Nghĩa biểu trưng của thành tố cơm trong thành ngữ tiếng Việt

1. SƠ LƯỢC VỀ BIỂU TRƯNG VÀ NGHĨA BIỂU TRƯNG TRONG THÀNH NGỮ* 1.1. Sơ lược về biểu trưng Trong Việt ngữ học, từ lâu, thành ngữ đã được nghiên cứu trên các phương diện khác nhau. Tuy vậy, nhiều phương diện cụ thể, như vấn đề nghĩa biểu trưng của thành ngữ còn chưa được nghiên cứu sâu. Về đặc điểm nghĩa của nghĩa biểu trưng, ở bình diện nghiên cứu chung, nhiều tác giả như Bùi Khắc Việt (1978) [8], Đỗ Hữu Châu (1981) [2], Nguyễn Đức Dân (1986)[3], Nguyễn Văn Mệnh (1987)[5], Hoàng Văn Hành (1991) [4],. đã khẳng đ nh nghĩa thành ngữ mang tính chất biểu trưng. Song vấn đề đặt ra là, các thành tố trong thành ngữ có mang nghĩa biểu trưng hay không, điều này chưa được nghiên cứu. Như ta biết, nghĩa của thành ngữ được toát lên từ chỉnh thể, từ nghĩa của các thành tố tham gia. Do vậy, nghiên cứu nghĩa biểu trưng của thành ngữ, không thể không nghiên cứu nghĩa của các thành tố trong thành ngữ. Các thành tố tham gia cấu tạo thành ngữ là tên gọi các sự vật, hiện tượng, hoạt động, v.v. trong thực tế rất phong phú nhưng lâu nay, nghĩa của các yếu tố này trong thành ngữ còn ít được chú ý. Bài viết của chúng tôi khảo sát nghĩa của thành tố “cơm” trong thành ngữ tiếng Việt, một cách nghiên cứu nghĩa biểu trưng của thành ngữ bắt đầu từ việc nghiên cứu nghĩa của các thành tố.

pdf8 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 165 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghĩa biểu trưng của thành tố cơm trong thành ngữ tiếng Việt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 20 - Thaùng 4/2014 95 NGHĨA BIỂU TRƯNG CỦA THÀNH TỐ CƠM TRONG THÀNH NGỮ TIẾNG VIỆT TRẦN THỊ HỒNG (*) TÓM TẮT Bài viết chỉ ra các nghĩa biểu trưng của thành tố “cơm” trong thành ngữ tiếng Việt. Kết quả phân tích nghĩa của yếu tố này trong thành ngữ góp phần cho thấy nghĩa biểu trưng của các thành tố trong thành ngữ là cơ sở để tạo nên nghĩa khái quát hoá, biểu trưng hoá của thành ngữ. Từ khoá: nghĩa biểu trưng, thành ngữ, nghĩa khái quát ABSTRACT In this article the symbolic meaning of the component "rice" in Vietnamese idiomatic expressions is analyzed. The results of this analysis contribute to the realization of the symbolic meaning of the component in idiomatic expressions that are considered as the foundation to create the generalization and symbolic meaning of idioms. Keywords: symbolic meaning, idioms, generalized meaning 1. SƠ LƯỢC VỀ BIỂU TRƯNG VÀ NGHĨA BIỂU TRƯNG TRONG THÀNH NGỮ* 1.1. Sơ lược về biểu trưng Trong Việt ngữ học, từ lâu, thành ngữ đã được nghiên cứu trên các phương diện khác nhau. Tuy vậy, nhiều phương diện cụ thể, như vấn đề nghĩa biểu trưng của thành ngữ còn chưa được nghiên cứu sâu. Về đặc điểm nghĩa của nghĩa biểu trưng, ở bình diện nghiên cứu chung, nhiều tác giả như Bùi Khắc Việt (1978) [8], Đỗ Hữu Châu (1981) [2], Nguyễn Đức Dân (1986)[3], Nguyễn Văn Mệnh (1987)[5], Hoàng Văn Hành (1991) [4],... đã khẳng đ nh nghĩa thành ngữ mang tính chất biểu trưng. Song vấn đề đặt ra là, các thành tố trong thành ngữ có mang nghĩa biểu trưng hay không, điều này chưa được nghiên cứu. Như ta biết, nghĩa của thành ngữ được toát lên từ (*) ThS, Trường Đại học Sài Gòn. chỉnh thể, từ nghĩa của các thành tố tham gia. Do vậy, nghiên cứu nghĩa biểu trưng của thành ngữ, không thể không nghiên cứu nghĩa của các thành tố trong thành ngữ. Các thành tố tham gia cấu tạo thành ngữ là tên gọi các sự vật, hiện tượng, hoạt động, v.v. trong thực tế rất phong phú nhưng lâu nay, nghĩa của các yếu tố này trong thành ngữ còn ít được chú ý. Bài viết của chúng tôi khảo sát nghĩa của thành tố “cơm” trong thành ngữ tiếng Việt, một cách nghiên cứu nghĩa biểu trưng của thành ngữ bắt đầu từ việc nghiên cứu nghĩa của các thành tố. “Biểu trưng” (symbolism) là một khái niệm đã được xác đ nh và vận dụng trong nhiều công trình ngôn ngữ học, văn hoá học, văn học, v.v. “Biểu trưng” có thể được dùng để chỉ một vật, một hình ảnh khi chúng tượng trưng, ước lệ, biểu tượng cho một cái gì đó ngoài nó có tính chất trừu tượng (ví dụ: con cò trong ca dao Việt Nam 96 biểu trưng cho hình ảnh người nông dân suốt đời làm việc thầm lặng, lam lũ; chim bồ câu là biểu tượng của hòa bình). Trong ngôn ngữ học, “biểu trưng” được dùng để chỉ một loại nghĩa trong sự phân biệt với nghĩa đen, nghĩa bóng. Nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ học cho rằng biểu trưng là thuộc bình diện nghĩa học, song giữa các tác giả còn có nhiều cách lí giải khác nhau về loại nghĩa này. Theo Nguyễn Đức Tồn, biểu trưng là “cách lấy một sự vật, hiện tượng nào đó để biểu hiện có tính chất tượng trưng, ước lệ một cái gì đó khác mang tính trừu tượng... Một sự vật, hiện tượng có giá tr biểu trưng thì nó (kèm theo là tên gọi của nó) sẽ gợi lên trong ý thức người bản ngữ sự liên tưởng khá bền vững... Nghĩa biểu trưng có thể được hình thành dựa trên những đặc điểm tồn tại khách quan ở đối tượng, đồng thời còn có thể có được dựa trên cả sự “gán ghép” theo chủ quan của con người” [7, tr.387]. Về cơ sở tạo nghĩa biểu trưng, theo Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, “nghĩa biểu trưng là nghĩa bắt nguồn từ nghĩa đen, hoặc một nghĩa bóng khác nhờ kết quả của việc sử dụng từ có ý thức trong lời nói để biểu th sự vật, không phải nhờ vào quy chiếu tự nhiên, thường xuyên. Một từ có được nghĩa bóng khi nó đ nh danh sự vật không phải trực tiếp mà là qua một sự vật khác theo phép ẩn dụ, hoán dụ, chơi chữ” [10, tr.144]. Như vậy nghĩa biểu trưng gắn với sự vật, hình ảnh mà nó gọi tên và là nghĩa không chỉ được hình thành trên cơ sở quan hệ tương đồng hay tương cận của chính sự vật, hiện tượng đó tồn tại trong thực tế khách quan mà còn mang tính chủ quan, phản ánh tư duy, sự tri nhận, phân cắt, tưởng tượng của con người. Nghĩa biểu trưng gắn liền với nghĩa gốc của các từ. Những từ có nghĩa chỉ đặc điểm, thuộc tính nổi trội của sự vật và có khả năng chuyển nghĩa hoặc mang tính quy ước của cộng đồng, được cộng đồng thừa nhận thì mới có thể mang nghĩa biểu trưng. 1.2. Nghĩa biểu trưng trong thành ngữ Thành ngữ, cũng như từ, là đơn v có sẵn, là đơn v mang nghĩa. Nhưng do tính chất đặc biệt về cấu tạo và sự hình thành, nghĩa của thành ngữ có những điểm khác biệt so với từ, đó là nghĩa biểu trưng. Tuy thừa nhận loại nghĩa biểu trưng của thành ngữ nhưng vẫn có một số tác giả cho rằng không phải mọi thành ngữ đều mang nghĩa biểu trưng Chỉ nên coi những trường hợp sử dụng có tính chất ước lệ, biểu vật của từ là có tính tượng trưng [4]. Phần đông các nhà nghiên cứu như Đổ Hữu Châu [2], Hoàng Văn Hành [4], Nguyễn Đức Dân [3], Bùi Khắc Việt [8] coi nghĩa biểu trưng là ngữ nghĩa số một của thành ngữ. Theo Bùi Khắc Việt trong bài viết Về tính biểu trưng của thành ngữ trong tiếng việt (1987) [8], muốn xác đ nh, lí giải nghĩa biểu trưng thì phải xem xét mối quan hệ giữa sự vật hoặc hình ảnh với ý nghĩa biểu trưng trong thành ngữ, và chia nghĩa biểu trưng của thành ngữ làm hai loại: thành ngữ biểu trưng hoá toàn bộ và thành ngữ biểu trưng hoá bộ phận. Thực tế cho thấy quá trình liên tưởng dẫn đến các nghĩa bóng, nghĩa chuyển thông qua các phương thức ẩn dụ, hoán dụ cũng là quá trình hình thành nghĩa biểu trưng. Khi ta tiếp cận ngữ nghĩa thành ngữ là ta đang tìm hiểu thành ngữ trên hai phương diện. Phương diện tiếp xúc trực tiếp trên câu chữ theo kết hợp từ, theo các hình ảnh trong thành ngữ cho ta nghĩa gốc (còn gọi là nghĩa biểu hiện, nghĩa đ nh danh sự vật); và phương diện tiếp nhận: lớp nghĩa ẩn sau 97 các từ ngữ, hình ảnh chính là nghĩa hàm ẩn (nghĩa biểu trưng) – ý nghĩa quan trọng nhất mà người nghe cần lĩnh hội được. Ví dụ: thành ngữ như hạn mong mưa. Nghĩa gốc ban đầu chỉ thời tiết (hạn: hiện tượng nắng lâu ngày, không có mưa, đất đai khô nẻ / mưa: nước trên trời đổ xuống). Nghĩa này sau trở thành nghĩa bóng thông qua hiện tượng nhân hoá (hạn mong mưa). Nghĩa bóng đó là cơ sở tạo ra nghĩa biểu trưng. Khi nghe thành ngữ này, người ta không chỉ hiểu nghĩa là thành ngữ biểu th hiện tượng trời nắng lâu ngày dẫn đến hạn hán, vạn vật đều héo úa, khô cằn cần có mưa, mong mỏi có trận mưa để tìm lại sự sống, mà thành ngữ này còn gợi ra những liên tưởng nhiều hơn thế. Chẳng hạn dùng để chỉ sự mòn mỏi, khát khao chờ đợi, mong mỏi gặp lại, v.v. Cũng về cơ cấu hình thành nghĩa biểu trưng của thành ngữ, ở một khía cạnh khác, xét mối quan hệ nghĩa giữa các thành tố cấu thành và chỉnh thể thành ngữ, chúng ta còn thấy, nghĩa biểu trưng của thành ngữ được hình thành trên cơ sở sự khái quát hoá nghĩa biểu trưng của các thành tố - các hình ảnh biểu trưng trong thành ngữ. Ví dụ, thành ngữ lên voi xuống chó mang nghĩa biểu trưng chỉ sự thay đổi về đ a v , khi cao sang khi thấp hèn, khi vinh khi nhục. Nghĩa này được khái quát hoá từ nghĩa biểu trưng của hai thành tố - hai hình ảnh chủ yếu trong thành ngữ, voi – biểu trưng cho đ a v cao sang, chó biểu trưng cho đ a v thấp hèn. Từ sự phân tích trên, ta có thể khái quát, nghĩa biểu trưng của thành ngữ là toàn bộ ý nghĩa, ý niệm khái quát suy ra từ hình ảnh hoặc sự vật, sự việc cụ thể được miêu tả, đề cập, gọi tên trong thành ngữ. Nội dung của thành ngữ là sự thống nhất của hai ý nghĩa đó, trong đó nghĩa gốc, nghĩa đen là cơ sở để tạo nên nghĩa bóng, nghĩa biểu trưng. Muốn lí giải nghĩa biểu trưng phải xuất phát từ nghĩa gốc ban đầu, ngược lại, nghĩa gốc là cơ sở để tạo nên các liên tưởng, tạo thành nghĩa biểu trưng. Nghĩa biểu trưng của thành ngữ là sự khái quát hoá từ nghĩa biểu trưng của các thành tố trong thành ngữ. Đề tài của chúng tôi khảo sát nghĩa biểu trưng của thành tố cơm, gạo, cháo, thóc trong thành ngữ nhưng ở đây, do khuôn khổ của một bài báo, chúng tôi xin chỉ đề cập tới nghĩa của thành tố cơm, yếu tố được dùng nhiều nhất trong loạt các thành tố trên. 2. BIỂU HIỆN NGHĨA CỦA THÀNH TỐ CƠM TRONG THÀNH NGỮ 2.1. Nghĩa của từ cơm trong tiếng Việt Theo Từ điển tiếng Việt, cơm có các nghĩa sau đây: (1). Cơm là “gạo đem nấu chín, ráo nước, dùng làm món chính trong bữa ăn hàng ngày”. Ví dụ: nấu một nồi cơm đầy, xới cơm ra bát. (2). Cơm là “những thức làm thành một bữa ăn (nói tổng quát)”. Ví dụ: bữa cơm, ăn cơm, làm vài mâm cơm thết bạn bè. (3). Cơm là “cùi của một số quả cây”. Ví dụ: nhãn dày cơm, cạo cơm dừa. (4). Cơm là “thứ quả có v nhạt, không chua hoặc chỉ hơi ngọt”. Ví dụ: khế cơm. [6, 293] Trong bài viết này, thành tố cơm mà chúng tôi khảo sát trong thành ngữ tiếng Việt có nghĩa gốc trùng với nghĩa (1) và nghĩa (2) của từ cơm như đ nh nghĩa của Từ điển tiếng Việt. 2.2. Các nghĩa biểu trưng của thành tố cơm trong thành ngữ Để có hình dung chung về sự hiện diện của thành tố cơm trong thành ngữ, trước hết chúng tôi xin nêu kết quả khảo sát 98 thống kê tần số xuất hiện của cơm so với các yếu tố khác trong nhóm (cháo, gạo, thóc) có nghĩa liên quan. Khảo sát thành ngữ trong hai công trình: Từ điển giải thích thành ngữ tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học - Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia và Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam của nhóm tác giả Vũ Dung – Vũ Thúy Anh – Vũ Quang Hào, tham khảo bổ sung thêm thành ngữ từ phần sưu tập và phân loại thành ngữ tiếng Việt trong cuốn Thành ngữ học tiếng Việt của Hoàng Văn Hành, chúng tôi thu được 201 thành ngữ có chứa các thành tố cơm, cháo, gạo, thóc. Số lượng và tỉ lệ giữa các thành ngữ có chứa từng yếu tố cụ thể được khảo sát được biểu hiện qua bảng thống kê 3.1. sau. Bảng 2.1: Số lượng và tỉ lệ thành ngữ có chứa các thành tố cơm, cháo, gạo, thóc Thành ngữ Số lượng Tỉ lệ % Thành ngữ có thành tố Cơm 91 45,3 Thành ngữ có thành tố Cháo 41 20,4 Thành ngữ có thành tố Gạo 38 18,9 Thành ngữ có thành tố Thóc 31 31 Tổng 201 100 Qua bảng thống kê 2.1 trên, có thể thấy, so với các thành ngữ có chứa thành tố cháo, gạo, thóc, thành ngữ có chứa thành tố cơm có số lượng và tỉ lệ cao hơn hẳn (91/201 thành ngữ, chiếm 45,3%). Điều đó nói lên rằng, cơm, cùng với tên gọi của nó là mối quan tâm thường xuyên của người Việt, là cơ sở tạo nên sự liên tưởng chuyển nghĩa phong phú của từ. Trong 91 thành ngữ có chứa thành tố cơm mà chúng tôi khảo sát được, có 74 thành ngữ trong đó thành tố cơm xuất hiện độc lập như áo ấm cơm no, ăn cơm chúa múa tối ngày, cơm chấm cơm, cơm lành canh ngọt,; có 17 thành ngữ trong đó thành tố cơm xuất hiện thành từng cặp với thành tố gạo hoặc thành tố cháo, như nên cơm nên cháo, cơm áo gạo tiền, cơm sống cháo khê, láo nháo như cháo trộn cơm, cơm cao gạo kém, Như chúng ta đã biết, một trong những đặc trưng quan trọng nhất của thành ngữ chính là nghĩa biểu trưng. Mỗi một từ xuất hiện trong thành ngữ không chỉ có chức năng đ nh danh một sự vật, một hình ảnh, với ý nghĩa thông thường mà còn có thể biểu trưng cho một cái gì đó vượt ra ngoài ý nghĩa thông thường mà nó vốn có. Ý nghĩa đó có thể được hình thành dựa trên những đặc điểm tồn tại khách quan ở đối tượng, đồng thời còn có thể có được dựa trên cả sự “gán ghép” theo chủ quan của con người. Trong thành ngữ tiếng Việt, thành tố cơm xuất hiện khá nhiều. Cơm, ngoài ý nghĩa thông thường là chỉ “gạo đem nấu chín, ráo nước, dùng làm món chính trong bữa ăn hàng ngày” hay một bữa ăn còn có nhiều nghĩa biểu trưng khác, rất đa dạng. 99 2.2.1. Cơm biểu trưng cho nguồn sống, điều kiện vật chất tối thiểu đảm bảo cho cuộc sống của con người Đối với người Việt, cơm là thức ăn hàng ngày, là thực phẩm không thể thiếu trong mỗi bữa ăn. Không phải ngẫu nhiên mà người Việt gọi bữa ăn hàng ngày là “bữa cơm”, và mặc dù trong bữa cơm có rất nhiều món ăn, người Việt cũng chỉ nói “ăn cơm” để chỉ hoạt động ăn uống nói chung. Cơm vì thế biểu trưng cho nguồn sống của con người. Người Việt quan niệm: cơm tẻ là mẹ ruột, cơm cháo không ăn chẳng mạnh thầy, muốn trắng gắng lấy cơm. Coi cơm là nguồn sống nên trong tâm thức của người Việt, cơm đã vượt ra khỏi ý nghĩa ban đầu là thức ăn hàng ngày để biểu trưng cho điều kiện sống tối thiểu, đảm bảo cho cuộc sống của con người. Đối với người Việt, điều mà họ không thể không quan tâm chính là cuộc sống cơm áo gạo tiền, điều kiện tối thiểu để đảm bảo cho cuộc sống của họ là bát cơm manh áo, là có được cơm ăn áo mặc hoặc cơm ba bát áo ba manh, 2.2.2. Cơm biểu trưng cho của cải, lợi ích vật chất của con người Cơm là thức ăn, là thực phẩm không thể thiếu để duy trì cuộc sống, thế nhưng để làm ra bát cơm, người Việt phải đánh đổ rất nhiều mồ hôi, công sức. Cơm đối với họ không chỉ đơn thuần là thức ăn mà còn biểu trưng cho của cải, cho lợi ích vật chất nói chung. Chẳng hạn, để chỉ sự lãng phí của cải một cách không cần thiết, người Việt có thành ngữ ba cơm bảy mắm. Để chỉ những người bôn ba, làm giàu nơi đất khách quê người, người Việt có thành ngữ kiếm cơm thiên hạ. Để chỉ chút của cải ít ỏi nhưng b người khác cướp mất, người Việt có thành ngữ ăn cướp cơm chim. Để chỉ những người được trả công nhưng lại làm việc quấy quá, không có trách nhiệm, người Việt có thành ngữ ăn cơm chúa, múa tối ngày, 2.2.3. Cơm biểu trưng cho hoàn cảnh sống của con người Nghĩa biểu trưng khái quát này của cơm được thể hiện chỉ các mặt, các sắc thái khác nhau của hoàn cảnh. Trước hết, cơm biểu trưng cho điều kiện vật chất tối thiểu, thiết yếu để đảm bảo cuộc sống. Cũng chính vì thế, cơm trở thành thước đo để đánh giá hoàn cảnh sống (giàu/ nghèo) của người Việt. Với người Việt, được sống trong cảnh giàu sang, sung sướng chính là được tận hưởng cảnh cơm no áo ấm, no cơm ấm cật, được ăn cơm hom nằm giường hòm, được phục vụ tận tình với cơm bưng nước rót, được ăn những bữa ăn th nh soạn với cơm gà cá gỏi, cơm ngọc đũa ngà, cơm cá chả chim, cơm trắng cá béo,. Ngược lại, sống trong cảnh nghèo khó đồng nghĩa với việc phải ch u cảnh cơm khoai áo cụt, bữa cơm bữa cháo, đói cơm rách áo, cơm hẩm áo manh, cơm tấm áo vá, phải ăn những bữa ăn tạm bợ với cơm sung cháo dền. Đôi khi, cơm còn chỉ hoàn cảnh sống nghèo khổ, có phần nhục nhã của con người: cơm hẩm cà thiu, cơm thừa canh cặn, cơm thừa cá gạn, 2.2.4. Đặt trong kết cấu song hành với canh, cơm biểu trưng cho tình cảm vợ chồng, gia đình Không chỉ biểu trưng cho thước đo hoàn cảnh sống, cơm đặt trong kết cấu song hành với canh còn được sử dụng trong thành ngữ tiếng Việt với nghĩa biểu trưng cho tình cảm vợ chồng, gia đình. Nói cơm ngon canh ngọt, cơm lành canh ngọt, không chỉ là nói tới một bữa cơm đầy đủ, ngon miệng là còn nói lên hoàn cảnh sống đầm ấm, hòa thuận, hạnh phúc của một gia đình. Ngược lại, nói cơm chẳng lành canh 100 chẳng ngọt cũng không chỉ đơn thuần là nói tới một bữa ăn không ngon, không hợp khẩu v của người ăn mà còn ám chỉ một cuộc sống không yên ấm, đầy mâu thuẫn của vợ chồng, gia đình. 2.2.5. Cơm biểu trưng cho công lao, ơn nghĩa, sự yêu thương, sẻ chia của con người với con người trong khó khăn, hoạn nạn. Cơm là thực phẩm không thể thiếu trong bữa ăn hàng ngày của người Việt, là điều kiện để đảm bảo cuộc sống, là thước đo hoàn cảnh sống cũng như đời sống tinh thần của con người. Người Việt được nuôi sống bằng hạt cơm, và vì thế, cơm không chỉ đơn thuần là thức ăn mà còn biểu trưng cho công lao, ơn nghĩa, sự sẻ chia giữa con người với con người trong hoạn nạn, khó khăn. Với người Việt, được hưởng bát cơm cũng là được hưởng ơn sâu nghĩa nặng: ăn bát cơm dẻo nhớ nẻo đường đi. Họ không bao giờ quên bát cơm phiếu mẫu, không bao giờ quên công ơn cơm nặng áo dày của những người đã sinh thành, đã nuôi mình khôn lớn. Họ phê phán những kẻ vô ơn, bạc nghĩa: ăn cơm nhà Phật đốt râu thầy chùa; no xôi thôi cơm,. Đối với người Việt, bát cơm là thứ để đảm bảo cuộc sống, và cũng chính là thứ có thể sẻ chia với nhau trong những hoàn cảnh khó khăn nhất: chia cơm sẻ áo, nhường cơm sẻ áo, bát cơm sẻ nửa, 2.2.6. Cơm biểu trưng cho thước đo nhân cách, sự khôn ngoan hoặc vụng dại của con người Với người Việt, cơm là thức ăn, là điều kiện thiết yếu để đảm bảo cuộc sống thường ngày. Chính vì vậy, thông qua cách nhìn nhận, cách cư xử với miếng cơm, người ta cũng có thể đánh giá được nhân cách, sự khôn ngoan hoặc vụng dại của con người, điều đó cũng được phản ánh vào nghĩa từ cơm. Chẳng hạn, trong tiếng Việt, để đánh giá sự khéo léo hoặc vụng về của người phụ nữ trong công việc thường ngày, có hai thành ngữ: cơm dẻo canh ngọt và cơm sống cháo khê. Nếu cơm dẻo canh ngọt là sản phẩm của sự khéo léo, đảm đang thì ngược lại, cơm sống cháo khê lại là sản phẩm của sự vụng về của người phụ nữ. Cơm còn biểu trưng cho thước đo để đánh giá nhiều kiểu người khác nhau. Chẳng hạn, thành ngữ giá áo túi cơm để chỉ những người vô tích sự, tựa như chiếc giá người ta treo áo, chiếc túi người ta đựng cơm; thành ngữ cắn hạt cơm không vỡ để chỉ những kẻ keo kiệt, bủn xỉn, hà tiện; thành ngữ ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng/ ăn cơm nhà vác ngà voi để chỉ những người làm việc công ích mà không được nhận công, không quyền lợi gì; thành ngữ ăn cơm nhà nọ kháo cà nhà kia để chỉ những kẻ có thói tọc mạch, ưa kiếm chuyện, 2.2.7. Cơm biểu trưng cho kết quả, thành quả công việc Như chúng ta đã biết, đối với người Việt, cơm là thức ăn thiết yếu để duy trì cuộc sống. Với họ, mục đích đầu tiên của việc lao động đó là kiếm miếng cơm manh áo, có được cơm ăn áo mặc, đảm bảo cho cuộc sống. Vì thế, cơm trong quan niệm của người Việt không đơn thuần là một bữa ăn mà còn biểu trưng cho kết quả, thành quả lao động. Đối với người Việt, nên cơm nên cháo chính là đạt được kết quả như ý muốn, ngược lại, chẳng nên cơm cháo gì tức là không được việc, không đạt kết quả. 2.2.8. Cơm biểu trưng cho điều kiện thực tế, khả năng thực có Như chúng ta đã biết, cơm biểu trưng cho điều kiện vật chất tối thiểu để đảm bảo cuộc sống. Với người Việt, khi làm bất cứ việc gì cũng phải căn cứ vào điều kiện 101 cuộc sống thực tế để lo liệu. Chính vì vậy mà cơm còn biểu trưng cho điều kiện thực tế, khả năng thực có. Người Việt quan niệm liệu cơm gắp mắm, tức là căn cứ vào tình hình thực tế, khả năng thực có để làm việc cho hiệu quả, tránh tình trạng lãng phí ba cơm bảy mắm, gạo thiếu cơm thừa, một đồng cơm ba đồng nước mắm, 2.2.9. Cơm biểu trưng cho địa vị của con người trong xã hội Đối với người Việt, cơm là nguồn sống, là điều kiện để sinh sống, thế nhưng không phải ai cũng được ăn bát cơm giống nhau. Tùy vào từng loại cơm, cách ăn cơm mà người Việt có thể biết được đ a v , v thế của từng con người trong xã hội, điều này cũng được thể hiện qua nghĩa biểu trưng của cơm. Nếu như cơm vua áo chúa, cơm bạc đũa ngà là thứ cơm của những người quyền quý, có đ a v cao, được hưởng ơn vua lộc chúa thì cơm thầy cơm cô, cơm cày cơm cấy, cơm rau áo vải, ăn cơm nguội nằm nhà ngoài, cơm thừa canh cặn là thứ cơm của những người đi ở, những người làm thuê, những người làm lẽ, những người có đ a v thấp trong xã hội. 3. KẾT LUẬN 3.1. Đối với người Việt, cơm (cũng như cháo, gạo, thóc) là món ăn, nguồn lương thực chủ yếu, gắn bó mật thiết với họ trong đời sống thường nhật. Chính vì thế mà hình ảnh cơm hay bát cơm (bát cháo