Hệ thống pháp luật singapore

Singapore là quốc đảo ở Đông Nam Á với diện tích 639,1 km2 và thủ đô là Thành phố Singapore. Dân số Singapore vào khoảng 4 triệu người với 77% là người gốc Hoa, 14% là người Mã Lai, 8% là người Ấn Độ và 1% là người lai Âu Á và người có nguồn gốc khác

doc34 trang | Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 2226 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Hệ thống pháp luật singapore, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỆ THỐNG PHÁP LUẬT SINGAPORE I. Giới thiệu về Singapore Singapore là quốc đảo ở Đông Nam Á với diện tích 639,1 km2 và thủ đô là Thành phố Singapore. Dân số Singapore vào khoảng 4 triệu người với 77% là người gốc Hoa, 14% là người Mã Lai, 8% là người Ấn Độ và 1% là người lai Âu Á và người có nguồn gốc khác. Có bốn ngôn ngữ chính thức được sử dụng ở Singapore: tiếng Mã lai, Quan Thoại, Tamil (ngôn ngữ của vùng Nam Ấn và Sri Lanka) và tiếng Anh. Tiếng Anh là ngôn ngữ dùng trong kinh doanh và hành chính, và đuợc sử dụng rộng rãi. Hầu hết mọi người dân Singapore đều nói được hai ngôn ngữ, tiếng mẹ đẻ và tiếng Anh. Tiếng Mã Lai là ngôn ngữ quốc gia. Các tôn giáo chính ở Singapore là Hồi giáo, Lão giáo, Phật giáo, Thiên chúa giáo, Ấn Độ giáo, Độc Thần Giáo (còn gọi là đạo Sikh) và Do Thái Giáo. 1. Sơ lược lịch sử Singapore Tài liệu cổ đầu tiên bằng tiếng Trung Quốc cách đây 3 thế kỷ đã đề cập đến Singapore và mô tả nơi đây như là một "Pu-luo-chung" ("hòn đảo ở tận cùng bán đảo"). Vào thời đó, ít người biết đến lịch sử của hòn đảo này ngoài tài liệu mô tả sơ sài đã gây nên ấn tượng sai lầm về một quá khứ sôi động của Singapore. Trước thế kỷ thứ XIV, Singapore được biết đến dưới tên gọi là Temasek ("Thành phố Biển") và là một bộ phận của đế quốc hùng mạnh Sri Vijayan. Vào thế kỷ thứ XIV, hòn đảo nhỏ nhưng có vị trí chiến lược này được mang cái tên mới là "Singa Pura" ("Thành phố Sư tử"). Theo truyền thuyết, khi đặt chân lên hòn đảo, vị Hoàng tử Palembang của Đế quốc Sri Vijayan đã trông thấy một con thú mà Ngài nhầm tưởng là con sư tử nên Singapore hiện đại ngày nay có tên gọi là Thành phố Sư tử. Đến năm 1819 Singapore thuộc sở hữu của Quốc vương Johore (nay là một bang của Malaysia). Năm 1824 theo Hiệp định hữu nghị và hợp tác giữa Anh và Johore, Singapore được nhượng cho Anh. Nhà cầm quyền đầu tiên của Singapore - Ngài Stamford Raffles đã thiết lập Singapore trở thành một trung tâm thương mại. Chính sách mậu dịch tự do đã thu hút các thương nhân đến từ các quốc gia trong khu vực châu Á và từ các nơi xa xôi như Hoa Kỳ và Trung Đông. Chỉ 5 năm sau khi sáng lập đất nước Singapore hiện đại, dân số của Singapore với vỏn vẹn vài trăm ngư dân Malay và người Hoa đã tăng lên đến 10.000 người. Vào năm 1832, Singapore trở thành chính quyền trung ương của những thuộc địa ở các eo biển Penang, Malacca và Singapore. Sự kiện khánh thành Kênh đào Suez vào năm 1869 cùng với sự xuất hiện của máy điện báo và tàu hơi nước đã nâng tầm quan trọng của Singapore như là một trung tâm phát triển thương mại giữa các quốc gia phương Đông và phương Tây. Singapore trở thành hiện trường của những trận chiến quan trọng trong Thế chiến thứ II và được xem như là pháo đài bất khả xâm phạm nhưng đã bị quân đội Nhật chiếm đóng vào năm 1942. Sau Thế chiến thứ II, Sinagpore vẫn là thuộc địa của Vương quốc Anh. Sự lớn mạnh của chủ nghĩa dân tộc đã giúp Singapore giành được quyền tự trị vào năm 1959, thành một quốc gia độc lập trong Khối thịnh vượng chung. Trong những năm 1963 – 1965 Singapore là một bang trong Liên bang Malaysia. Do những khác biệt lớn về chính trị, Singapore tách ra khỏi Liên bang và từ ngày 9 tháng 8 năm 1965 trở thành một nước Cộng hoà độc lập. Singapore theo Hiến pháp 1963 là nước Cộng hoà nghị viện với chế độ chính trị cực quyền. Từ lúc tuyên bố độc lập đến nay, Đảng Hành động Nhân dân liên tục cầm quyền. Có khoảng 20 đảng phái khác được đăng ký chính thức ở Singapore nhưng các đảng phái này không có vai trò đáng kể trong đời sống chính trị của đất nước. 2. Hệ thống các cơ quan nhà nước Singapore Quyền lập pháp ở Singapore thuộc về Nghị viện với 83 nghị sỹ và Tổng thống. Nghị viện được bầu bằng hình thức phổ thông trực tiếp với nhiệm kỳ 5 năm. Nghị viện chỉ có thể được giải tán bởi Tổng thống theo đề nghị của Thủ tướng. Ngoài thủ tục bầu cử Nghị sỹ thông thường còn có thủ tục bầu cử theo nhóm đại diện cho nhóm gồm từ ba đến sáu người trong đó bắt buộc phải có một đại diện dân tộc thiểu số, trước hết là người Malay. Từ năm 1990 Nghị viện Singapore có thêm 10 Nghị sỹ đề cử với nhiệm kỳ 2 năm được Chủ tịch Nghị viện đề cử từ những công dân có nhiều công lao, đóng góp với đất nước và được Tổng thống thông qua. Các Nghị sỹ đề cử này có đầy đủ các quyền, đặc quyền và nghĩa vụ của Nghị sỹ trừ quyền bỏ phiếu sửa đổi Hiến pháp, tuyên bố bất tín nhiệm và thông qua ngân sách. Ở Singapore cũng có quy định về Nghị sỹ không qua bầu cử cho phép bốn đại diện của các đảng đối lập có số phiếu cao nhất qua bầu cử Nghị viện (nhưng không đủ điều kiện để có số ghế trong Nghị viện) trở thành Nghị sỹ. Nghị viện Singapore họp một năm 2 kỳ, ở kỳ họp thứ hai xem xét thông qua ngân sách quốc gia trong năm tới. Các dự thảo luật được thảo luận ba lần và được thông qua bằng bỏ phiếu đa số thông thường (quá ½ số Nghị sỹ). Dự thảo luật được Nghị viện thông qua có hiệu lực khi được Tổng thống xem xét, công bố. Các dự thảo luật còn được xem xét bởi Hội đồng Tổng thống về quyền của người thiểu số về tính đảm bảo nguyên tắc bình đẳng đối với các cộng đồng thiểu số và tôn giáo, về các đảm bảo Hiến pháp nói chung. Hội đồng này gồm 21 thành viên do Tổng thống chỉ định theo đề nghị của Chính phủ (10 thành viên được chỉ định suốt đời, 10 thành viên và Chủ tịch Hội đồng có nhiệm kỳ 3 năm). Nếu Hội đồng không chấp nhận, dự thảo Luật phải được thay đổi hay phải được Nghị viện thông qua với đa số tuyệt đối (quá 2/3 số Nghị sỹ). Thẩm quyền của Hội đồng không gồm việc xem xét các dự thảo luật liên quan đến tài chính, an ninh và trật tự xã hội,; các dự thảo luật được Thủ tướng công bố là “Khẩn”. Người đứng đầu nhà nước Singapore là Tổng thống, trước đây được Nghị viẹn bầu với nhiệm kỳ 4 năm. Theo Hiến pháp sửa đổi năm 1991 Tổng thống được bầu phổ thông trực tiếp với nhiệm kỳ 6 năm. Tổng thống có một số các quyền hạn đại diện, hành pháp và tổ chức. Tổng thống bổ nhiệm Thủ tướng từ số Nghị sỹ và hoạt động với sự tư vấn của Chính phủ. Quyền hành pháp ở Singapore thực tế thuộc Chính phủ - đứng đầu là Thủ tướng. Chính phủ chịu trách nhiệm tập thể trước Nghị viện. Nếu đa số Nghị sỹ mất tín nhiệm đối với Thủ tướng và Chính phủ, Tổng thống có thể tuyên bố bãi nhiệm Thủ tướng và giải tán Chính phủ. II. Hệ thống pháp luật Singapore 1. Khái quát về hệ thống pháp luật Singapore Hệ thống pháp luật Singapore gần như hoàn toàn chịu ảnh hưởng của pháp luật Anh, chỉ trừ một số vấn đề mang tính cá nhân đối với cộng đồng Hồi giáo, Ấn Độ giáo và người Hoa chịu sự điều chỉnh của Luật Hồi giáo, Luật Ấn Độ giáo và phong tục của người Hoa. Vào thời kỳ đầu của chế độ thuộc địa, Bản Hiến chương thứ hai về công lý của Anh năm 1826 được coi là hiến chương đưa pháp luật và hệ thống tư pháp Anh vào các nước thuộc vùng eo biển (Penang, Malacca, Singapore). Bản Hiến chương này đồng thời khẳng định: việc tiếp nhận chung đối với pháp luật Anh chỉ đúng khi đáp ứng yêu cầu: thứ nhất, các đạo luật Anh liên quan đến chính sách chung thì được áp dụng chung; thứ hai, các đạo luật được đem áp dụng phải phù hợp với tập quán, tôn giáo cũng như pháp luật của địa phương. Như vậy, ngay cả đạo luật được áp dụng chung cũng vẫn có thể phải sửa đổi để tránh gây bất bình đẳng và áp bức đối với dân bản địa . Các chế định pháp luật Anh liên quan đến hôn nhân gia đình được sửa đổi để áp dụng chung (ví dụ như sửa quy định về chia thừa kế suốt đời để đảm bảo không vi phạm nguyên tắc tự do chuyển nhượng đất). Nhiều ngành luật được pháp điển hoá, một hệ thống văn bản pháp luật đầy đủ được thông qua. Trong quá trình xây dựng nền tư pháp độc lập và đại phương hoá hệ thống pháp luật của mình, pháp luật Anh được tiếp nhận ở Singapore một cách đặc thù nghĩa là bằng các diều khoản hay các đạo luật quy định rõ việc tiếp tục áp dụng pháp luật Anh trong một số lĩnh vực riêng biệt. Điều 5 Luật Dân sự Singapore quy định việc áp dụng pháp luật Anh trong lĩnh vực thương mại đồng thời cũng nói rõ “các đạo luật Anh sẽ là đối tượng sửa đổi, bổ sung trong những trường hợp cần thiết”. Điều 5 Bộ luật tố tụng hình sự Singapore cũng quy định: “Đối với những vấn đề tố tụng hình sự chưa được điều chỉnh bằng quy phạm nào thuộc bộ luật này hay thuộc các đạo luật khác tại thời điểm chúng có hiệu lực tại Singapore thì luật tố tụng hình sự đang có hiệu lực ở Anh sẽ được áp dụng cho Singapore trừ khi nó mâu thuẫn với Bộ luật này”. Một con đường khác để pháp luật Anh thâm nhập vào Singapore là việc Nghị viện ban hành lại các đạo luật của Anh theo đúng nguyên văn câu chữ hoặc chỉ thay đổi vài điều khoản, ví dụ như Luật trọng tài năm 1950. Theo hình mẫu pháp luật Anh thông qua Pháp lệnh (Ordinance) về thời hiệu năm 1959. Bên cạnh pháp luật Anh, Singapore đã ban hành nhiều luật và pháp lệnh theo mô hình của các nước khác phù hợp hơn với điều kiện thực tế của mình ví dụ như thông qua Bộ luật Hình sự, Luật về chứng cứ theo hình mẫu của các Bộ luật thuộc địa Ấn Độ; thông qua Luật về quyền đất đai năm 1956, Pháp lệnh về các quan hệ công nghiệp năm 1960 và Luật về công ty năm 1967 theo mô hình của Australia. Năm 1979, Nghị viện Singapore đã sửa đổi Điều 5 Luật Dân sự theo hướng loại trừ việc tiếp nhận các đạo luật Anh trong lĩnh vực thương mại trong một số trường hợp: khi các đạo luật đó là hệ quả trực tiếp của các công ước, hiệp định quốc tế mà Singapore không phải là thành viên, khi đã có một đạo luật khác của Singapore với cùng mục đích như đạo luật của Anh. Tuy nhiên những sửa đổi này cũng vẫn chưa giải quyết được triệt để tính không xác định của phạm vi tiếp nhận pháp luật Anh. Vì cho rằng việc Anh tham gia Liên minh châu Âu sẽ làm cho xu hướng phát triển pháp luật thương mại của Anh ngày càng không còn phù hợp với Singapore nên tháng 11 năm 1993, Nghị viện Singapore đã ban hành Đạo luật về áp dụng pháp luật Anh với những nội dung chính: tuyên bố xoá bỏ Điều 5 Luật Dân sự, chấm dứt việc tiếp nhận một cách tự động các đạo luật tương lai của Anh về thương mại; xác lập danh mục các đạo luật Anh được áp dụng tại Singapore đồng thời nói rõ phạm vi áp dụng chúng ; chuyển hoá một số điều khoản của các đạo luật ban hành trước 1826 liên quan đến sở hữu, uỷ thác, bảo hiểm, thừa kế...vào các đạo luật tương ứng hiện hành của Singapore; khẳng định các án lệ và Luật Công bằng của Anh đã từng là một bộ phận của pháp luật Singapore trước khi Luật này có hiệu lực thì vẫn sẽ tiếp tục là một bộ phận của pháp luật Singapore, đồng thời có thể được sửa đổi tuỳ theo yêu cầu cụ thể và bằng con đường lập pháp. Đạo luật về áp dụng pháp luật Anh 1993 có ý nghĩa cách mạng nhằm loại bỏ sự không rõ ràng trong việc áp dụng pháp luật Anh ở Singapore, làm giảm bớt sự phụ thuộc của pháp luật thương mại Singapore vào pháp luật Anh và vào hoạt động lập pháp tương lai của Anh . Ở Singapore vẫn áp dụng hoàn toàn học thuyết pháp lý của Anh, thừa nhận án lệ là nguồn quan trọng của luật. Án lệ của Anh, của Malaysia, của Ấn Độ và các nước trong Khối Thịnh vượng chung “có hiệu lực thuyết phục” được Toà án Singapore tiếp nhận trong thực tiễn xét xử . 2. Luật Dân sự và các ngành luật liên quan Trong các quan hệ dân sự - pháp lý ở Singapore chủ yếu sử dụng các quy phạm thông luật Anh, trừ một số chế định pháp lý cá nhân được diều cỉnh bởi phong tục và luật của các cộng đồng cụ thể. Năng lực pháp lý của các chủ thể Luật Dân sự được quy định bởi các văn bản pháp lý dựa trên thông luật Anh. Độ tuổi có thể đăng ký kết hôn dành cho người Hồi giáo là 16 tuổi, với các cộng đồng người và tôn giáo khác là 18 tuổi. Luật Hợp đồng và Chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của Singapore về cơ bản theo hình mẫu của pháp luật Anh. Luật Đất đai của Singapore đồng thời dựa trên pháp luật Anh và pháp luật Australia (về đăng ký bất động sản). Vấn đề đăng ký kết hôn và ly hôn đối với các cộng đồng không phải là Hồi giáo điều chỉnh bởi Hiến chương về phụ nữ (Women’s Charter) 1961. Hiến chương dành cho phụ nữ các quyền bình đẳng với đàn ông trong tất cả các lĩnh vực, quy định chế độ đăng ký kết hôn bắt buộc và cấm đàn ông lấy nhiều vợ. Có thể tổ chức kết hôn theo phong tục của người Hoa hay người Ấn Độ là nhưng đồng thời phải tuân theo các quy định của Hiến chương. Quy định về ly hôn ở Singapore về cơ bản theo hình mẫu của pháp luật Anh chỉ khác ở chỗ để nộp đơn xin ly hôn cần có ít nhất 7 năm sống riêng. Vấn đề kết hôn và ly hôn của người Hồi giáo hoàn toàn theo Luật Hồi giáo, theo đó đàn ông được phép lấy nhiều vợ và có thể đơn phương tuyên bố ly hôn. Quan hệ sở hữu trí tuệ ở Singapore được điều chỉnh bởi Luật về quyền tác giả 1987, Luật về Thương hiệu (theo hình mẫu của Luật về Thương hiệu Anh 1887), Luật về Nhãn hiệu (theo hình mẫu Luật về Nhãn hiệu Anh 1938), Luật về sáng chế 1994. Pháp luật Singapore trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ hoàn toàn tương ứng với các chuẩn mực quốc tế hiện dại và có điểm khác biệt về xử lý nghiêm ngặt đối với các vi phạm quyền sở hữu trí tuệ. Luật Lao động của Singapore quy định quyền thành lập công đoàn, quy định về thoả ước lao động tập thể và quyền đình công. Quy định về quyền đình công ở Singapore không được sử dụng từ sau 1986 do thủ tục trọng tài hoà giải phức tạp trước khi đình công. Chính phủ Singapore tham gia tích cực vào điều chỉnh quan hệ lao động và quan hệ cộng đồng xã hội. Luật về việc làm quy định 44 giờ làm việc 1 tuần. Theo mức độ bảo trợ xã hội đối với người lao động, Singapore đứng thứ hai ở châu Á sau Nhật Bản. Theo Pháp lệnh về quyền dân sự (Civil Law Ordinance) ở Singapore các quy định của Luật Kinh doanh của Anh về tất cả các vấn đề liên quan đến công ty hợp danh, công ty, ngân hàng và hoạt động ngân hàng, hợp đòng đại lý, vận chuyển, bảo hiểm thương mại trực tiếp có hiệu lực nếu pháp luật Singapore không có quy định khác. Bên cạnh việc sử dụng trực tiếp pháp luật Anh như Luật về hợp danh 1890, Luật về chi phiếu 1882...Singapore cũng đã thông qua các luật của mình như Luật về công ty (dựa trên hình mẫu của Luật về công ty của Malaysia 1967), Luật về phá sản (dựa trên Luật về phá sản Anh năm 1914). Từ 1965, pháp luật kinh tế của Singapore hướng tới thu hút đầu tư nước ngoài và khuyến khích các sáng kiến cá nhân. Trong những năm 1990, ở Singapore hình thành cơ sở pháp lý khá hoàn chỉnh cho các hoạt động miễn thuế (off shore). Tố tụng dân sự ở Singapore được điều chỉnh bởi Quy định của Toà án Tối cao năm 1970 và Quy định của Toà áp cấp dưới 1970. Quan hệ trọng tài thương mại quốc tế được điều chỉnh bởi Luật về Trọng tài Thương mại quốc tế 1994. Nhìn chung, tố tụng dân sự và tố tụng trọng tài ở Singapore được xây dựng trên cơ sở pháp luật Anh. 3. Pháp luật về công ty Singapore áp dụng khá triệt để hệ thống pháp luật Anh. Một trong những nguyên tắc của việc áp dụng hệ thống pháp luật Anh ở Singapore là áp dụng đến chừng mực mà chưa mâu thuẫn với tập quán và pháp luật của Singapore. Chính vì vậy, nguồn luật công ty của Singapore chủ yếu dựa vào các văn bản pháp luật về công ty của Anh và Úc. Tuy nhiên, luật công ty của Singapore hiện nay cũng chứa đựng nhiều điểm khác so với luật công ty hai nước trên. Nguồn chủ yếu của luật công ty của Singapore là Paprtnership Act 1890 và Compaines Act, Business Registration Act, Security Act. Theo các văn bản pháp luật này thì ở Singapore có các loại hình doanh nghiệp sau: - Doanh nghiệp tư nhân (doanh nghiệp một chủ) - Hợp danh - Công ty Theo Luật đăng ký kinh doanh (Luật số 32) thì một cá nhân nào hay một nhóm những cá nhân có thể thành lập doanh nghiệp một chủ (công ty), hợp danh thông qua cơ chế đăng ký với cơ quan đăng ký được máy tính hoá. Các thông tin đăng ký tại đây đều được cung cấp cho bất kỳ ai quan tâm. "Công ty " hợp danh không được có quá 20 thành viên, loại trừ đối với các (Công ty) hợp doanh hành nghề được điều chỉnh theo luật. Để đăng ký thì chủ sở hữu duy nhất hay thành viên (công ty) hợp danh phải có đơn tới cơ quan đăng ký để được kiểm tra xem tên dự tính của doanh nghiệp hay (công ty) hợp danh có thích hợp không. Doanh nghiệp một chủ và (công ty ) hợp danh không là pháp nhân. Chủ sở hữu và thành viên của thành viên hợp danh chịu trách nhiệm cá nhân đối với hoạt động của doanh nghiệp và (công ty) hợp danh. Doanh nghiệp một chủ và (công ty) hợp danh không có nghĩa vụ phải nộp báo cáo tài chính hàng năm. Nhưng thời hạn đăng ký của 2 loại hình doanh nghiệp này là 01 năm và được gia hạn hàng năm. Một công ty có thể tham gia với tư cách là thành viên hợp danh. i) Doanh nghiệp tư nhân trong luật của Singapore. Doanh nghiệp tư nhân trong luật của Singapore không được điều chỉnh bởi các quy định cụ thể, riêng biệt. Doanh nghiệp tư nhân được coi là doanh nghiệp của cá nhân. Tài sản của doanh nghiệp tư nhân không có sự tách bạch với tài sản khác của chủ doanh nghiệp. Khi tham gia các quan hệ kinh tế, dân sự, chủ doanh nghiệp tư nhân được đối xử như thể nhân. Vì vậy, không có những quy định riêng cho chủ doanh nghiệp tư nhân. Khi chủ doanh nghiệp của cá nhân. Tài sản của doanh nghiệp tư nhân không có sự tách bạch với tài sản khác của chủ doanh nghiệp. Khi tham gia các quan hệ kinh tế, dân sự, chủ doanh nghiệp tư nhân được đối xử như thể nhân. Vì vậy, không có những quy định riêng cho chủ doanh nghiệp tư nhân. Khi chủ doanh nghiệp tư nhân chết thì doanh nghiệp đương nhiên chấm dứt sự tồn tại. ii) Hợp danh trong pháp luật Singapore Trong đời sống pháp lý Singapore, hợp danh được điều chỉnh bởi Luật hợp danh năm 1890 của Anh. Việc áp dụng đạo luật này của Anh được thực hiện thông qua Đạo luật năm 1993 của Singapore về áp dụng pháp luật Anh. Về cơ bản, hợp danh trong pháp luật Singapore và hợp danh trong pháp luật Anh không khác nhau đáng kể. Dưới đây là một số quy định chủ yếu về hợp danh: - Hợp danh là thoả thuận giữa những người tiến hành kinh doanh nhằm thu lợi. Như vậy, theo định nghĩa này thì hai dấu hiệu đặc trưng của hợp danh là sự tồn tại của việc kinh doanh và sự thoả thuận giữa nhiều người tham gia việc kinh doanh vì lợi nhuận. Mục đích lợi nhuận là tiêu chí cơ bản cho việc xác định hợp danh. - Số lượng thành viên tối thiểu của hợp danh là 2 và tối đa là 20. Các hợp danh có thành viên với số lượng từ 21 trở lên được gọi là công ty cho dù không đăng ký như là công ty. - Thành viên của hợp danh theo quy định của pháp luật Singapore có thể bao gồm thể nhân và pháp nhân. Đối với pháp nhân thì việc tham gia hợp danh phải kèm theo điều kiện là điều lệ của các pháp nhân đó không hạn chế việc tham gia hợp danh. Công dân, pháp nhân của các nước bị coi là thù địch thì không được tham gia hợp danh. Vị thành niên có thể được tham gia hợp danh song không bị buộc phải chịu trách nhiệm về những khoản nợ của hợp danh mặc dù tài sản của vị thành niên có thể dùng để trang trải công nợ của hợp danh nêú như tài sản của các thành viên khác trong hợp danh không đủ để trang trải các khoản nợ. - Hợp danh có thể được thành lập thông qua việc ký thoả thuận thành lập hoặc được thành lập thông qua việc cùng bắt đầu thực hiện hành vì kinh doanh nhằm thu lợi nhuận. Tuy nhiên việc thành lập hợp danh chủ yếu được thực hiện thông qua việc ký hợp đồng thành lập bởi vì hợp đồng ấy sẽ là văn bản điều chỉnh quanh hệ nội bộ giữa các thành viên của hợp danh. - Các hợp danh cần được đăng ký tại cục đăng ký. - Việc kết nạp các thành viên mới của hợp danh phải được sự đồng ý của tất cả các thành viên. Thành viên ra khỏi hợp danh có thể đề cử người kế tục mình và trong trường hợp đó hợp danh phải kết nạp người đề cử này. Người được đề cử không phải chịu trách nhiệm về những khoản nợ mà hợp danh đã phải gánh chịu trước khi người được đề cử tham gia hợp danh trừ phi người này chịu trước khi người được đề cử tham gia hợp danh trừ phi người này chấp nhận chịu trách nhiệm về khoản nợ đó. - Hợp danh đựơc thành lập với thời hạn nhất định sẽ chấm dứt hoạt động khi thời hạn kết thúc. Tuy nhiên, các bên có thể tiếp tục tiến hành hoạt động của hợp danh mặc dù thời hạn đã kết thúc. Hợp danh được thành lập với mục đích thực hiện hoạt động nhất định nào đó sẽ chấm dứt nếu như hoạt động đó đã được thực hiện. Hợp danh được thành lập vô thời hạn thì hợp danh sẽ chấm dứt nếu một thành viên thông báo cho các thành viên khác về việc rút khỏi hợp danh. Nếu hợp danh được thành lập bằng văn bản thì chỉ cần một thành viên thông báo văn bản về việc ra khỏi hợp danh