Đề tài Chính sách tài khóa và sự phối hợp với chính sách tiền tệ - Một số bài học từ giai đoạn 2006-2010

Các chính phủ thường sử dụng chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ -tín dụng nhằm mục tiêu ổn định kinh tế. hệ thống các chính sách kinh tế vĩ mô tác động tới tổng cầu được trỡnh bày trong khung dưới đây

pdf15 trang | Chia sẻ: ttlbattu | Lượt xem: 2289 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Chính sách tài khóa và sự phối hợp với chính sách tiền tệ - Một số bài học từ giai đoạn 2006-2010, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 chính sách tài khóa và sự phối hợp với chính sách tiền tệ - một số bài học từ giai đoạn 2006-2010 Ts. Vũ Đình Ánh Một vài nột lý luận các chính phủ thường sử dụng chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ - tín dụng nhằm mục tiêu ổn định kinh tế. hệ thống các chính sách kinh tế vĩ mô tác động tới tổng cầu được trỡnh bày trong khung dưới đây: tăng tổng cầu 1. nới lỏng chính sách tài khóa gồm: (i) tăng chi tiêu cp; (ii) giảm thuế suất; (iii) tăng chi chuyển nhượng (chi không cần hàng hóa hay dịch vụ đáp lại như chi lương hưu, trợ cấp, bảo hiểm...) (tranfer payments). 2. nới lỏng chính sách tiền tệ gồm: (i) mua chứng khoán trên thị trường mở; (ii) giảm những yêu cầu về dự trữ; (iii) giảm lói suất chiết khấu. 3. khuyến khích người tiêu dùng và nhà kinh doanh tin và tăng chi của khu vực tư nhân. 4. tăng tốc độ lưu thông tiền tệ hay giảm lói suất. 5. tăng kỳ vọng lạm phát (inflationary expectations). 6. tăng xk rũng gồm: (i) giảm nk; (ii) tăng xk. giảm tổng cầu 1. chính sách tài khóa thắt chặt: (i) giảm chi tiêu cp; (ii) tăng thuế suất; (iii) giảm chi chuyển nhượng. 2. chính sách tiền tệ thắt chặt: (i) bán chứng khoán ở thị trường mở; (ii) tăng các yêu cầu dự trữ; (iii) tăng lói suất chiết khấu. 3. giảm niềm tin của người tiêu dùng và dn nhằm hạ thấp chi tiêu khu vực tư nhân. 4. giảm tốc độ lưu thông tiền tệ hay tăng lói suất 5. giảm kỳ vọng lạm phỏt 6. giảm xk thuần: (i) tăng nk; (ii) giảm xk rừ ràng, khi chớnh phủ cho rằng tổng cầu ở mức quỏ thấp thỡ phải ỏp dụng chớnh sỏch tài khúa - tiền tệ nới lỏng để kích thích tổng cầu. ngược lại, nếu cho rằng tổng cầu quỏ cao thỡ chớnh phủ phải thực hiện chớnh sỏch thắt chặt tài khúa và tiền tệ. trong trường hợp tổng cầu vừa phải, về dài hạn, chính phủ nên chọn chính sách tài khúa thắt chặt và chính sách tiền tệ nới lỏng để khuyến khích đầu tư và tăng trưởng kinh tế. tuy vậy, chính sách tài khóa thắt chặt thường dẫn 2 đến cắt giảm đầu tư vào các công trỡnh cụng cộng (một phần trong chi tiờu của chớnh phủ). chớnh vỡ vậy, chớnh phủ phải cõn nhắc giữa lợi ớch của việc cắt giảm đầu tư nhà nước với lợi ích tăng đầu tư tư nhân do chính sách tiền tệ nới lỏng tạo ra. Thực trạng giai đoạn 2006-2010 giai đoạn 2006-2007, chính sách tài khóa – tiền tệ việt nam đều nới lỏng nhằm tập trung hoàn thành 2 nhiệm vụ cơ bản là ưu tiên tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô với gdp năm 2006 tăng 8,17%, năm 2007 tăng 8,48% và cpi tăng lần lượt 6,6% và 12,63% đi đôi với thặng dư cán cân vốn và tăng dự trữ ngoại tệ. tổng thu nsnn liên tục vượt dự toán, năm 2006 thực hiện thu được 350.482 tỷ đồng, tăng tới 47,5% so với dự toán và tương đương 36%gdp. đại đa số các khoản thu thuế đều vượt dự toán. thu từ dầu thô đạt 83.346 tỷ đồng, vượt tới 31% so với dự toán, chiếm 23,7% tổng thu nsnn và tổng thu từ hàng hóa xnk đạt 42.825 tỷ đồng, tuy chỉ vượt 7,06% so với dự toán, nhưng vẫn chiếm 12,2% tổng thu nsnn. tổng chi nsnn đạt 346.017 tỷ đồng, vượt tới 31,5% so với dự toán, tương đương 35,5%gdp (cao hơn hẳn so với mức bình quân giai đoạn 2001-2005 là 28,5%gdp). chi đtpt đạt 88.341 tỷ đồng, vượt 8,3% dự toán, chiếm 25,5% tổng chi nsnn. các con số tương ứng của chi thường xuyên là 180.069 tỷ đồng, vượt 5,8% và chiếm 52%. trừ chi cải cách tiền lương, tất cả các khoản chi ngân sách khác đều vượt dự toán. bội chi nsnn năm 2006 tiếp tục duy trì ở mức an toàn (0,9%gdp - bằng một nửa so với dự toán 1,8%gdp theo tiêu chuẩn quốc tế và xấp xỉ 5% theo tiêu chuẩn việt nam) được bù đắp chủ yếu bằng vay trong nước (73,8%) và vay nước ngoài (26,2%). tuy vậy, tỷ lệ bội chi nsnn theo tiêu chuẩn việt nam cao hơn mức bình quân 4,86%gdp giai đoạn 2001-2005. nợ nước ngoài và nợ chính phủ duy trì trong giới hạn đảm bảo an ninh tài chính. nsnn đủ khả năng chi trả nợ gốc (3,2%gdp) và chi trả nợ lãi (4,9% tổng chi thường xuyên) đúng hạn. năm 2006 thực hiện phát hành 48.613 tỷ đồng vay bù đắp bội chi nsnn. vay nợ của chính phủ góp phần phát triển thị trường tài chính theo thông lệ quốc tế, tuy nhiên, lãi suất trái phiếu chính phủ chưa trở thành lãi suất chuẩn trên thị trường, hơn nữa, tới 2/3 số vay phát hành mới trong nước là để trả nợ gốc và phát sinh những lo ngại về hiệu quả của các hoạt động tài chính phát sinh ngoài ngân sách như vay về cho vay lại theo cơ chế tín dụng ưu đãi. năm 2006, nhnn cơ bản không thay đổi chính sách tiền tệ so với năm 2005 với lãi suất cơ bản 8,25%, lãi suất tái cấp vốn 6,5% và lãi suất tái chiết khấu 4,5% đồng thời giữ nguyên tỷ lệ dự trữ bắt buộc 5,0-8,0% đối với tiền gửi dưới 3 12 tháng và 2% đối với tiền gửi 12-24 tháng. do tác động của tự do hóa lãi suất nên chính sách lãi suất của nhnn ngày càng giảm ảnh hưởng đối với các nhtm, trong khi nghiệp vụ thị trường mở (omo) chưa thực sự phát triển và hoàn thiện. nhằm góp phần kiềm chế lạm phát, chính sách tiền tệ có xu hướng thắt chặt, theo đó, tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán (m2) giảm từ 30% năm 2004 xuống 26% năm 2005 và còn 25% năm 2006, tốc độ tăng trưởng tín dụng cũng giảm từ 41% năm 2004 xuống 26% năm 2005 và 21% năm 2006. đồng việt nam chỉ mất giá 1% so với usd trong khi chênh lệch đáng kể trong tốc độ tăng cpi nên thực chất vnd lên giá so với usd theo tỷ giá thực. mặc dù nhnn đã điều chỉnh tăng biên độ tỷ giá hối đoái từ 0,25% lên 0,5% và đẩy mạnh mua usd từ các nhtm với mong muốn hạn chế sự tăng giá của vnd so với usd song do dư cung ngoại tệ tỷ giá danh nghĩa vnd/usd khó tăng lên. tình hình kinh tế – tài chính vĩ mô việt nam đã có những thay đổi quan trọng từ nửa đầu năm 2007, tác động trực tiếp tới thay đổi chiến lược trong phối hợp chính sách tài khoá và chính sách tiền. tăng trưởng kinh tế khả quan về mặt tốc độ, chất lượng tăng trưởng có thể bị bỏ qua, ít nhất là trong năm 2007 vì: (i) tốc độ tăng trưởng gdp cao trở thành yếu tố chính trị quan trọng của chính phủ mới trong khi các vấn đề khác như chống tham nhũng, lãng phí, bức xúc xã hội không hứa hẹn có tiến bộ rõ rệt; (ii) nếu 2007-2008 không đạt được tốc độ tăng gdp cao thì kế hoạch 2006-2010 khó hoàn thành1; (iii) các tổ chức quốc tế đều tin (và mong) việt nam sẽ tăng trưởng 8-8,5% năm 2007 như quyết tâm của chính phủ trước quốc hội; (iv) diễn biến kinh tế tài chính thế giới rất khó lường nên chính phủ việt nam muốn tận dụng cơ hội để tăng trưởng nhanh khi có thể. diễn biến giá cả lạm phát năm 2007 phức tạp, có xu hướng tăng nhanh do: (i) tác động giá cả quốc tế đến giá các mặt hàng chiến lược phải nhập khẩu hầu như toàn bộ như xăng dầu, phôi thép, nguyên liệu đầu vào của phần lớn các ngành công nghiệp chủ lực; (ii) thiên tai dịch bệnh bùng phát trong nông nghiệp làm giá lương thực thực phẩm tăng nhanh; (iii) điều hành cơ chế và chính sách quản lý giá lúng túng, thị trường nhiều mặt hàng thiết yếu bị buông lỏng quản lý cả về giá cả, chất lượng và vệ sinh an toàn; (iv) tác động của tăng trưởng kinh tế dựa vào tăng vốn đầu tư dẫn đến tăng trưởng nóng; (v) kỳ vọng về tăng trưởng và tăng thu nhập kích thích tiêu dùng cả hàng hoá thiết yếu cũng như lâu bền, cả 1 cần lưu ý là xu hướng tăng gdp của việt nam trong 3 kế hoạch 5 năm gần đây rất không đều. năm năm 1991- 1995, năm sau cao hơn năm trước, đạt đỉnh vào năm 1995 (9,54%), bình quân 8,2%/năm. giai đoạn 1996-2000, năm sau lại thấp hơn năm trước, xuống đáy vào năm 1999 (4,77%), bình quân 7%/năm. kế hoạch 2001-2005 lại lặp lại năm sau cao hơn năm trước, đến đỉnh năm 2005 (8,43%), bình quân 7,5%/năm. giai đoạn 2006-2010, nếu theo diễn biến như giai đoạn 1991-1995 và 2001-2005 thì triển vọng tăng trưởng kinh tế có thể tới 8,5%/năm (năm đầu tiên kh 1991-1995 gdp tăng 5,81%; kh 2001-2005 tăng 6,89%. ngược lại, nếu diễn biến như thời kỳ 1996-2000 (có tác động khủng hoảng khu vực và tâm lý lạc quan quá đà đi đôi với giảm tốc độ đổi mới cải cách) thì gdp 2006-2010 có thể chỉ tăng bình quân 6-6,5%/năm (năm đầu tiên kh 1996-2000 gdp tăng tới 9,34%). 4 dịch vụ thông thường cũng như cao cấp. cpi năm 2007 cao hơn kế hoạch (kế hoạch là cpi thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế) lên đến 8,5-9%. để đạt mục tiêu tăng trưởng cao, chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ đã nới lỏng rất mạnh trong năm 2007 bất chấp hậu quả gia tăng lạm phát. thu chi nsnn đến năm 2007 đều đạt và vượt kế hoạch năm như “truyền thống” hàng chục năm nay. thâm hụt nsnn vẫn trong giới hạn an toàn như cam kết với quốc hội (dưới 5%gdp) đi đôi với các chỉ số về nợ công trong giới hạn an toàn. vốn đầu tư từ nsnn vẫn vượt 4,9% so với dự toán mặc dù có tình trạng chậm giải ngân những tháng đầu năm (đã thành thông lệ) song lại dồn dập giải ngân vốn nsnn những tháng cuối năm cho kịp kế hoạch. hơn nữa, tăng tốc độ giải ngân vốn nsnn những tháng cuối năm đi đôi với chi cải cách tiền lương theo đúng lộ trình, khối lượng chi thường xuyên (vượt dự toán 9,3%) và chi trả nợ, viện trợ tăng gây áp lực tăng tốc độ lạm phát. thêm vào đó, kế hoạch vay nợ, kể cả phát hành trái phiếu và tín phiếu, của chính phủ chưa có sự phối hợp đồng bộ với sự phát triển của thị trường tiền tệ, thị trường tín dụng ngân hàng nên hạn chế vai trò kiểm soát lạm phát của chính sách tiền tệ. bên cạnh đó, vấn đề quản lý rủi ro trong sử dụng các nguồn thu ngoài nsnn như vay nợ trong nước và quốc tế về cho vay lại chưa được quan tâm đúng mức có thể dẫn đến rủi ro trong môi trường kinh tế tài chính vĩ mô. rất tiếc là chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ năm 2007 đã không có những điều chỉnh kịp thời trước những thay đổi của diễn biến kinh tế – tài chính vĩ mô việt nam. tăng trưởng kinh tế năm 2007 xấp xỉ mục tiêu kế hoạch là 8,5% - tốc độ tăng gdp cao nhất trong 10 năm qua trong xu hướng tăng kể từ khi tăng trưởng chạm đáy 4,77% năm 1999 do tác động của khủng hoảng tài chính khu vực. do diễn biến kinh tế tài chính thế giới rất khó lường nên chính phủ việt nam muốn tận dụng cơ hội để tăng trưởng nhanh khi có thể2. diễn biến giá cả lạm phát phức tạp, cpi năm 2007 lên tới 12,63% - mức cao nhất kể từ năm 1995 (nếu tính bình quân năm thì cpi tăng 8,3%) do nhiều nguyên nhân nhưng chủ yếu là do: (i) tác động giá cả quốc tế đến giá các mặt hàng chiến lược phải nhập khẩu hầu như toàn bộ như xăng dầu, phôi thép, nguyên liệu đầu vào của phần lớn các ngành công nghiệp chủ lực3; (ii) thiên tai dịch bệnh bùng phát trong nông nghiệp làm giá lương thực thực phẩm tăng nhanh; (iii) điều hành cơ chế và chính sách quản lý giá lúng túng, chưa thoát khỏi tư duy kế hoạch hóa tập trung; (iv) tác động của tăng trưởng kinh tế dựa vào tăng vốn đầu tư dẫn đến tăng trưởng nóng; (v) kỳ vọng về tăng trưởng và tăng 2 gdp hai năm 2006-2007 đều tăng trên 8% và kế hoạch 2008 là 9% trong khi mục tiêu đặt ra cho cả giai đoạn 2006-2010 chỉ có 7,5-8%/năm cho thấy chính phủ muốn “chớp cơ hội” tăng trưởng nhanh khi có thể. 3 cuối năm giá xăng a92 đã lên mức cao nhất từ trước đến nay là 13.000 đ/lít khi giá dầu thế giới gần 100 usd/thùng. 5 thu nhập kích thích tiêu dùng cả hàng hoá thiết yếu cũng như lâu bền, cả dịch vụ thông thường cũng như cao cấp. nguyên nhân quan trọng nhất là mất cân đối tiền - hàng do các biện pháp tăng cung tiền trước áp lực của dòng ngoại tệ đổ vào quá lớn. do các nguyên nhân gây ra cpi cao của năm 2007 vẫn chuyển toàn bộ sang năm 2008 nên cpi năm 2008 cũng cao hơn kế hoạch (kế hoạch ban đầu là cpi thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế). thâm hụt nsnn năm 2007 vẫn trong giới hạn an toàn như cam kết với quốc hội (dưới 5%gdp) và được bù đắp chủ yếu bằng nguồn vay trong nước (trên 3/4) đi đôi với các chỉ số về nợ công trong giới hạn an toàn. đây là những nhân tố kích thích thị trường trái phiếu chính phủ phát triển, đặc biệt là khi thị trường tpcp thứ cấp được đẩy mạnh giai đoạn 2008-20104. trọng tâm chính sách vĩ mô năm 2008 là kiểm soát luồng vốn vào thông qua các biện pháp về tỷ giá hối đoái, kiểm soát vốn, trung hòa ngoại tệ, chi tiêu chính phủ để cải thiện khả năng hấp thụ nguồn vốn nước ngoài, giảm áp lực dư thừa ngoại tệ, đặc biệt là dư thừa usd. cả năm 2007 và từ đầu năm 2008, nhnn vẫn tiếp tục duy trì lãi suất chiết khấu (4,5%), lãi suất tái cấp vốn (6,25%) và lãi suất cơ bản (8,25%) ở mức độ ổn định như năm 2005-2006. từ 28/5/2007, nhnn tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm giảm bớt lượng tiền cung ứng, kiềm chế lạm phát. trước áp lực lạm phát tăng cao và không thể duy trì lãi suất thực dương nhưng nhnn vẫn không điều chỉnh tăng các loại lãi suất tương ứng hay/và tăng cường kiểm soát tín dụng chặt chẽ hơn, nhất là đối với tín dụng cho khu vực kinh tế ngoài nhà nước, cho vay kinh doanh chứng khoán và kinh doanh bất động sản5 do: (i) sức ép thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tốc độ cao buộc phải nới lỏng chính sách tiền tệ; (ii) hiệu lực điều tiết thị trường của các công cụ lãi suất của nhnn không cao; (iii) vnd lên giá tương đối so với usd trong khi lãi suất cơ bản usd liên tục giảm. tuy vậy, áp lực cạnh tranh buộc lãi suất cho vay và huy động tiền gửi cả nội tệ của các nhtmcp có xu hướng tăng (đối với ngoại tệ sẽ giảm) và các nhtmcp bước vào cuộc chạy đua tăng lãi suất nội tệ trong năm 2008, một mặt nhằm nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường, mặt khác nhằm tăng qui mô vốn khả dụng và tổng tài sản cho tương ứng với qui mô vốn sở hữu đã và đang tăng mạnh với sự hỗ trợ của khoản lợi nhuận tương đối khả quan thu được bắt đầu từ năm 2006 đến nay, hơn nữa, tự do hóa lãi suất không cho phép duy trì lãi suất thực âm trong thời gian dài. 4 tốc độ lạm phát cao không chỉ ảnh hưởng tiêu cực đến tầng lớp có thu nhập thấp và trung bình mà còn giúp giảm gánh nặng vay nợ bằng tiền đồng của chính phủ, kể cả vay đầu tư và vay bù đắp thâm hụt ngân sách. vì vậy, giảm lạm phát có thể không phải là ưu tiên trước mắt của các nhà hoạch định chính sách từ góc độ áp lực trả nợ chính phủ song lạm phát cao có thể tác động tiêu cực tới mở rộng thị trường tpcp sơ cấp và hạn chế thị trường thứ cấp. 5 tổng dư nợ tín dụng cho nền kinh tế năm 2007 tăng tới 37,8% - cao hơn nhiều so với kế hoạch 21-22% và tổng phương tiện thanh toán cũng tăng tới 37% (con số này năm 2006 là 34% và năm 2005 là gần 30%). 6 quan điểm xuyên suốt 2007 của chính phủ và nhnn là cố định lãi suất và tỷ giá nên mặc dù nửa đầu năm tỷ giá hối đoái vnd/usd có xu hướng tăng6 do áp lực tốc độ lạm phát của việt nam cao hơn hẳn của mỹ và usd lên giá so với các ngoại tệ chủ chốt khác nhờ kinh tế mỹ tăng trưởng tốt với các chỉ số lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp được cải thiện, song nửa cuối năm, khi usd mất giá nghiêm trọng, kinh tế mỹ lâm vào khủng hoảng tín dụng bất động sản, giá dầu thô tăng vọt, … thì do việt nam thực hiện “neo” tỷ giá vào usd nên giá usd hầu như không thay đổi (giảm 0,03%). việt nam bước vào năm 2008 đứng trước sự lựa chọn quyết định: tiếp tục thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bất chấp lạm phát hay ưu tiên kiềm chế lạm phát. phương án thứ nhất được lựa chọn từ quí i năm 2008, thực ra là từ quí iv năm 2007 với tham vọng tăng trưởng kinh tế tới 9% và lạm phát “thấp hơn tăng trưởng”, nói cách khác ở mức một con số. nhưng thực tế diễn ra không như những gỡ chỳng ta mong muốn. lạm phỏt liờn tục leo thang và vượt ra khỏi mọi qui luật đó hỡnh thành từ hàng chục năm nay buộc việt nam phải điều chỉnh chính sách từ ưu tiên tăng trưởng sang ưu tiên kiềm chế lạm phát. chỉ sau 6 tháng, tổng cục thống kờ cụng bố chỉ số cpi đó lờn tới 26,8% so với thỏng 6 năm 2007 và 18,44% so với cuối năm 2007, riêng giá nhóm hàng lương thực tăng tương ứng tới 74,3% và gần 60% - phá vỡ mọi dự tính của chúng ta về kiểm soát lạm phát ổn định kinh tế vĩ mô và cũn nghiờm trọng hơn khi việt nam cơ bản vẫn là nước nông nghiệp với nông dân vẫn chiếm trên 60% dân số và lực lượng lao động. giá cả tăng mạnh không chỉ trong dịp tết mậu tý mà cũn cả trong cỏc thỏng sau tết – trỏi hẳn với qui luật vận động của giá cả những năm gần đây. sau hơn 1 thập kỷ dường như “bóng ma” lạm phát đang quay trở lại đe dọa những thành quả kinh tế xó hội mà chỳng ta đó đạt được. bên cạnh đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng bắt đầu suy giảm mặc dù tỷ lệ đầu tư tiếp tục ở mức cao, gdp cả năm chỉ tăng 6,23% - thấp hơn mục tiờu 6,5- 7%, xuất hiện trở lại những “cơn sốt ảo” usd, vàng, gạo, thép, vật liệu xây dựng, v.v. thâm hụt thương mại cũng tăng vọt cho dù kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh, sau khi vn-index qua đỉnh điểm 1.173 điểm vào 11/3/2007, thị trường chứng khoán hầu như chỉ đi xuống và thiết lập các đáy mới chỉ cũn bằng hơn ¼ đỉnh cao nhất – trên dưới 300 điểm vào cuối năm 2008, hastc-index cũng rơi trở lại mốc xuất phát điểm ban đầu, thị trường bất động sản “đóng băng” ở mức giá cao “ngất ngưởng” sau khi đó ngốn hàng triệu tỷ đồng vốn trong cũng như từ nước ngoài. nền kinh tế việt nam đến cuối tháng 5 đầu tháng 6 năm 2008 đó mấp mộ bờn bờ vực khủng hoảng. lạm phát cao năm 2007-2008 do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó hai nguyên nhân cơ bản là: 6 ngày 14/6/2007, tỷ giá hối đoái là 16.125 vnd/usd và đến 6.9.2007 lên cao nhất là 16.310 vnd/usd. 7 (i) các biện pháp kích cầu đầu tư nhằm vượt qua khủng hoảng tài chính khu vực 1997-1998 khởi nguồn từ đầu những năm 2000 và nỗ lực đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế lên cao đó làm cho hiệu quả đầu tư giảm sút nghiêm trọng, icor tăng lên đến trên 5 vào năm 2007, thậm chí có thể xấp xỉ 7 vào năm 2008, đi đôi với mở rộng tín dụng ngân hàng quá mức và có phần quá dễ dói tương tự như cho vay dưới chuẩn của mỹ từ nửa cuối năm 2007. ngoài ra, thâm hụt nsnn “triền miên” ở mức 5%gdp theo chuẩn việt nam cũng khoét sâu thêm cái hố “lạm phát”; (ii) theo bỏo cỏo của bộ tài chớnh, mặc dự chỳng ta tuyờn bố thắt chặt tài khoỏ để gúp phần kiềm chế lạm phỏt song thực tế năm 2008, chi nsnn vẫn lờn tới 549.784 tỷ đồng, vượt 37,8% dự toán, tương đương 37%gdp cũn tổng thu nsnn cũng tới 36,8%gdp, vượt 70% dự toán, tương đương 548.529 tỷ đồng. (iii) lạm phát mang tính toàn cầu trong nửa đầu năm 2008 với giá cả nhiều hàng hóa chiến lược tăng vọt, điển hỡnh như giá gạo lên tới trên 1.000 usd/tấn vào tháng 5 năm 2008 – khủng hoảng lương thực toàn cầu đó bỏo động đỏ hay giá dầu thô lên đỉnh 147 usd/thùng vào tháng 7/2008, giá sắt thép, phân bón, thức ăn chăn nuôi,… cũng liên tục lập các kỷ lục mới và tất yếu tác động tức thỡ tới giỏ cả của một nền kinh tế cú độ mở lớn như việt nam với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tới trên 150%gdp. giá xăng ron 92 tại việt nam lập kỷ lục tăng thêm tới 4.500 vnd/lít lên 19.000 vnd/lít vào 21/7/2008. bên cạnh đó, do những hạn chế trong dự báo thị trường nên việt nam lại phải chịu đựng thêm những thua thiệt không đáng có trước biến động trên thị trường quốc tế, chẳng hạn như việc dừng xuất khẩu gạo trong khi giá gạo xuất khẩu tăng cao, sau đó lại phải hỗ trợ để xuất khẩu gạo khi giá gạo đó xuống thấp, ồ ạt mua phụi thộp giỏ cao dẫn đến tồn đọng khối lượng lớn trong khi giá thép trên thị trường quốc tế đó giảm rất mạnh, hay như liên tục giảm giá xăng dầu một cách “nhỏ giọt” tới 9 lần trong vũng hơn 4 tháng nhưng cũng khụng theo kịp sự mất giỏ tới 2/3 của giỏ dầu thụ quốc tế, v.v. thực ra dấu hiệu lạm phát cao đó bắt đầu xuất hiện từ tháng 7/2007 và gần như ngay lập tức chính phủ đó quan tõm và cú biện phỏp đối phó với các chỉ thị số 18/2007/ct-ttg ngày 1/8/2007 về một số biện pháp cấp bách kiềm chế tốc độ tăng giá thị trường và chỉ thị số 23/2007/ct-ttg ngày 31/10/2007 v/v tăng cường thực hiện các giải pháp điều hành giá cả, bỡnh ổn thị trường trong những tháng cuối năm 2007 và phục vụ tết nguyên đán mậu tý 2008, rồi đến chỉ thị số 05/2007/ct-btc ngày 26/12/2007 v/v bỡnh ổn giỏ trong dịp tết nguyờn đán mậu tý 2008 và chỉ thị số 319/ttg-ktth ngày 3/3/2008 v/v tăng cường các biện pháp kiềm chế lạm phát năm 2008. tuy nhiên, do chưa nhận định đúng về mức độ nghiêm trọng của vấn đề lạm phát nên các biện pháp đề ra đều chưa đúng hướng, chưa
Tài liệu liên quan