Tín ngưỡng cầu nước, cầu mưa ở châu thổ sông Hồng

Tóm tắt Nhiều học giả cho rằng, hằng số văn hóa của người Việt chính là nông nghiệp lúa nước, người nông dân và yếu tố xóm làng. Để thích ứng với môi trường tự nhiên và xã hội, con người đã sáng tạo ra lối sống, chuẩn mực và văn hóa ứng xử nhất định. Mỗi vùng, tiểu vùng văn hóa với những hằng số văn hóa riêng lại có những dấu ấn văn hóa đặc trưng. Qua những tư liệu khảo sát, nghiên cứu về đặc trưng văn hóa, tín ngưỡng của các tiểu vùng ở châu thổ sông Hồng1, bài viết phác họa một phần diện mạo tín ngưỡng cầu nước, cầu mưa, qua đó cho thấy tính “lưỡng thế” trong văn hóa ứng xử của người Việt.

pdf8 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 211 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tín ngưỡng cầu nước, cầu mưa ở châu thổ sông Hồng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
37Số 31 (Tháng 3 - 2020) TÔN GIÁO - TÍN NGƯỠNG NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA TÍN NGƯỠNG CẦU NƯỚC, CẦU MƯA Ở CHÂU THỔ SÔNG HỒNG VŨ DIỆU TRUNG* Tóm tắt Nhiều học giả cho rằng, hằng số văn hóa của người Việt chính là nông nghiệp lúa nước, người nông dân và yếu tố xóm làng. Để thích ứng với môi trường tự nhiên và xã hội, con người đã sáng tạo ra lối sống, chuẩn mực và văn hóa ứng xử nhất định. Mỗi vùng, tiểu vùng văn hóa với những hằng số văn hóa riêng lại có những dấu ấn văn hóa đặc trưng. Qua những tư liệu khảo sát, nghiên cứu về đặc trưng văn hóa, tín ngưỡng của các tiểu vùng ở châu thổ sông Hồng1, bài viết phác họa một phần diện mạo tín ngưỡng cầu nước, cầu mưa, qua đó cho thấy tính “lưỡng thế” trong văn hóa ứng xử của người Việt. Từ khóa: Châu thổ sông Hồng, tín ngưỡng, cầu nước, cầu mưa Abstract Many scholars believe that the cultural constant of Vietnamese people is wet rice plants agriculture, farmers and villages. In order to adapt to the natural and social environment, people have created standard lifestyle and certain behavioral culture. Each culture and sub-culture has its own characteristics that create a unique cultural imprint. With the survey and research materials on the cultural and religious characteristics of the sub-regions in the Red River Delta, the article outlines a part of the beliefs of praying for water and rain, thus showing the “duality” in the behavioral culture of Vietnamese people. Keywords: Red River Delta, beliefs, prayer for water and rain Dẫn luận Châu thổ sông Hồng Việt Nam là một đại diện của nền văn hóa nông nghiệp Đông Nam Á. Môi trường khí hậu nhiệt đới ẩm, gió mùa, mưa nhiều, sông ngòi dày đặc, thảm thực vật đa dạng đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc ra đời cây lúa nước. Nhiều học giả cho rằng, “hằng số văn hóa” của người Việt chính là cây lúa nước, người nông dân và yếu tố xóm làng. Điều này chứng tỏ nước là khởi nguồn của sự sống, là yếu tố quan trọng đối với đời sống con người và nhất là đối với cư dân nông nghiệp. Nói như vậy không có nghĩa là cư dân du mục sống trên thảo nguyên không cần đến nước, họ cũng cần nước cho gia súc, cần mưa cho đồng cỏ tốt tươi, nhưng, cư dân nông nghiệp lúa nước cần nhiều nước hơn cả, bởi cuộc sống của họ gắn liền với nước. Chính vì thế, đời sống tâm linh của người Việt vô cùng phong phú với nhiều loại hình tín ngưỡng, đặc biệt là tín ngưỡng liên quan đến nguồn nước. 1. Châu thổ sông Hồng - cái nhìn địa văn hóa Châu thổ sông Hồng được hình thành bởi ba hệ thống sông chính là sông Hồng, sông Đà và sông Thái Bình. Sông Hồng (hay còn gọi là sông Cái, sông Mẹ) là nơi tụ cư đầu tiên của * TS., Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam Số 31 (Tháng 3 - 2020)38 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA người Việt cổ trên đường di cư từ vùng Bạch Hạc (Phú Thọ) xuống vùng trung và hạ lưu châu thổ. Bắt nguồn từ Vân Nam (Trung Quốc), sông Hồng chảy vào Việt Nam qua địa phận tỉnh Lào Cai, Yên Bái hợp lưu với sông Đà ở Việt Trì tạo thành ngã ba sông, phân chia ranh giới giữa các tỉnh Hà Tây (cũ), Phú Thọ, Vĩnh Phúc, khi xuôi về hạ châu thổ chảy vào địa giới các tỉnh Hưng Yên, Hà Nam, Thái Bình, Nam Định rồi đổ ra biển Đông ở cửa Ba Lạt. Sông Hồng còn là khởi nguồn của sông Đuống và sông Luộc, hai con sông đã góp phần không nhỏ cho sự hình thành hệ thống sông Thái Bình - nơi nuôi dưỡng, bồi đắp phù sa của châu thổ. Châu thổ sông Hồng còn có nhiều hồ, vực, ao, đầm lớn nhỏ mà theo các nhà nghiên cứu thì đây chính là các ao trợ thời, nơi dự trữ và thu nhận nguồn nước mỗi khi lũ từ thượng nguồn đổ về. Không chỉ giữ nước, ao, đầm, hồ còn lưu giữ truyền thuyết về các vị anh hùng dân tộc, những tín ngưỡng dân gian mang tính cổ xưa của người Việt. Ví như, hồ Tây gắn với truyền thuyết Trâu Vàng, hay Thái sư Lê Văn Thịnh hóa hổ và một Huyền Thiên Trấn Vũ uy nghi trấn yểm phía bắc kinh thành Thăng Long; hồ Thủ Lệ gắn với truyền thuyết về vị hoàng tử Linh Lang thời Lý; hay hệ thống vực nước tại xã Vân Côn, huyện Hoài Đức gắn với truyền thuyết về Ả Lã Nàng Đê... Một đặc điểm nữa của châu thổ sông Hồng, đó là sự xâm nhập của yếu tố biển ở vùng hạ châu thổ, nơi các con sông đổ ra biển. Dân gian gọi vùng đất này là xứ Đông và xứ Nam. Chính những yếu tố đặc biệt này đã tạo nên một lối sống riêng, một tính cách riêng và một hệ thống tín ngưỡng đặc trưng. Để thích ứng với môi trường tự nhiên và ứng xử với môi trường, con người đã tạo ra lối sống và những chuẩn mực xã hội nhất định. Vì vậy, môi trường tự nhiên luôn là yếu tố quyết định trong mọi hành vi ứng xử của con người. Người Việt ở châu thổ sông Hồng luôn phải cầu “mưa thuận, gió hòa” cho đồng ruộng tốt tươi, nhưng trong đời sống thực tế, họ đã đem sức lực của mình để bắt thiên phải thuận nhân. Người ta đắp đê khơi dòng khi lũ lụt và người ta lại “vắt đất ra nước” thay trời làm mưa khi hạn hán. Thế ứng xử này được các nhà nghiên cứu gọi là ứng xử lưỡng thế của người Việt. Điều này cũng được dân gian đúc kết qua câu ca: “Chưa nắng đã khô, chưa mưa đã lụt”. 2. Tín ngưỡng cầu nước, cầu mưa vùng thượng châu thổ sông Hồng Một trong những truyền thuyết được cư dân vùng thượng châu thổ sông Hồng tạo ra đã phản ánh rõ nét tín ngưỡng cầu nước, cầu mưa và lý giải cho việc đắp đê trị thủy là truyền thuyết về Tản Viên Sơn Thánh. Đền Và ở thôn Vân Gia, xã Trung Hưng, thị xã Sơn Tây, Hà Nội là một trong những nơi thờ Đức Thánh Tản Viên, còn có tên gọi là Đông Cung. Hàng năm, lễ hội đền Và được tổ chức hai lần: Hội xuân từ ngày mùng 1 đến hết ngày 16 tháng Giêng và hội thu từ ngày 13 đến ngày 16 tháng Chín âm lịch. Vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu, cư dân của 8 làng là Vân Gia, Thanh Trì, Nghĩa Phú, Mai Trai, Đạm Trai, Phù Sa, Phú Nhi, Di Bình cùng nhau tổ chức cuộc rước lớn. Rước thánh dọc sông Hồng vừa để tưởng nhớ công lao của đức thánh, vừa để nhắc nhở người đời sau nhớ về những truyền thuyết, tuy mang tính chất hoang đường nhưng ẩn sâu bên trong chính là khát vọng của cư dân nông nghiệp. Truyền thuyết kể rằng: Khi Tản Viên dựng hành cung ở đền Và, một hôm, trên đường vi hành qua thôn Di Bình ngài muốn tắm, vừa hay lúc đó có một cô gái cắt cỏ đi qua, Ngài nhờ cô xuống sông gánh nước. Cô gái bảo rằng “Đây là quang sọt chứ có phải thùng đựng nước”. Ngài bảo cô cứ xuống sẽ gánh được. Cô gái xuống sông Hồng, lấy nón vục nước đổ vào sọt thì quả nhiên sọt đựng được nước. Thấy lạ, cô bèn về báo dân làng, mọi người cho rằng đó là thánh hiện trần gian nên giết lợn tế thần. Khi dân làng tới nơi thì ngài đã đi rồi, chỉ còn thấy bóng uy nghi trên đỉnh núi Tản. Từ đó, thôn Di Bình lập đền Ngự Dội để thờ vọng và hàng năm, cứ vào sáng sớm ngày rằm tháng Giêng, họ lại tổ chức rước thánh từ đền Và qua sông Hồng sang đền Ngự Dội để tế thánh. Lại có truyền thuyết khác kể rằng: Khi Thánh Tản dừng chân ở đền Và, có một đám mây từ núi Tản Viên kéo xuống che nơi ngài đứng. Khi 39Số 31 (Tháng 3 - 2020) TÔN GIÁO - TÍN NGƯỠNG NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA ngài muốn tắm, thì xuất hiện đám mây đen và đi liền sau đó là trời mưa. Tắm xong, ngài bỗng thấy một cô thôn nữ đi nhổ cỏ ở bến sông, cô gái than: “Cứ mưa thế này biết bao giờ tôi mới nhổ cỏ cho xong”. Nghe thấy vậy, ngài bèn truyền dạy cách làm liềm, làm quang sọt và làm đòn để gánh cỏ. Từ đó, dân chúng hai bờ sông Hồng biết dùng liềm cắt cỏ và làm quang sọt Nhớ ơn ấy, nhân dân lập đền thờ để lưu sự tích. Bên cạnh lễ hội xuân, hội đền Và còn diễn ra vào rằm tháng Chín (mùa thu) gắn với việc dân các làng ra đoạn sông Tích đánh bắt cá tế thần. Lễ hội này còn gọi là hội đả ngư. Có nhiều cách lý giải khác nhau đối với truyền thuyết và các nghi thức trong lễ hội (như rước thánh, tế thần, đánh cá, làm quang sọt), nhưng về cơ bản, lễ hội đền Và gắn liền với yếu tố nước đó chính là khát vọng cầu nước, cầu mưa, cũng như việc đắp đê trị thủy. Nằm trong bối cảnh chung của châu thổ Bắc Bộ, lễ hội chùa Bối Khê là một minh chứng điển hình cho tín ngưỡng cầu mưa. Chùa Bối Khê, tên chữ là Đại Bi tự, xưa thuộc hai làng Bối Khê và Phúc Khê (hay còn gọi là Hồng Khê), huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam Thượng, nay là thôn Song Khê, xã Tam Hưng, huyện Thanh Oai, Hà Nội. Ngoài thờ Phật, chùa còn là nơi thờ Đức Thánh Bình An hay còn gọi là “Đức Thánh Bối”. Không giống với một số ngôi chùa ở châu thổ Bắc Bộ, người chăm lo việc đèn hương được gọi là ông từ, bà tự, ở chùa Bối Khê gọi là ông Thống. Ông cũng là người giữ vai trò quan trọng trong nghi lễ cầu mưa. Khi trời nắng mãi không mưa, mọi sự cầu cúng đều không linh nghiệm. Lúc này, người già trong làng cùng ông Thống làm lễ rước tượng thánh ra phơi nắng. Hành động này có vẻ như thiếu tôn trọng thánh thần, nhưng người dân nơi đây lý giải rằng: Đức Thánh ngồi trong khám kín ở hậu cung không biết trời nắng hạn, nên khi phơi nắng ngài sẽ cộng cảm với nỗi khổ của người nông dân mà cho mưa xuống. Nếu phơi tượng thánh mà vẫn không mưa thì ông Thống và dân làng bện 5 con rồng rơm tượng trưng cho 5 phương, miệng ngậm ống đu đủ cắm vào siêu nước. Ông Thống bắt quyết, đọc thần chú và la hét, nếu trời không mưa thì ông vung kiếm chặt đầu con rồng phương Bắc, bởi dân gian cho rằng: “Cơn đằng bắc chưa chắc đã mưa”. Ngoài nghi thức cầu mưa, cứ 5 năm, chùa Bối lại tổ chức hội chính một lần, diễn ra từ ngày mùng 10 đến ngày 13 tháng Giêng. Đây là lúc mọi người làm lễ tạ ơn hay cầu mong thần linh ban cho mùa màng tươi tốt, cuộc sống ấm no hạnh phúc. Nghi thức đầu tiên được thực hiện vào sáng sớm ngày 11. Các cụ trong ban khánh tiết làm lễ rước nước từ thôn Bùi Xá về chùa để làm lễ “Mộc dục”. Tục rước nước này gắn liền với câu chuyện Đức Thánh Bối khi còn nhỏ đi chăn trâu, cắt cỏ về thường tắm ở giếng làng Bùi Xá. Chùa Bối và truyền thuyết liên quan đến Đức Thánh Bối là câu chuyện mang dáng dấp chung của những truyền thuyết vùng châu thổ Bắc Bộ như truyền thuyết về Phù Đổng Thiên Vương, Thạch Sanh Tuy nhiên, các chi tiết khác như: Đức Thánh chăn trâu về tắm tại giếng làng Bùi Xá, người đã soạn ra kinh đảo vũ cầu mưa cho dân chúng trong vùng,... đã tạo nên vùng văn hoá - tín ngưỡng riêng. Trước đây, sau khi rước lễ vào chùa cúng Phật, các thôn thuộc tổng Bối còn có tục thi đốt pháo. Tiếng pháo nổ rền vang giống như tiếng sấm làm cho âm - dương giao hòa, vạn vật sinh sôi, phát triển, báo hiệu một năm mới mưa thuận gió hòa. 3. Tín ngưỡng cầu nước, cầu mưa vùng trung châu thổ sông Hồng 3.1. Tín ngưỡng cầu nước, cầu mưa khu vực Thăng Long - Hà Nội Thăng Long - Hà Nội, nằm ở giữa vùng châu thổ, là nơi hội tụ, kết tinh và lan toả văn hóa. Các tên gọi về địa danh như Thanh Trì, các truyền thuyết về thần Long Đỗ, thái tử Linh Lang, Hoàng Phúc Chung,... đã phản ánh rõ nét về tín ngưỡng cầu nước, cầu mưa ở khu vực này. Truyền thuyết kể rằng, một cung nữ ở triều Lý, khi ra hồ Thủ Lệ tắm, bị rắn quấn rồi mang thai. Một thời gian sau, bà sinh hạ được một cậu bé tư chất thông minh hơn người. Khi lớn lên, chàng trai này theo Lý Thường Kiệt đánh giặc Tống, lập nhiều chiến công, khi Số 31 (Tháng 3 - 2020)40 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA ngài mất thì hoá thành giao long bò xuống hồ Thủ Lệ, đó là Linh Lang đại vương. Hàng năm, cứ đến ngày 11 tháng Hai âm lịch, dân trong vùng lại tổ chức lễ hội để tôn vinh công lao của đức thánh. Lễ hội này còn là sự quy tụ của cư dân vùng “Thập tam trại” thuộc ngoại vi kinh đô Thăng Long xưa như: Ngọc Hà, Đại Yên, Cống Vị, Liễu Giai, Giảng Võ, Hữu Tiệp, Ngọc Khánh, Thủ Lệ, Vạn Phúc, Kim Mã, Vĩnh Phúc, Xuân Biểu, Cống Yên. Hơn nữa, tất cả các làng trên đều thờ chung một vị thành hoàng đó là Hoàng Phúc Chung, dân gian quen gọi là ông Hoàng Lệ Mật. Vị thần này có công chém giao long ở sông Thiên Đức (tức sông Đuống ngày nay). Từ huyền tích đến lễ hội đã cho thấy tín ngưỡng cầu nước, cầu mưa tuy cùng chung nguồn gốc nhưng mỗi lễ hội, mỗi lệ tục của mỗi làng lại được diễn đạt theo một cách khác nhau. Chính sự khác nhau đó đã tạo nên một lưỡng hợp vừa cầu mưa đối với Đức Thánh Linh Lang và vừa chống lụt đối với vị Thành hoàng làng của khu vực “Thập tam trại”. Lễ hội được tổ chức nhằm mục đích cố kết cộng đồng bền chặt, tạo một niềm tin tín ngưỡng, một sức sống mới cho cư dân sau những ngày lao động vất vả mệt nhọc. Trong thời gian này, con người gửi gắm những mong muốn của mình đối với thần linh. 3.2. Tín ngưỡng cầu nước, cầu mưa vùng Kinh Bắc Lễ hội dân gian ở châu thổ Bắc Bộ thường diễn ra vào hai mùa Xuân - Thu. Theo các nhà nghiên cứu, đây là lúc nông nhàn và là khoảng thời gian thích hợp nhất để diễn ra các nghi lễ mang tính cộng đồng. Mùa xuân còn là thời gian chuyển giao thời tiết từ lạnh sang nóng, từ âm sang dương, là thời điểm giao hoà giữa trời và đất, là mùa sinh sôi, phát triển của muôn loài Theo nông lịch của người Việt ở châu thổ sông Hồng, một năm có hai vụ: vụ chiêm và vụ mùa. Vụ chiêm bắt đầu từ tháng Giêng đến tháng Năm, còn vụ mùa vào khoảng tháng Sáu đến tháng Mười âm lịch. Vì vậy mà dân gian có câu: “Lúa chiêm lấp ló đầu bờ, Hễ nghe sấm động phất cờ mà lên”. Có nghĩa là vào khoảng tháng Tư âm lịch, người nông dân chờ nghe tiếng sấm để cho cây lúa tốt tươi, sai bông trĩu hạt. Điều này phù hợp với lễ hội cầu mưa diễn ra vào tháng Tư ở vùng đất cổ Luy Lâu. Người Việt làm nông nghiệp lúa nước nên yếu tố mùa vụ phụ thuộc chủ yếu vào điều kiện tự nhiên. Vì vậy, họ cũng có những tín ngưỡng chung mang tính phổ quát của cư dân nông nghiệp là tín ngưỡng đa thần, vạn vật hữu linh. Những hiện tượng như mây, mưa, sấm chớp được thần thánh hóa và gắn liền với nó là tục thờ mặt trời, thờ đá, thờ nước, mà hệ thống thờ “Tứ Pháp” ở vùng Kinh Bắc mang tính đặc trưng. Theo các nhà nghiên cứu, “sự ra đời của loại hình tín ngưỡng này gắn với câu chuyện về sự thai sinh gián tiếp của Phật Mẫu Man Nương với sư Khâu Đà La - một nhà sư Ấn Độ” [2]. Đây được coi là biểu tượng cho quá trình hỗn dung văn hóa, giữa tín ngưỡng bản địa với tôn giáo ngoại lai, mà ở đây là Phật giáo. Các hiện tượng tự nhiên như mây, mưa, sấm, chớp tương ứng với Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện là bốn người con của Phật Mẫu Man Nương được thờ tại các chùa: Thiền Định, Thành Đạo, Phi Tương, Phương Quan. Tục thờ Tứ Pháp không chỉ có ở vùng Dâu mà nó lan toả ra cả một vùng rộng lớn như Hà Tây, Hà Nội, Hưng Yên, Hải Dương “Dù ai buôn đâu bán đâu, Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về. Dù ai buôn bán trăm nghề, Nhớ ngày mùng 8 thì về hội Dâu” Ngày chính hội chùa Dâu là ngày mùng 8 tháng Tư âm lịch hàng năm, nhưng từ ngày mùng 7 nhân dân đã về chùa Dâu làm lễ “Hạ tòa phong áo Phật” - lễ này còn được gọi là lễ “Mộc dục”. Sáng ngày mùng 8 diễn ra đám rước của các làng thờ Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện từ các chùa Thành Đạo, Phi Tương và Phương Quan về công đồng tại chùa Dâu - nơi thờ Pháp Vân và Phật Mẫu Man Nương. Khi đám rước về đến chùa Dâu thì diễn ra trò “Mẹ đuổi con” và trò cướp nước. Đây là nghi lễ cầu đảo mang tính đặc trưng của vùng đất cổ Luy Lâu. Trong nghi lễ này, kiệu Pháp Vũ - thần 41Số 31 (Tháng 3 - 2020) TÔN GIÁO - TÍN NGƯỠNG NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA mưa bao giờ cũng đi trước. Cho đến thời điểm hiện nay, tuy nghi lễ cầu đảo này đã bị mai một nhưng cư dân vùng Dâu vẫn quan niệm, nếu tổ chức đám rước càng lớn, càng trang trọng bao nhiêu, thì các vị thần Mây, Mưa, Sấm, Chớp sẽ phù hộ cho họ mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Thực chất hội Dâu là lễ hội của 12 làng: Khương Tự, Đại Tự, Thanh Tương, Thanh Hoài, Đông Cốc, Trà Lâm, Tư Thế, Văn Quang, Phương Quang, Công Hà và Mãn Xá, thuộc tổng Dâu và hiện nay nằm trên địa phận của 3 xã Thanh Khương, Trí Quả, Hà Mãn huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Lễ hội Tứ Pháp về cơ bản là lễ hội nhằm giao hiếu, kết chạ giữa các làng xã cùng chung mục đích cầu nguồn nước, chống lại thiên tai, địch họa, của người nông dân châu thổ Bắc bộ xưa” [3, tr.16]. Ai cũng hiểu rằng, sau sự xuất hiện của những đám mây vần vũ, những tiếng sấm rền vang, những tia chớp sẽ là những cơn mưa mang lại nguồn nước, nhưng nước cũng là hiểm họa đối với cuộc sống của con người Vì thế, chính bản thân người Việt trong tín ngưỡng cầu nước cũng thể hiện ước vọng khống chế nguồn nước. Thể hiện rõ nét là tín ngưỡng thờ Đức Thánh Tam Giang vùng ngã ba Xà với hai lễ hội tiêu biểu: Lễ hội làng Mai với tục bơi chải và lễ hội Vật cầu làng Vân. Châu thổ Bắc Bộ có rất nhiều địa danh liên quan đến ngã ba sông như: Ngã ba Hàng, ngã ba Hạc, ngã ba Xà... Theo tư duy dân dã, ngã ba được coi là nơi cung cấp nguồn nước, nguồn sinh khí cho muôn loài. Lễ hội bơi chải làng Mai thường mở hội lớn vào những năm được mùa, phong đăng hòa cốc... Lễ hội tổ chức 2 lần vào mùa xuân, lần thứ nhất là ngày 2 tháng Hai với nghi lễ rước nước và lần thứ hai là ngày mùng 10 tháng Ba âm lịch hàng năm. Nhưng chỉ trong hội ngày mùng 10 tháng Ba, làng Mai mới tổ chức bơi chải và chỉ trong hội bơi chải này mới có cuộc rước thánh từ nghè Ngũ Giáp ra ngã ba Xà làm lễ “Trình thủy mã”, đây chính là một trong những nghi thức gắn với tục thờ thủy thần. Thánh Tam Giang là tên gọi khác của hai vị thần Trương Hống và Trương Hát, mà ở đây, các tên Hống, Hát theo tiếng Việt cổ cũng có nghĩa là “sông”. Tương truyền rằng: Ở vùng Vân Mẫu, có người đàn bà không chồng, một hôm ra tắm sông, bà trông thấy một con rồng cuộn khúc, bỗng trong mình cảm động mà thụ thai. Một thời gian sau, bà sinh được một cái bọc có năm trứng, nở thành năm người con, bốn trai, một gái, bà đặt tên là Trương Hống, Trương Hát, Trương Lừng, Trương Lẫy và người con gái tên là Đạm Nương. Khi quân Lương xâm lược nước ta, anh em họ Trương theo Triệu Quang Phục đánh giặc. Khi Lý Nam Đế mất, Lý Phật Tử chiếm ngôi và giả hòa hoãn với Triệu Quang Phục, bốn ông can ngăn không được bèn treo ấn từ quan. Triệu Quang Phục mất, Lý Phật Tử triệu các ông ra làm quan nhưng các ông đã từ chối. Bị bức bách nên họ đã đóng thuyền xuôi dòng sông Cầu, đến ngã ba Xà đục thuyền cho nước tràn vào và đã hóa ở đó. Huyền tích là như vậy, thần linh sông Cầu sinh ra từ nước và hóa cũng trong nước. Từ hình ảnh thủy thần cho đến hình ảnh đánh giặc cứu nước, Đức Thánh Tam Giang đã trở thành tín ngưỡng không thể thiếu của người dân vùng đất cổ Kinh Bắc nói chung và của cư dân lưu vực sông Cầu nói riêng. Theo dòng chảy của con sông Cầu, huyền tích này trôi xuống vùng Hà Nam, Thái Bình thì biến tướng trở thành câu chuyện về ông Cộc, ông Dài, sự tích đền Đồng Bằng Những vị thần này đều là hóa thân của rắn - một trong những thế lực làm chủ nguồn nước. Hội bơi chải không chỉ thể hiện sức mạnh của thanh niên trai tráng, sự khéo léo của những cư dân sống gần sông nước mà còn là để cầu nước, cầu Đức Thánh Tam Giang ban phúc lành trong sản xuất nông nghiệp, nghề sông nước. Cùng thờ Thánh Tam Giang nhưng lễ hội làng Vân, xã Vân Hà, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang lại mang ý nghĩa khác - đó là tục cầu nắng. Nghi lễ cầu nắng thường được thực hiện theo hai hình thức phổ biến là cầu nắng gián tiếp thông qua những vật tượng trưng cho mặt trời và cầu nắng trực tiếp thông qua việc thờ cúng mặt trời. Nhiều nhà nghiên cứu cho Số 31 (Tháng 3 - 2020)42 NGHIÊN CỨUVĂ N HÓA rằng quả cầu, quả phết là biểu tượng của mặt trời, do đó cướp cầu, đánh phết trong ngày hội là nghi lễ cầu nắng. Tuy nhiên, phụ thuộc vào thời điểm diễn ra lễ hội mà các nghi lễ sẽ mang ý nghĩa cầu nắng hay cầu mưa. Lễ hội với tục vật cầu diễn ra để cầu mong một năm mới mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, nhân dân no ấm. Hội vật cầu gắn liền với tích truyện: Khi mẹ mất, anh em Trương Hống, Trương Hát cắt cử nhau ra trông mộ mẹ. Một đêm trời mưa gió, Hống và Hát ra thăm mộ mẹ gặp lũ quỷ chặn đường, các ông đánh nhau với chú