Nghiên cứu kích thích sinh sản cá chạch lấu (mastacembelus armatus) bằng hcg (human chorionic gonadotropin)

Đồng bằng sông Cửu Long luôn khẳng định được vai trò của mình trong nền kinh tế quốc dân. Với hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt, có thể nói đây là vùng đất giàu tiềm năng để phát triển nghề nuôi thủy sản. Trong những loài cá nuôi ở đây thì cá da trơn (cá tra, cá basa) là những đối tượng có giá trị kinh tế cao và được nuôi phổ biến. Tuy nhiên, thời gian gần đây do gặp khó khăn về vấn đề giá cả và thị trường mà người nuôi có xu hướng tìm kiếm những loài nuôi mới có giá trị kinh tế cao và ổn định nhằm đa dạng hóa đối tượng nuôi. Một trong những hướng nghiên cứu là phát triển kỹ thuật sản xuất giống các loài cá nuôi bản địa có triển vọng về kinh tế. Cá chạch lấu (Mastacembelus armatus) tuy chưa được biết nhiều nhưng theo đánh giá của những người dân nuôi cá ở tỉnh Đồng Tháp thì loài cá này được coi là một trong những loài có triển vọng phát triển. Cá chạch lấu có chất lượng thịt ngon, có thể chế biến được nhiều món ăn nên rất được ưa chuộng, hiện giá bán bình quân khoảng 120.000-180.000 đồng/kg. Cá chạch lấu phân bố ở nước ngọt và lợ nhạt, kích thước có thể đạt tới 91 cm (Sokheng, 1999), pH thích hợp là 6,5-7,5 (Riede, 2004). Thức ăn chủ yếu của cá là thức ăn tươi sống như cá, giáp xác, giun, côn trùng sống đáy (Pethiyagoda, 1991; Rainboth, 1996). Cá thường sinh sản vào tháng 4 đến tháng 6 hằng năm (Pathiyagoda,1991). Với những đặc tính trên thì cá chạch lấu là đối tượng nuôi rất phù hợp với điều kiện ở ĐBSCL

pdf9 trang | Chia sẻ: hoang10 | Lượt xem: 540 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu kích thích sinh sản cá chạch lấu (mastacembelus armatus) bằng hcg (human chorionic gonadotropin), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 343-351 Trường Đại học Cần Thơ 343 NGHIÊN CỨU KÍCH THÍCH SINH SẢN CÁ CHẠCH LẤU (Mastacembelus armatus) BẰNG hCG (human Chorionic Gonadotropin) Nguyễn Văn Triều1 và Nguyễn Văn Kiểm1 ABSTRACT The study on artificial propagation of zig-zag eel Mastacembelus armatus by human Chorionic Gonadotropin (hCG) hormone was conducted from 03/2008 – 08/2008 at the Freshwater Hatchery, College of Aquaculture and Fisheries, Can Tho University. Two experiments were randomly contributed with three replicates for each. In the first experiment; the effect of injection times on oocyte maturation and ovolution of zig-zag eel were tested with three different treatments at 2, 3, and 4 injection times respectively. The effect of hCG’s dosage on oocyte maturation and ovalution of zig-zag eel was also tested in the second experiment. The gravid broodstocks were induced with the final injected at different dosage 1000, 2000 and 3000 UI/kg female. The results showed that 100 % of fishes were ovulated at total of three injection times. The relative fecundity (21,189 ± 1,309 eggs/kg female) was higher significantly (P<0.05) difference compared to other treatments. The three hormone treatments led to similar result in term of ovalutions rate 100 %. The fecundity, fertilization rate, and hatching rate were not significantly (P> 0.05) differences between the all treatments. Keywords: artificial propagation, Mastacembelus armatus, hCG, dosage of hormone Title: Study on induced breeding of zig-zag eel (Mastacembelus armatus) by hCG (human Chorionic Gonadotropin) TÓM TẮT Nghiên cứu sinh sản nhân tạo cá chạch lấu bằng hCG (human Chorionic Gonadotropin) được thực hiện từ tháng 3/2008 đến 8/2008 tại Trại cá thực nghiệm, Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ. Nghiên cứu gồm 2 thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với 3 lần lập lại. Thí nghiệm 1: Ảnh hưởng của số lần tiêm hCG đến quá trình chín và rụng trứng cá chạch lấu gồm 3 nghiệm thức với số lần tiêm lần lượt là 2, 3 và 4 lần. Thí nghiệm 2: Ảnh hưởng của nồng độ hCG khác nhau lên quá trình chín và rụng trứng cá chạch lấu gồm 3 nghiệm thức với nồng độ tiêm ở liều quyết định lần lượt là 1000, 2000 và 3000 UI/kg cá cái. Theo dõi các chỉ tiêu: tỷ lệ cá đẻ (%), sức sinh sản 1 Khoa Thủy sản, Đại học Cần Thơ Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 343-351 Trường Đại học Cần Thơ 344 (trứng/kg cá cái), tỷ lệ thụ tinh (%) và tỷ lệ nở (%). Kết quả nghiên cứu cho thấy: Kích thích sinh sản cá chạch lấu bằng hCG với 3 lần tiêm cho tỷ lệ cá đẻ 100%, sức sinh sản thực tế đạt 21.189 ± 1.309 trứng/kg cá cái cao hơn có ý nghĩa (P< 0,05) so với các nghiệm thức còn lại. Cá chạch lấu được tiêm 3 lần với liều các quyết định là 1.000 UI/kg cá cái, 2.000 UI/kg cá cái và 3.000 UI/kg cá cái đều cho tỷ lệ cá rụng trứng là 100%, sức sinh sản, tỷ lệ thụ tinh và tỷ lệ nở khác nhau không có ý nghĩa thống kê (P > 0,05). Từ khóa: Sinh sản nhân tạo, Mastacembelus armatus, cá chạch lấu, hCG, liều lượng kích thích tố 1 GIỚI THIỆU Đồng bằng sông Cửu Long luôn khẳng định được vai trò của mình trong nền kinh tế quốc dân. Với hệ thống sông ngòi, kênh rạch chằng chịt, có thể nói đây là vùng đất giàu tiềm năng để phát triển nghề nuôi thủy sản. Trong những loài cá nuôi ở đây thì cá da trơn (cá tra, cá basa) là những đối tượng có giá trị kinh tế cao và được nuôi phổ biến. Tuy nhiên, thời gian gần đây do gặp khó khăn về vấn đề giá cả và thị trường mà người nuôi có xu hướng tìm kiếm những loài nuôi mới có giá trị kinh tế cao và ổn định nhằm đa dạng hóa đối tượng nuôi. Một trong những hướng nghiên cứu là phát triển kỹ thuật sản xuất giống các loài cá nuôi bản địa có triển vọng về kinh tế. Cá chạch lấu (Mastacembelus armatus) tuy chưa được biết nhiều nhưng theo đánh giá của những người dân nuôi cá ở tỉnh Đồng Tháp thì loài cá này được coi là một trong những loài có triển vọng phát triển. Cá chạch lấu có chất lượng thịt ngon, có thể chế biến được nhiều món ăn nên rất được ưa chuộng, hiện giá bán bình quân khoảng 120.000-180.000 đồng/kg. Cá chạch lấu phân bố ở nước ngọt và lợ nhạt, kích thước có thể đạt tới 91 cm (Sokheng, 1999), pH thích hợp là 6,5-7,5 (Riede, 2004). Thức ăn chủ yếu của cá là thức ăn tươi sống như cá, giáp xác, giun, côn trùng sống đáy (Pethiyagoda, 1991; Rainboth, 1996). Cá thường sinh sản vào tháng 4 đến tháng 6 hằng năm (Pathiyagoda,1991). Với những đặc tính trên thì cá chạch lấu là đối tượng nuôi rất phù hợp với điều kiện ở ĐBSCL. Hiện nay, người dân nuôi cá chạch lấu ở một số địa phương như Đồng Tháp, An Giang đang gặp khó khăn trong việc tìm mua con giống có chất lượng tốt để thả nuôi. Phần lớn con giống cá chạch lấu được khai thác và thu gom từ các thủy vực trong tự nhiên với chất lượng và số lượng cá giống không đảm bảo. Khi nuôi cá có tỷ lệ sống thấp, kích cỡ không đồng đều. Một yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải nghiên cứu sinh sản, nhằm tiến tới hoàn thiện quy trình sản xuất giống cá chạch lấu. Từ đó, đề tài: “Nghiên cứu sinh sản nhân tạo cá chạch lấu (Mastacembelus armatus) bằng hCG” được tiến hành. Mục tiêu của đề tài nhằm tìm hiểu số lần và liều lượng tiêm kích thích tố hCG (human chorionic gonadotropin) để kích thích sinh sản nhân cá chạch lấu đạt hiệu quả cao góp phần hoàn chỉnh qui trình sản xuất giống nhân tạo cá chạch lấu. Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 343-351 Trường Đại học Cần Thơ 345 2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Nghiên cứu sinh sản nhân tạo cá chạch lấu bằng hCG được thực hiện từ tháng 3 năm 2008 đến tháng 9 năm 2008 tại Trại cá thực nghiệm – Khoa Thủy sản – Đại học Cần Thơ. Cá chạch lấu bố mẹ có khối lượng 300-500 g/con được mua từ Hồng Ngự - Đồng Tháp về nuôi vỗ trong lồng với diện tích (2 x 2 x 2,5 m) đặt trong ao. Mật độ nuôi: 3 kg/m2. Thức ăn nuôi vỗ là cá tạp nước ngọt. Trước khi cho cá ăn thức ăn được cắt nhỏ vừa cỡ miệng cá chạch lấu. Khẩu phần ăn là 5% trọng lượng thân/ngày, ngày cho ăn 1 lần. Trong quá trình nuôi vỗ, định kỳ mỗi tháng kéo toàn bộ để kiểm tra sự thành thục sinh dục của cá. 2.1 Chọn cá chạch lấu cho sinh sản Cá cái: Chọn cá cái khỏe mạnh, không bị xây xát, không bị thương tật có phần bụng dưới to và mềm đều, da bụng mỏng, lỗ sinh dục to, màu hồng, có gai sinh dục tròn và lỗ sinh dục hơi lồi ra (Hình 1). Kết hợp dùng que thăm trứng để lấy trứng đo đường kính. Tuyến sinh dục của cá ở giai đoạn IV, đường kính tế bào trứng 1,8 – 2,0 mm chiếm tỷ lệ > 60%. Trứng cá có hình tròn, đều cỡ, màu sắc đồng đều và sáng. Hình 1: Lỗ sinh dục cá cái Hình 2: Lỗ sinh dục cá đực Cá đực: Chọn con đực thân thon dài, khỏe mạnh, không bị xây xát, không bị thương tật có lỗ sinh dục tròn và lõm vào trong (Hình 2), dùng tay vuốt nhẹ gần lỗ sinh dục cá thấy có sẹ màu trắng sữa chảy ra. 2.2 Bố trí thí nghiệm Thí nghiệm 1: Ảnh hưởng của số lần tiêm liều dẫn bằng kích thích tố HCG đến tỷ lệ rụng trứng, sức sinh sản, tỷ lệ thụ tinh và tỷ lệ nở của cá chạch lấu. Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên gồm ba nghiệm thức (NT) với số lần tiêm liều dẫn khác nhau (NT 1.1: 1 lần, NT 1.2: 2 lần, NT 1.3: 3 lần), ba lần lặp lại. Mỗi lần lặp lại trong mỗi nghiệm thức được tiêm với 3 cá cái (Bảng 1). Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 343-351 Trường Đại học Cần Thơ 346 Bảng 1. Phân bố liều lượng hCG giữa các lần tiêm kích thích tố ở thí nghiệm 1 Nghiệm thức Lần Nồng độ (UI) Thời gian giữa các lần tiêm (giờ) 1 500 NT 1.1 (tiêm dẫn 1 lần) 2 2000 10 1 500 2 500 24 NT 1.2 (Tiêm dẫn 2 lần) 3 2000 10 1 500 2 500 3 500 24 NT 1.3 (Tiêm dẫn 3 lần) 4 2000 10 Ở liều quyết định, tất cả cá chạch lấu cái ở các nghiệm thức sẽ được tiêm kích thích tố hCG với liều lượng là 2000 UI/kg cá cái. Cá chạch lấu đực được tiêm 1 lần bằng kích thích tố hCG với liều lượng bằng 1/3 liều quyết định của cá cái và cùng thời điểm với tiêm liều quyết định của cá cái. Thí nghiệm 2: Ảnh hưởng của nồng độ hCG khác nhau lên quá trình sinh sản cá chạch lấu được thực hiện sau khi có kết quả ở thí nghiệm 1. Thí nghiệm 2 cũng được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với 3 nghiệm thức, lặp lại ba lần. Mỗi nghiệm thức, một lần lặp lại tiêm 03 cá cái (Bảng 2). Bảng 2. Liều lượng HCG kích thích sinh sản nhân tạo cá chạch lấu Nghiệm thức Liều lượng hCG Số lần tiêm NT 2.1 1000 Kết quả từ thí nghiệm 1 NT 2.2 2000 Kết quả từ thí nghiệm 1 NT 2.3 3000 Kết quả từ thí nghiệm 1 Cá chạch lấu đực chỉ tiêm 1 liều bằng 1/2 liều cá cái và cùng thời điểm với tiêm liều quyết định của cá cái. 2.3 Thụ tinh nhân tạo cho trứng cá chạch lấu Sau khi tiêm cá cái xong khoảng 3 – 5h tính từ lần tiêm cuối cùng có thể kiểm tra sự rụng trứng của cá. Tiến hành vuốt nhẹ bụng cá cái ở gần lỗ sinh dục nếu thấy trứng chảy ra thì trứng đã rụng. Tinh cá đực được tiến hành vuốt và bảo quản tinh dịch trong nước muối sinh lí 9‰ rước khi vuốt trứng,. Sau đó tiến hành vuốt trứng cá cái. Trước khi vuốt trứng cá, dùng khăn mềm lau khô dụng cụ đựng trứng và thân cá. Vuốt nhẹ bụng cá cái theo hướng từ đầu xuống bụng cá, đồng thời dùng thau hứng trứng. Sau khi vuốt trứng cá cái Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 343-351 Trường Đại học Cần Thơ 347 xong, đổ dung dịch tinh dịch trực tiếp vào trứng và dùng lông gà khuấy đều, rồi cho dung dịch thụ tinh (3 g muối + 4 g urê + 1 lít nước) vào khuấy đều khoảng 1-2 phút để trứng thụ tinh. Sau khi thụ tinh ta tiến hành rải trứng lên giá thể để ấp bằng giá thể hoặc khử dính trứng bằng Tanin để ấp bằng bình weys. 2.4 Ấp trứng cá chạch lấu Trứng cá chạch lấu sau khi thụ tinh sẽ được khử dính với dung dịch Tanin 1,5‰ (1,5 g + 1 lít nước). Đổ dung dịch Tanin vào ngập trứng và đảo đều khoảng 2-4 giây, chắt bỏ dung dịch này và rửa lại bằng nước sạch 2-3 lần cho tới khi trứng hết dính. Khi quá trình khử dính hoàn tất, tiến hành ấp trứng trong bình Weys. Lưu lượng nước chảy qua bình ấp trứng trung bình 1,0-1,5 lít/1 phút. 2.5 Thu thập và xử lý số liệu Thu các số liệu sinh sản của cá chạch lấu gồm: Tỷ lệ cá rụng trứng, thời gian hiệu ứng, sức sinh sản. Trứng cá chạch lấu sau khi thụ tinh xong sẽ được cho vào các khay nhựa (mỗi nghiệm thức với 1 lần lập lại sẽ được ấp trong 3 khai nhựa) để theo dõi các số liệu sinh sản như: tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ nở. Số liệu được tính toán giá trị trung bình, độ lệch chuẩn bằng cách sử dụng phần mềm Excel. So sánh trung bình giữa các nghiệm thức dựa vào phân tích ANOVA một nhân tố và phép thử Duncan. 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1 Ảnh hưởng của số lần tiêm kích thích tố hCG lên quá trình sinh sản cá chạch lấu 3.1.1 Biến động tỷ lệ đường kính trứng cá chạch lấu Bảng 3 cho thấy, ở NT 1.1 trước khi tiêm liều thứ nhất tỷ lệ trứng có đường kính ≥ 1,8 mm đạt 60%, trứng có đường kính <1,6 mm và từ 1,6 – 1,7 mm lần lượt là 33,3% và 6,7%. Đến trước khi tiêm liều thứ hai (cách liều thứ nhất 10 giờ) thì thấy đường kính trứng có sự tăng rõ rệt. Tỷ lệ trứng có đường kính ≥1,8 mm đã đạt 66,3% do những trứng có đường kính 1,6-1,7 mm tăng kích thước sau khi được tiêm kích thích tố. Tuy nhiên, với tỷ lệ trứng có đường kính cực đại (≥1,8) đạt 66,3% vẫn chưa đạt đến tỷ lệ cần thiết để kích thích cá chạch lấu rụng trứng. Theo Nguyễn Văn Kiểm (2004) để chọn cá đẻ tốt nhất thì tỷ lệ tế bào trứng có kích thước cực đại chiếm 80%. Ở NT 1.2 tỷ lệ trứng có đường kính ≥1,8 mm tăng đều qua ba lần tiêm, lần lượt là 63,3%, 76,6% và 80%. Do ở NT 1.2 cá được tiêm 3 liều kích thích tố, lần 1 cách lần 2 là 24 giờ và lần 2 cách lần 3 là 10 giờ nên có đủ thời gian để những trứng có đường kính nhỏ (1,6-1,7 mm) tăng đường kính lên ≥1,8 mm. Vì thế trước khi tiêm liều thứ 3, tỷ lệ trứng có đường kính ≥1,8 đạt tương đối cao (80%). Đây là tỷ lệ thích hợp để có thể kích thích cá chạch lấu rụng trứng. Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 343-351 Trường Đại học Cần Thơ 348 Riêng NT 1.3 tỷ lệ trứng có đường kính ≥1,8 mm của lần tiêm thứ 3 đạt (83,3%) là thời điểm thích hợp để kích thích cá rụng trứng, nhưng đến trước lần tiêm cuối cùng (liều quyết định) thì tỷ lệ trứng có đường kính ≥1,8 mm tăng đột ngột lên 96,7%, trong số đó có nhiều trứng không còn tròn đều. Điều này chứng tỏ có nhiều trứng cá đã chuyển sang giai đoạn thoái hóa, dẫn đến hiện tượng khi chích liều thứ tư cá không rụng trứng hoặc trứng rụng nhưng tỷ lệ thụ tinh sẽ giảm. Bảng 3. Biến động đường kính trứng qua các lần tiêm kích thích tố ở các nghiệm thức thí nghiệm Tỷ lệ (%) trước khi tiêm Nghiệm thức Đường kính trứng (mm) Lần 1 Lần 2 Lần 3 Lần 4 < 1,6 33,3 27 1,6 – 1,7 6,7 6,7 NT 1.1 ≥ 1,8 60 66,3 < 1,6 20 6,7 13,3 1,6 – 1,7 16,7 16,7 6,7 NT 1.2 ≥ 1,8 63,3 76,6 80 < 1,6 27 16,7 10 3,3 1,6 – 1,7 9,7 10 6,7 0 NT 1.3 ≥ 1,8 63,3 73,3 83,3 96,7 3.1.2 Kết quả sinh sản của cá chạch lấu Kết quả thí nghiệm ảnh hưởng của số lần tiêm liều dẫn (500 UI/kg cá cái) của kích thích tố hCG lên quá trình sinh sản cá chạch lấu được trình bày ở bảng 4. Bảng 4. Kết quả sinh sản nhân tạo cá chạch lấu với số lần tiêm khác nhau Nghiệm thức Tỷ lệ cá rụng trứng (%) Thời gian hiệu ứng (giờ) SSS thực tế (trứng/kg ♀) Tỷ lệ thụ tinh (%) Tỷ lệ nở (%) NT 1.1 - - - - - NT 1.2 100 6,3 21.189±1309b 73,3 ± 1,5a 71,3 ± 1,2a NT 1.3 100 5 17.667± 471a 68,5 ± 2,1a 73,5 ± 2,1a Các giá trị trong cùng một cột có cùng chữ cái thì khác biệt không có ý nghĩa ( p > 0,05) Bảng 4 chỉ ra rằng ở NT 1.1 cá không rụng trứng. Trong khi đó hai nghiệm thức còn lại đạt tỷ lệ rụng trứng 100%. Nguyên nhân xảy ra hiện tượng này là do cá chạch lấu đẻ nhiều lần trong năm (Xakun và Buskaia, 1968). Trong buồng trứng cá chạch lấu có trứng ở nhiều giai đoạn khác nhau, nhiều trứng cá Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 343-351 Trường Đại học Cần Thơ 349 có đường kính nhỏ hơn 1,8 mm, chưa đạt đến giai đoạn IV (Nguyễn Văn Triều, 2010). Thêm vào đó chỉ tiêm 2 liều thuốc là liều sơ bộ và liều quyết định chỉ cách nhau trong thời gian ngắn (10 giờ), vì thế trứng cá chưa đạt đến độ chín cần thiết để sẵn sàng rụng. Thời gian hiệu ứng ở NT 1.2 kéo dài trung bình 6,3 giờ còn ở NT 1.3 là 5 giờ. Từ kết quả thực tế cho thấy với lượng kích thích tố càng cao thì thời gian hiệu ứng thuốc càng ngắn. So với các loài cá đẻ trứng dính khác thì cá chạch lấu có thời gian hiệu ứng ngắn hơn. Thời gian hiệu ứng thuốc của cá tra là 8-12 giờ (Phạm Văn Khánh, 1996), cá chạch sông là 8 giờ 40 phút (Nguyễn Quốc Đạt, 2007). Sức sinh sản tương đối của cá ở các nghiệm thức dao động 17.667 – 21.189 (trứng/kg cá cái). Ở NT 1.1, cá không sinh sản. Ở NT 1.2 cá có sức sinh sản cao nhất (21.189 trứng/kg cá), và khác nhau có ý nghĩa (P < 0,05) so với các nghiệm thức còn lại. Nguyên nhân là do ở NT 1.2 (tiêm hai liều dẫn 500 UI hCG/kg cá cái) trứng cá chạch lấu đã chín tốt, độ đồng đều cao và sẵn sàng sinh sản. Khi cá chạch lấu đã thành thục tốt thì chỉ cần tiêm cho cá liều lượng kích thích tố thích hợp thì cá sẽ rụng trứng và đẻ trứng tốt. Nhưng khi tiêm 3 liều dẫn (NT 1.3) thì độ đồng đều của trứng cá không cao như ở NT 1.2 vì nhiều trứng đã chuyển sang giai đoạn thoái hoá. Điều này làm cho sức sinh sản của cá chạch lấu ở NT 1.3 thấp hơn có ý nghĩa (P<0,05) so với nghiệm thức 2. Và đây cũng là nguyên nhân làm cho số cá đẻ ở NT 1.3 chỉ có 2/3 con và tỷ lệ thụ tinh của trứng ở nghiệm thức 3 (68,5%) cũng tương đối thấp so với NT 1.2 (71,3%), nhưng tỷ lệ nở lại cao hơn NT 1.3 (73,5%) so với NT 1.2 (73,3%). Tuy nhiên, tỷ lệ thụ tinh và tỷ lệ nở của hai nghiệm thức khác nhau không có ý nghĩa thống kê (P > 0,05). Từ những kết quả trên, có thể rút ra kết luận việc sử dụng hCG ở liều lượng NT 1.2 (2 liều dẫn 500 UI và 1 liều quyết định 2000 UI/kg cá cái) cho tỷ lệ rụng trứng, sức sinh sản, tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ nở là tương đối ổn định và hiệu quả. 3.2 Ảnh hưởng của nồng độ hCG khác nhau ở lần tiêm liều quyết định lên quá trình sinh sản cá chạch lấu Từ kết quả thu được của Thí nghiệm 1, trong Thí nghiệm 2 ở tất cả các nghiệm thức cá chạch lấu cái sẽ được tiêm 2 liều dẫn (500 UI/kg cá cái) và nồng độ hCG ở liều quyết định khác nhau. Kết quả thí nghiệm được trình bày ở Bảng 5. Qua Bảng 5 cho ta thấy, khi kích thích sinh sản nhân tạo cá chạch lấu bằng kích thích tố hCG với 3 lần tiêm và ở liều quyết định với mức liều lượng khác nhau là 1.000 UI/kg cá cái, 2.000 UI/kg cá cái và 3.000 UI/kg cá cái đều cho tỷ lệ cá rụng trứng là 100%. Thời gian hiệu ứng giữa các nghiệm thức không chênh lệch (6 – 7 giờ). Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 343-351 Trường Đại học Cần Thơ 350 Bảng 5. Kết quả sinh sản cá chạch lấu với nồng độ hCG khác nhau ở lần tiêm liều quyết định Nghiệm thức Tỷ lệ cá rụng trứng (%) Thời gian hiệu ứng (h) Sức sinh sản thực tế (trứng/kg ♀) Tỷ lệ thụ tinh (%) Tỷ lệ nở (%) NT 2.1 100 7 7.795± 2.951a 70,7 ± 0,6a 67 ± 2,7a NT 2.2 100 6h30 11.149 ± 1.470a 66,7 ± 5,7a 71 ± 1,2a NT 2.3 100 6 12.741 ± 3.033a 70,0 ± 3,00a 73 ± 2,1a Các giá trị trong cùng một cột có cùng chữ cái thì khác biệt không có ý nghĩa ( p > 0,05) Sức sinh sản qua các nghiệm thức tăng dần. Trong đó ở NT 2.3 sức sinh sản cao nhất (12.741 trứng/kg cá cái) còn ở NT 2.1 sức sinh sản thấp nhất (7.795 trứng/kg) chênh lệch giữa 2 nghiệm thức 4.946 trứng. Tuy nhiên, sức sinh sản giữa các nghiệm thức khác nhau không có ý nghĩa thống kê (P > 0,05). Khi so sánh với các loài cá đẻ trứng dính khác như cá tra có sức sinh sản khoảng 50.000 trứng/kg (Cacot, 1998), cá kết có sức sinh sản khoảng 24.000 – 114.000 trứng/kg, cá chạch sông khoảng 68.000 trứng/kg (Nguyễn Quốc Đạt, 2007) thì sức sinh sản của cá chạch lấu tương đối thấp hơn. Tỷ lệ thụ tinh dao động 66,7 - 70,7%. Ở NT 2.1 tỷ lệ thụ tinh cao nhất (70,7%) và thấp nhất là ở NT 2.2 (66,7%). Tỷ lệ nở cao nhất là ở NT 2.3 (73%) và thấp nhất là NT 2.1 (67%) thấp hơn có ý nghĩa (P < 0,05) so với NT 2.3. Tuy nhiên, khi so sánh thống kê thì ở cả 3 nghiệm thức với nồng độ HCG khác nhau ở lần tiêm liều quyết định thì sức sinh sản, tỷ lệ thụ tinh, khác nhau không ý nghĩa (P > 0,05). Từ các phân tích trên cho thấy ở NT 2.3 cho tỷ lệ rụng trứng, sức sinh sản, tỷ lệ thụ tinh, tỷ lệ nở đem lại kết quả tối ưu nhất. 4 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 4.1 Kết luận Sử dụng hCG để kích thích sinh sản nhân tạo cá chạch lấu bằng cách tiêm 2 liều dẫn (500 UI/kg) và 1 liều quyết định (2000 UI/kg) cho kết quả là tỷ lệ đẻ cao (100%), sức sinh sản trong khoảng 21.189±1309 trứng/kg cá cái, tỷ lệ thụ tinh đạt 73,3% và tỷ lệ nở là 71,3%. 4.2 Đề xuất Nghiên cứu kích thích sinh sản nhân tạo cá chạch lấu bằng LRH + DOM và Ovaprim. Kỷ yếu Hội nghị khoa học thủy sản lần 4: 343-351 Trường Đại học Cần Thơ 351 TÀI LIỆU THAM KHẢO Nguyễn Quốc Đạt, 2007. Thử nghiệm sản xuất giống nhân tạo cá chạch sông (Macrognathus siamensis). Luận văn Thạc sĩ, Ngành nuôi trồng thủy sản, Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ. Nguyễn Văn Kiểm. 2004. Giáo trình kỹ thuật sản xuất giống nước ngọt. Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ. Nguyễn Văn Triều, 2010. Nghiên cứu đặc điểm sinh học cá chạch lấu (Mastacembelus armatus). Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Cần Thơ. Số 15B (2010), p. 70-80. Pethiyagoda, R., 1991. Freshwater fishes of Sri Lanka. The Wildlife Heritage Trust of Sri Lanka, Colombo. 362 p. Phạm Văn Khánh, 1996. Sinh sản nhân tạo và nuôi cá tra ở đồng bằng sông Cửu Long. Luận án Phó tiến sĩ. Đại học Thủy sản Nha Trang. Philippe Cacot, 1998. Description of the sexual cycle related to the environment and set up of the artificial propagation in Pangasius Bocourti (Sauvage, 1880) and Pangasius hypophthalmus (Sauvage, 1878), reared in floating cages and in ponds in the Mekong Delta. Proceedings of the mid-term workshop of the “Catfish Asia Project” Can Tho, Vietnam, 11-15 May 1998. 71p Rainboth, W.J, 1996. Fishe
Tài liệu liên quan