các biện pháp tu từ, sự khêu gợi ẩn ý để làm cho lời văn hoa mỹ, có sức lôi cuốn. Thi pháp Ấn Độ coi trọng yếu tố cảm hứng, đề cao sự phản ánh chủ quan hơn là “bắt chước”, “mô phỏng” khách quan (như thi pháp Hy Lạp cổ đại). Ở Nhật Bản, các công trình Thi pháp học không nhiều. Nhưng qua những phát biểu về quan niệm nghệ thuật của các nhà lý luận và nghệ sĩ, ta cũng có thể hình dung được phương pháp sáng tác của họ. Nghệ thuật truyền thống Nhật Bản coi trọng lối biểu hiện tượng trưng, tạo ra nhiều khoảng trống không gian, thời gian trong văn bản để gợi tưởng (“thi pháp chân không”). Phần lớn tác phẩm của họ nhằm hướng đến thể hiện niềm bi cảm trước cái đẹp (aware). J. Kristeva gọi đây là nền “Thi học của nước mắt”. Ở Trung Quốc, vào thế kỷ V, có bộ sách Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp. Đây là công trình Lý luận văn chương đồ sộ nhất ở phương Đông cổ trung đại. Văn tâm điêu long gồm có 50 thiên, nội dung đề cập đến khá nhiều lĩnh vực. Trong đó có một số thiên mang màu sắc Thi pháp học rõ nét nhất là: thiên 5. Biện tao (bàn về Ly tao và Sở từ); 6. Minh thi (giảng giải về thơ); 7. Nhạc phủ (âm nhạc cung đình); 8. Thuyên phú (bàn về phú); 9. Tụng tán (nói về tụng và tán); 16. Sử truyện (bàn về sử và truyện); 18. Luận thuyết (thể lí luận và thể thuyết phục); 27. Thể tính (bàn về cá tính); 29. Thông biến (thông suốt do bắt chước và sau có thể biến hóa); 30. Định thể (văn tự nhiên có hình thể); 31. Tình thái (tình cảm và nghệ thuật diễn tả); 32. Thanh luật (thanh và luật); 33. Chương cú (chương và cú); 34. Dung tài (đúc gọt); 35. Lệ từ (làm cho lời cân đối); 36. Tỉ hứng (tỉ và hứng); 37. Khoa sức (phóng đại và tô vẽ); 38. Sự loại (lấy sự việc cùng loại mà dẫn chứng); 39. Luyện tự (luyện từ ngữ); 40. Ẩn tú (kín đáo và nổi bật); 43. Phụ hội (tô vẽ thêm); 44. Tổng thuật (bàn chung các thuật); 45. Thời tự (sự biến đổi văn chương theo các thời); 46. Vật sắc (thanh sắc của sự vật); 47. Tài lược (tài năng, kiến thức); 48. Tri kỉ (kẻ tri âm) Lưu Hiệp bàn về tác giả, độc giả, mối quan hệ giữa nghệ thuật và vũ trụ. Ông cũng đề cập đến một số nội dung nằm ngoài tác phẩm nghệ thuật như ở thiên 1. Nguyên đạo (văn bắt nguồn ở tồn tại khách quan). Ông cũng xét văn chương trong tiến trình lịch sử: 2. Trưng Thánh (lấy căn cứ ở thánh nhân), 3. Tôn kinh (đề cao các kinh), 4. Chính vĩ (chỉnh đốn những lời mê tín). Nhưng phần lớn nội dung công trình bàn về nghệ thuật viết văn (theo nghĩa rộng, gồm các thể văn chương và ca nhạc). Ở thiên cuối cùng (Tự chí), tác giả trình bày lý do viết tác phẩm này như sau: “Văn tâm điêu long viết ra lấy tồn tại khách quan (đạo) làm gốc, lấy thánh nhân làm thầy, lấy kinh làm bản chất (thể)”. Ta thấy Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp có vẻ sùng cổ hơn Nghệ thuật thơ ca của Aristote. Dung lượng của Văn tâm điêu long đồ sộ hơn nhiều nhưng không thuần túy Thi pháp học như Nghệ thuật thơ ca. Hai tác phẩm được viết cách nhau khoảng một thế kỷ, đại diện cho hai nền Thi pháp Đông - Tây. Ngoài ra, ở Trung Quốc còn có nhiều lời bàn về nghệ thuật viết văn của các nhà lý luận khác như: Chung Vinh, Tiêu Thống, Lục Cửu Uyên, Nghiêm Vũ, Bạch Cư Dị, Tô Đông Pha, Âu Dương Tu, Viên Hoằng Đạo, Kim Thánh Thán, Mao Tôn Cương, Lương Khải Siêu Trong Tùy Viên thi thoại, Viên Mai (1716 - 1798) đã hoàn thiện và phát triển học thuyết “tính linh”, đề cao tính cách và linh cảm, “tình chân thực, lời khéo léo”. Thi pháp học Trung Quốc thường mang màu sắc chính trị trong khi Thi pháp học Ấn Độ mang đậm màu sắc tôn giáo. Mặc dù quan niệm Thi pháp có khác nhau chút ít giữa các nước nhưng 15 chúng đều mang nét chung cơ bản của Thi pháp học cổ điển là đưa ra mô thức chung của thể loại để dạy cách sáng tác. 1.2. Thi pháp học thể loại hiện đại Sang thế kỷ XX, Thi pháp học thể loại tách thành hai nhánh. Một nhánh vẫn tiếp tục dòng chảy Thi pháp học quy phạm, một nhánh nữa ủng hộ sự cách tân thể loại. Cả hai nhánh này không mâu thuẫn mà bổ sung cho nhau phản ánh sự đa dạng của đời sống văn chương hiện đại. Thi pháp học quy phạm vẫn tiếp tục phát triển trên tinh thần mới. Nhiều tác phẩm nghiên cứu thi luật văn chương trung đại nhưng không phải để dạy sáng tác mà chủ yếu là định hướng cho công việc phê bình, học tập và nghiên cứu di sản văn hóa dân tộc. Chẳng hạn như các công trình nghiên cứu thể loại văn chương cổ điển phương Đông: Nghệ thuật ngôn ngữ thơ Đường (Cao Hữu Công, Mai Tổ Lân), Thi pháp thơ cổ điển Nhật Bản (thế kỷ VIII - XIII) (I.A. Boronina), Thi pháp văn chương trung đại phương Đông (nhiều tác giả) Nếu như các nhà Thi pháp học cổ điển thường nghiên cứu thể loại theo phương pháp đồng đại thì các nhà Thi pháp học hiện đại bổ sung thêm hướng nghiên cứu lịch đại: Sự vận động của thời gian và quy luật của thể loại (N. L. Leideman), Những vấn đề thi pháp thể loại (Surin), Logic học về các thể loại văn chương (K. Hamburger), Thi pháp thơ Haiku trong thế kỷ XX - những nhà thơ tiên phong (J. Johnson) Một số tác phẩm cũng có mục đích dạy phương pháp sáng tác nhưng ứng dụng vào thực tiễn các loại hình nghệ thuật hiện đại: Tu từ học tiểu thuyết (W. Booth), Thi pháp kịch (D. Bordwell), Để viết một kịch bản điện ảnh (M. Chion), Thi pháp cho người viết kịch bản phim (L. Lee), Nghệ thuật viết kịch bản điện ảnh (nhiều tác giả - Pháp) Cũng như các nhà Thi pháp học cổ điển, các nhà Thi pháp học hiện đại tiếp tục thừa nhận đặc trưng cơ bản nhất của thơ là tính nhạc và sự trau chuốt ngôn từ. Tuy nhiên, họ đi tìm những quy luật âm nhạc mới, những cá tính sáng tạo của nhà thơ. Ở mức cực đoan, trường phái Ngôn ngữ học Nga đầu thế kỷ XX chủ trương sự “lạ hóa” hoàn toàn trong thơ. Nếu như Thi pháp học cổ điển quan tâm tìm hiểu mô hình sáng tác của nhà thơ thì Thi pháp học hiện đại còn quan tâm khám phá cả mô hình tác phẩm do bạn đọc xây dựng. Họ không xem thể loại là một khuôn mẫu khép kín mà là một cấu trúc ngôn từ động. Tuy nhiên, nhiều nhà Thi pháp học hiện đại không phủ nhận thành quả của các bậc tiền bối. Họ chỉ xem mình có trách nhiệm bổ sung thêm hướng nghiên cứu mà tiền nhân đã khai mở. Có thể thấy tinh thần đó trong các tác phẩm: Thơ là gì? (R. Jakobson), Hiểu thơ, Hiểu văn xuôi (C. Brooks và R.P. Warren), Bàn về thơ ca, Bàn về văn xuôi (B. M. Eikhenbaum), Thơ ca và văn xuôi (M.L. Gasparov), Về câu thơ (B. V. Tomashevski), Mô hình thơ (W. Scott), Nghệ thuật thơ ca (H. Kenner) Nếu như Thi pháp học cổ điển quan tâm tới văn vần thì Thi pháp học hiện đại quan tâm tới văn xuôi. Sự xuất hiện của những công trình nghiên cứu thi pháp văn xuôi như là sự bổ sung làm phong phú thêm những thành tựu của Thi pháp học thể loại: Nghệ thuật văn xuôi (G. Lanson), Nghệ thuật tiểu thuyết (P. Lubbock), Tiểu thuyết hiện đại (Brewster & J. A. Burrell), Thi pháp văn xuôi (Hirss), Thi pháp truyện (T. Pavel) M. Bakhtin / Medvedev rất quan tâm tới thi pháp tiểu thuyết. Trong công trình Những vấn đề thi pháp Dostoevski cũng như nhiều bài viết khác, ông đã làm sáng tỏ sự khác nhau giữa tiểu thuyết truyền thống và hiện đại. Nếu như tiểu thuyết truyền thống là đơn thanh (như sáng tác của L. Tolstoi) thì tiểu thuyết hiện đại là 16 đa thanh (như sáng tác của Dostoevski). Tính phức điệu này có nguồn gốc từ văn hóa trào tiếu dân gian trong các lễ hội hóa trang Canaval. Tinh thần chung của tiểu thuyết hiện đại là tính dân chủ và chưa hoàn tất. Nó là một cấu trúc động và mở. Chủ nghĩa cấu trúc Âu - Mỹ chủ trương đi tìm những cấu trúc mới, một tác phẩm có thể có nhiều cấu trúc. Có người cho rằng, tác giả đã chết, nhân vật không còn là hình tượng trung tâm của tác phẩm. Mỗi tác phẩm nghệ thuật là một phát minh mới mẻ về nội dung và hình thức. A. R. Grillet cho rằng: “Tiểu thuyết Mới không phải là một lý thuyết, đó chỉ là một cuộc kiếm tìm”. Có thể thấy những tiếng nói ủng hộ cho tiểu thuyết Mới trong các tác phẩm: Vì một tiểu thuyết Mới (A. R. Grillet), Nghệ thuật tiểu thuyết (Kundera), Những mưu toan đổi mới trong nền tiểu thuyết hiện đại (V. Donhievorov & M. Cudonetxov), Cuộc tìm tòi vô tận (A.G. Botsarov), Số phận của tiểu thuyết (nhiều tác giả - NXB Tác phẩm mới, H. 1983) Sự sinh thành và biến hóa của thể loại tiểu thuyết đang thu hút sự quan tâm của công chúng. Điều đó có nghĩa là, Thi pháp học thể loại vẫn luôn giữ được một tầm quan trọng trong nghiên cứu văn chương đương đại. 2. Khuynh hướng Thi pháp học thể loại ở Việt Nam Ở Việt Nam thời trung đại, dường như không có công trình nào chuyên nghiên cứu Thi pháp học thể loại. Quan điểm Thi pháp học thể loại ở Việt Nam chủ yếu ảnh hưởng từ Trung Quốc. Các nhà Nho Việt Nam sử dụng các quy tắc thi luật từ Trung Quốc để thẩm bình tác phẩm văn chương. Ta có thể kể đến một số quan niệm về thơ của Lý Tử Tấn, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Lê Hữu Kiều, Nguyễn Cư Trinh, Trịnh Sâm, Phan Huy Chú, Phạm Nguyễn Du, Nguyễn Văn Siêu, Nhữ Bá Sĩ, Ngô Thì Nhậm, Ngô Thì Sĩ, Nguyễn Công Trứ, Miên Thẩm Đáng kể nhất là những lời bàn luận về thơ trong các tập: Vân đài loại ngữ (Lê Quý Đôn), Nam sơn tùng thoại (Nguyễn Đức Đạt) Những quan niệm về văn chương thường được phát biểu tản mạn qua các bài tựa sách, thơ phú Chẳng hạn, trong Cúc Hiên văn tập, ta bắt gặp một vài quan niệm của Lê Đình Diên về thể loại văn chương nghệ thuật: “Thơ là sự biểu hiện của nhạc, thanh là sự hỗ trợ của thơ () Sự phân biệt của thanh và thơ, chỉ riêng người hiểu sâu về thi học và nhạc học mới biết được”. Trong khi các nhà Nho đề cao thơ Đường luật thì Phạm Đình Toái đề cao thể lục bát: “Thể thất ngôn thì có hình thức đối xứng nhau, thể lục bát thì có vẻ quanh co uyển chuyển () chưa có ai phân tích thể cách của tác phẩm lục bát để nêu lên cách kết cấu khéo léo của người xưa, đồng thời làm cho tính chất tinh xảo của quốc âm ta được nổi bật”. Trong các bài tựa sách và thơ của mình, Cao Bá Quát có đề cao thuyết tính linh. Nhiều nhà Nho Việt Nam đã ủng hộ thuyết tính linh bằng những cuộc cởi trói trong sáng tác của mình. Điều đó cho thấy, vào cuối thế kỷ XIX, thơ ca Việt Nam đã chuẩn bị cho cuộc chuyển đổi sang thi pháp mới. Cuốn sách đầu tiên ở Việt Nam có tựa đề “thi pháp” là Thi pháp nhập môn (Bàn về thơ Annamite) của Thế Tải, Trương Minh Ký (nhà in thương mãi Rey, Saigon, 1898). Tác phẩm này dạy luật thơ thất ngôn qua những bài miêu tả các sự vật hiện tượng trong thiên nhiên có kèm tranh vẽ. Năm 1932, nhà in Bùi Văn Nhẫn ở Bến Tre cũng xuất bản cuốn sách Thi pháp diễn giải: chỉ phép tắc làm thơ, truyện, ngâm, phú Ngoài ra, trước 1945, còn có nhiều công trình khác cũng đề cập đến luật thơ trung đại như: Việt Hán văn khảo (Phan Kế Bính), Quốc văn cụ thể (Bùi Kỷ), Việt Nam văn học (Ngô Tất Tố), Văn học Việt Nam (Dương Quảng Hàm) Trong cuốn 17 Chương Dân thi thoại (1936), Phan Khôi có bàn về phép làm thơ: cú pháp, dụng điển, các thể phú, tỉ, hứng Ngoài ra, ông còn so sánh những chỗ khác nhau giữa thi luật thơ Việt Nam và Trung Quốc. Bên cạnh những công trình bàn về luật thơ cổ điển, còn có một số chuyên luận bàn về luật thơ mới. Tiêu biểu như: Khảo luận luật thơ mới (1940) của Lam Giang, Việt Nam thi ca luận (1942) và Nghệ thuật thi ca (1945) của Lương Đức Thiệp Trong nửa đầu thế kỷ XX, ở Việt Nam xuất hiện khá nhiều công trình lý luận về tiểu thuyết hiện đại. Phạm Quỳnh có loạt bài Bàn về tiểu thuyết đăng trên báo Nam Phong năm 1921, sau này, được in lại trong tập Thượng Chi văn tập (1943). Trong Phê bình và cảo luận (1933), Thiếu Sơn có dành một mục bàn về tiểu thuyết. Thạch Lam tham gia tranh luận về chức năng của tiểu thuyết. Những bài này đăng trên báo Ngày nay, Chủ nhật trong các năm 1939 - 1940, được in lại trong tập Theo giòng (1962). Vũ Bằng cũng có nhiều bài bàn về thể loại tiểu thuyết đăng trên báo Trung - Bắc chủ nhật, in lại trong chuyên luận Khảo về tiểu thuyết (1955). Nhưng có lẽ, công trình khảo cứu đồ sộ nhất về văn xuôi là Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan. Tác phẩm được in lần đầu năm 1942, gồm 4 tập, có nhiều trang lí luận về thể loại tiểu thuyết. Ngoài những công trình này, còn có nhiều bài viết khác bàn về các thể loại văn chương đăng rải rác trên các báo Trong giai đoạn 1955 - 1975, ở miền Nam, công việc nghiên cứu thể loại vẫn được tiếp tục. Về luật thơ cổ điển, Diên Hương có hai cuốn sách là Thi pháp (1958 - 1960) và Phép làm thơ (1963). Về thơ hiện đại, năm 1956, NXB Lạc Việt công bố tập tiểu luận Tìm hiểu thơ tự do (nhiều tác giả). Năm 1965, NXB Sáng tạo ra mắt tập phê bình Thảo luận về văn nghệ tiền chiến, về nhân vật trong tiểu thuyết, về thơ Nhưng nếu nói đến những công trình lý luận thể loại có tính học thuật cao thì phải kể ra: Nguyên tắc sáng tác thơ ca (Vũ Văn Thanh, 1959), Luật thơ mới (Minh Huy, 1961), Quan niệm và sáng tác thơ (Đoàn Thêm, 1962), Thi ca và tư tưởng (Bùi Giáng, 1969), Từ thơ Mới đến thơ Tự do (Bằng Giang, 1969), Thơ là gì? (Đặng Tiến, 1973), Kỹ thuật sáng tác thơ (Trương Linh Tử) Thể loại tiểu thuyết cũng được đầu tư nghiên cứu, tiêu biểu là các chuyên luận: Tiểu thuyết hiện đại (Tràng Thiên, 1963), Viết và đọc tiểu thuyết (Nhất Linh viết năm 1960, in năm 1969), Xây dựng tác phẩm tiểu thuyết (Nguyễn Văn Trung, 1972), Văn học và tiểu thuyết (Doãn Quốc Sỹ, 1972). Về các bài báo bàn về tiểu thuyết, có: Truyện và thơ trong tiểu thuyết của Michel Butor (Hoàng Thái Linh, 1961), Hiện hữu của tiểu thuyết (Lê Tuyên, 1961), Tiểu thuyết hiện sinh là gì ? (Đỗ Ngọc, 1972), Nghệ thuật và bản chất của tiểu t