Thử giải mã bài thơ Nợ của Lê Quốc Hán từ phương diện kí hiệu học

TÓM TẮT Có nhiều cách để giải mã tác phẩm nghệ thuật. Trong đó có một số cách giải mã lâu nay vẫn dùng đã bộc lộ những hạn chế nhất định. Trước thực tế đó, chúng tôi đã mạnh dạn đưa ra một phương pháp mới - đó là giải mã tác phẩm nghệ thuật từ phương diện kí hiệu học. Tác phẩm là một loại kí hiệu đặc thù. Kí hiệu này được xây dựng từ một hệ thống kí hiệu ở cấp độ nhỏ hơn. Tất cả các yếu tố trong hệ thống ấy cộng hưởng, hoà phối với nhau làm nên giá trị của tác phẩm. Nhằm chứng minh cho tính ưu thế của cách tiếp cận trên, chúng tôi đã dùng các nguyên lí của kí hiệu học để tiến hành giải mã bài thơ Nợ của Lê Quốc Hán.

pdf5 trang | Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 160 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Thử giải mã bài thơ Nợ của Lê Quốc Hán từ phương diện kí hiệu học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
THỬ GIẢI MÃ BÀI THƠ NỢ CỦA LÊ QUỐC HÁN TỪ PHƯƠNG DIỆN KÍ HIỆU HỌC HỒ VĂN HẢI(*) VŨ HOÀNG CÚC(**) TÓM TẮT Có nhiều cách để giải mã tác phẩm nghệ thuật. Trong đó có một số cách giải mã lâu nay vẫn dùng đã bộc lộ những hạn chế nhất định. Trước thực tế đó, chúng tôi đã mạnh dạn đưa ra một phương pháp mới - đó là giải mã tác phẩm nghệ thuật từ phương diện kí hiệu học. Tác phẩm là một loại kí hiệu đặc thù. Kí hiệu này được xây dựng từ một hệ thống kí hiệu ở cấp độ nhỏ hơn. Tất cả các yếu tố trong hệ thống ấy cộng hưởng, hoà phối với nhau làm nên giá trị của tác phẩm. Nhằm chứng minh cho tính ưu thế của cách tiếp cận trên, chúng tôi đã dùng các nguyên lí của kí hiệu học để tiến hành giải mã bài thơ Nợ của Lê Quốc Hán. ABSTRACT There are many ways to decode works of art in literature research. Some of them have revealed certain limitation. Prior to that fact, we propose new method called the decoding work by the study of symbols. Artwork is a special symbol. This notation is built by a lower system. A element of the system make the value of the work by resonancing and combining together. In order to demonstrate the advantages of the approach, the principles of studying symbols have been used to decode the poem “Debt” written by Le Quoc Han. 1. TÁC PHẨM NGHỆ THUẬT NHƯ LÀ MỘT SIÊU KÍ HIỆU Để ghi nhớ và truyền đạt thông tin, con người đã dùng đến các kí hiệu. Tùy theo tính chất và mục đích truyền đạt mà người ta chọn loại kí hiệu nào cho thích hợp. Những thông tin thuộc loại phổ thông có thể được chuyển tải bằng cái vẫy tay, gật đầu, liếc mắt hoặc có thể là tiếng còi, hồi trống, v.v. Khi thông tin có hàm lượng lớn và phức tạp, con người cần phải sáng tạo ra những hệ thống kí hiệu đặc biệt như hệ thống thuật toán trong tin học, giai điệu trong âm nhạc, màu sắc trong hội họa, hình khối trong điêu khắc, v.v. Trong nghệ thuật văn chương, mỗi tác phẩm cũng là một kí hiệu được nhà nghệ sĩ dày công xây dựng để chuyển đến cho người tiếp nhận vô số thông điệp kì diệu của cuộc sống. Các thông điệp có thể lồng vào nhau trong quan hệ tương đồng và dị biệt, có thể bức thông điệp này gọi ra bức thông điệp kia nhờ vào năng lực liên tưởng. Mỗi một công trình nghệ thuật, thông điệp được chứa đựng theo những phương thức rất riêng. Điều này đã làm đau đầu các nhà giải mã kí hiệu. Chính tính phức tạp và năng lực chuyển tải đặc biệt đã làm cho tác phẩm văn chương trở thành một loại siêu kí hiệu. (*) TS, Trường Đại học Sài Gòn (**) CN, Trường Đại học Tây Nguyên Nghiên cứu cách thức giải mã kí hiệu tác phẩm thi ca trong một thời gian dài đã có những bước tiến lớn, tuy nhiên, những thành tựu đó chưa thoả mãn những ai say mê môn nghệ thuật này. Giống như trong y học, những con dao mổ không ngừng được cải tiến, người nghiên cứu nghệ thuật thi ca luôn đau đáu về một khát vọng: tìm được bộ dụng cụ tối ưu nhất để giải phẫu kí hiệu tác phẩm nghệ thuật ngôn từ. Đối với thi ca, lâu nay bằng cách tiếp cận truyền thống, khi phân tích người ta thường khách thể hoá tác phẩm hoặc nhắm vào chủ đề tư tưởng hay những chi tiết nổi trội. Cách tiếp cận này tỏ ra thông dụng nhưng lạm dụng quá mức sẽ sa vào tán tụng, lệch tâm. Có khi vô tình hay hữu ý, bằng cách này hay cách khác, người ta đã khoác cho tác phẩm những vẻ đẹp hào nhoáng mà bản thân nó không hề đạt tới. Điều này không tốt cho cả quá trình sáng tác lẫn tiếp nhận. Cách tiếp cận có độ tin cậy cao hơn được tiến hành theo nguyên lí thực chứng, đó là nhà thẩm định phải đi lại con đường mà nhà nghệ sĩ đã đi trong quá trình xây dựng nên tác phẩm. Điểm nhìn của kí hiệu học phải chăng là một lối tiếp cận hiệu quả hơn? Đây chính là vấn đề cần phải được tiếp tục thảo luận để làm sáng tỏ và hoàn thiện. Hãy thử giải mã bài thơ Nợ của Lê Quốc Hán để minh họa cho luận điểm này. 2. NỢ TỪ ĐIỂM NHÌN CỦA KÍ HIỆU HỌC Trong đời sống, người Việt hay nhắc đến chữ Nợ với những ý nghĩa khá trần trụi. Vì vậy, đưa con chữ này đi vào thơ ca là một việc hết sức khó khăn. Thực tế chứng minh việc đi tìm nội hàm mới cho một khái niệm cũ là việc làm hết sức nặng nhọc của nhà nghệ sĩ ngôn từ. Thế nhưng, nhờ vào khả năng thâm nhập và bám chắc vào gốc rễ những chân giá trị của đời sống nhân sinh, Lê Quốc Hán đã tìm ra nhiều điều thú vị trong con chữ nhẵn thín này. Cuộc đời vay trả trả vay Thời gian đặt nợ vào tay chất chồng Nợ từ thuở mới lọt lòng Sữa thơm của mẹ, máu hồng của cha Nợ người một điệu dân ca Nợ quê hạt gạo phù sa lở bồi. Nợ em tần tảo một đời Nợ con một ánh mắt cười thơ ngây Giật mình, chiều tím chân mây Vẫn nguyên vẹn nợ như ngày sơ sinh. 2.1. Đọc toàn bộ bài thơ, chúng ta phát hiện ra mạch tư duy nghệ thuật dưới đây. Nó chính là đường dẫn nhận thức cho cả người sáng tác lẫn người tiếp nhận (mô hình 1): (1) – Nguyên cớ ban đầu để nhà thơ bộc lộ những nhận thức của mình (2 dòng đầu). (2) – Đi vào chiều sâu nhận thức về những món nợ hữu hình và vô hình mà con người đã ngẫu nhiên mắc phải trong suốt cuộc đời (6 dòng tiếp theo). (3) – Lời tổng kết để khẳng định lại một lần nữa nhận thức sâu sắc của bản thân về chữ Nợ (2 dòng cuối). Triết lí nhân sinh (1) Những biểu hiện cụ thể (2) Chiêm nghiệm (3) Ứng với các phương diện Nợ trong cuộc đời là ba chiều kích không gian và thời gian của một đời người: lúc còn bé bỏng thơ ngây được cha mẹ ôm ấp, vỗ về, dưỡng dục; lúc trưởng thành, hoà mình vào cuộc sống, tận hưởng những giá trị văn hoá của quê hương; lúc về già, sống với nghĩa tình vợ con, chiêm nghiệm lại cả chặng đường mình đã đi qua. Từ mô hình tổng quát, ta có thể đi vào chi tiết của bài thơ bằng mô hình bộ phận (mô hình 2): Thông điệp 1: Khái quát tình trạng phổ biến (nợ đời) Mã ngôn ngữ Nội dung biểu đạt vay – trả, trả - vay thời gian đặt nợ vào tay Ân tình là một chu trình đổi chiều liên tục Nợ theo gót thời gian, nặng nề và ràng buộc Thông điệp 2: Cụ thể hoá đối tượng nhận thức (các món nợ) Mã ngôn ngữ Nội dung biểu đạt sữa thơm – máu hồng Ngọn nguồn của hình hài và sự sống điệu dân ca Ngọn nguồn của đời sống tinh thần hạt gạo phù sa Ngọn nguồn của đời sống vật chất tần tảo một đời Điểm tựa cho những thành công ánh mắt cười ngây thơ Ngọn nguồn của sự thanh tịnh Thông điệp 3: Chiêm nghiệm của chủ thể (nợ không thể trả) Mã ngôn ngữ Nội dung biểu đạt chiều tím chân mây nợ như ngày sơ sinh Thời điểm cuộc đời sắp kết thúc Món nợ nguyên khối Lần theo các dấu hiệu hình thức và các quan hệ hiện hữu trong hệ thống bài thơ (qua 2 mô hình), ta có thể phát hiện ra kí hiệu tổng thể (toàn bộ bài thơ) được sáng tạo theo những hình thức cấu trúc nhất định. Bậc khái quát bao trùm được thể hiện tại đường dẫn nhận thức 1, 2, 3 (mô hình 1). Kết cấu 1 2 3 (mô hình 2) thể hiện các cung bậc cảm xúc trùng với các bước nhảy của tư duy nghệ thuật: quy luật nhân sinh phổ biến  mổ xẻ và minh chứng  chiêm nghiệm bản thân. Bài thơ thể hiện sự lôgic của tư duy nghệ thuật: từ nguyên lí thực tế; từ ngoài vào trong; từ đồng loại đến cá thể. 2.2. Tiếp tục đi giải mã các kí hiệu đơn trong từng kí hiệu bộ phận của cái khung nhận thức nghệ thuật, người ta nhận ra sự hoà quyện và kết nối khá hoàn hảo trong từng đơn vị kí hiệu và giữa các đơn vị kí hiệu với nhau. Căn cứ vào cấu trúc tư duy của người sáng tác, chúng ta nhận ra ngay hai dòng đầu là lời giới thiệu ngắn gọn nhưng có sức khái quát rất cao: cuộc đời vay rồi trả, trả rồi lại vay, nhưng lạ thay, cùng với chuỗi thời gian đời người dằng dặc ấy, món nợ (được đặt vào tay như một tất yếu khách quan) cứ ngày một nhiều thêm, chất chồng tầng này lớp khác. Với sự láy lại trong hình thức đảo (vay trả trả vay), tác giả đã đưa vào hình thức ngắn gọn này một quy luật thông thường của đời sống nhân sinh. Tuy nhiên, đến dòng lục thì trong cái bình thường đó đã chứa đựng một cái gì đó bất thường. Vay rồi lại trả, cớ sao nợ lại chất chồng? Phải chăng trong cái hoạt động hai chiều này đã hàm chứa một điều sâu kín, kì lạ! Người tầm thường chỉ nhận ra thuộc tính vật chất của từng món nợ và quy đổi, định giá nó bằng một thước đo của tiền bạc. Người thanh cao mới nhận ra được thuộc tính tinh thần chìm sâu trong từng món một. Vì vậy, dù có ý thức trả nợ thường xuyên, thì ta cũng chỉ trả được những thứ nhìn được bằng mắt, cầm được bằng tay. Sau một hành động trả, chỉ món nợ vật chất được thanh toán, còn món nợ ân tình thì vĩnh viễn ở lại – những điều ơn nghĩa ấy sẽ mãi chất chứa trong lòng kẻ đi vay. Bởi vậy, người đời mới có câu rằng: Nợ tiền có trả có vay; Nợ tình càng trả càng đầy lạ chưa! Chất triết lí, cái sâu sắc, của ý tứ trong thông điệp 1 là ở chỗ đó. + Sau câu thơ có tính cảm khái, tác giả lần lượt đưa ra những chứng cớ đầy sức thuyết phục mà rất đỗi cảm động về món nợ trần thế của mỗi đời người. Máu hồng của cha cho ta phôi thai thành hình hài và được sinh ra để có mặt trên thế gian này. Sữa thơm của mẹ cho ta lớn dậy từ cái hài nhi bé bỏng. Điệu dân ca cất lên trong lời ru bên cánh võng giúp ta biết yêu thương, biết hướng theo những lẽ đời cao đẹp. Gạo của phù sa lở bồi dẻo thơm và cay đắng chứa chất trong từng hạt nhỏ nuôi ta khôn lớn, chân cứng, đá mềm. Một đời tần tảo, vất vả ngược xuôi của người vợ đảm cho ta áo mũ xênh xang, cho ta làm thượng giới rong chơi (còn) trần gian choang choác sự đời tùy em (câu thơ của Nguyễn Duy). Món nợ được nhắc đến cuối cùng thật sự ấn tượng: ánh mắt cười thơ ngây của con trẻ. Ánh mắt trong veo ấy là liều thuốc toàn năng kì diệu thanh lọc tâm hồn, gột rửa những tính toán, mưu toan tầm thường. Nó giúp ta lấy lại được sự thăng bằng khi đời sống là một sân khiêu vũ lớn mà ta bất đắc dĩ phải làm một cuộc nhảy nhót nhọc nhằn. + Mạch liệt kê đang ào ạt chảy, bao nhiêu suy luận về những món nợ trần gian cứ thế hiện về bỗng đột ngột bị cắt ngang khi nơi cuối trời ngày dài đã trở nên tím tái. Ngoái đầu nhìn lại, ngẫm thấy cả đời chú tâm trả từng món nợ sao bây giờ chúng vẫn còn nguyên! Thời gian đã tiễn đưa tuổi thanh xuân đi vào quá vãng, cùng với con đường dằng dặc của thời gian, cái thân thể cường tráng ngày nào đã hao gầy. Lúc này đây, thân già cũng tựa như cái hài nhi bé nhỏ. Trong tận cùng của sự bất lực và thánh thiện, món nợ cuộc đời vô ảnh vô hình hiện về vẹn nguyên với tất cả chiều kích lớn lao của nó. Nhìn lại cả bức thông điệp, chúng ta có thể thấy nét độc đáo của nó nằm ở bước đột phá mới cả về cách nhìn nhận lẫn cách diễn đạt. Cái nợ hữu hình luôn được sắp xếp xen lẫn với cái nợ vô hình đã khiến cho mọi sự cân đo đong đếm trở nên bất lực. Cứ mỗi hình ảnh thực lại xen một hình ảnh biểu trưng. Bằng cách này, ý thơ trở nên giản dị dễ hiểu nhưng vẫn đưa được miền suy tưởng đi xa. 3. KẾT LUẬN Nợ là bài thơ được sáng tạo theo hình thức định nghĩa. Đây là một kiểu tư duy thơ hiện đại khá phổ biến (như Là thi sĩ của Sóng Hồng, Yêu của Xuân Diệu, Đồng chí của Chính Hữu, Quê hương của Đỗ Trung Quân, Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm, v.v.). Nợ gắn liền với đời sống, ước muốn trả nợ thể hiện sự khát khao vươn tới những giá trị nhân văn mà cả cuộc đời mỗi con người luôn trăn trở kiếm tìm và khám phá. Điều này lí giải vì sao bài thơ có sức hấp dẫn kì lạ đối với rất nhiều độc giả. Cái tài hoa của Lê Quốc Hán là ở chỗ ông đã dùng kiểu tư duy triết lí để định nghĩa lại một hiện tượng thông thường của đời sống: Nợ. Chính sự phù hợp rất cao giữa hình thức với nội dung ý nghĩa đã làm cho quá trình kí hiệu hoá của tác giả thành công một cách mĩ mãn. + Tác phẩm nghệ thuật là sản phẩm của quá trình sáng tạo các kí hiệu để ghi lại một giá trị nào đó của cuộc sống. Muốn có thơ đầu tiên phải có ý. Để biến ý thành thơ, nhà nghệ sĩ cần tìm cho nó một hình hài và một linh hồn. Hình hài thơ được xây đắp bằng tư duy nghệ thuật kết hợp nhuần nhuyễn với tư duy kí hiệu. Linh hồn được tạo ra từ cảm xúc. Cảm xúc ẩn chứa trong năng lực liên tưởng của con chữ. Sáng tác thơ là một quá trình mà trong đó ý được nung nấu, hình hài được cân đối, hồn được bay bổng. Quá chú trọng đến ý, thơ sẽ nặng nề. Quá chú trọng vào cảm xúc thơ sẽ thiếu điểm tựa. Quá chú trọng vào hình hài thơ sẽ trở nên khô cứng và công thức. Điều cần thiết là khi dùng lí thuyết kí hiệu để giải mã bài thơ hay, người nghiên cứu phải xem nó là một loại kí hiệu đặc thù có sự hoà hợp của tất cả các thuộc tính nói trên. Sáng tác và thưởng thức thơ ngày nay đang rất cần đến những lí thuyết có tính thực tiễn để dẫn đường và định giá. Điểm nhìn kí hiệu học có thể là một trong những phương thức giúp chúng ta giải mã các thông điệp nghệ thuật một cách hiệu quả và thuyết phục. Bài thơ được xem như một kí hiệu thì tất cả những chi tiết về cấu trúc hình thức đều ẩn chứa những giá trị cụ thể. Muốn có một cái nhìn toàn diện và tránh hiện tượng phân mảnh trong tiếp nhận thi ca, cần phải đặt nó trong một điểm nhìn bao quát. Khi đã xác định được hình thức của kí hiệu nghệ thuật, việc giải mã thông điệp nghệ thuật không còn quá phức tạp và trừu tượng nữa. Tuy nhiên, để tìm ra chiếc chìa khoá tin cậy và hữu hiệu có thể giúp ta mở được cái kho tàng đầy bí ẩn kia không phải là chuyện của một sớm một chiều. Qua sự thử nghiệm trên, ít nhiều cho thấy việc sử dụng lí thuyết kí hiệu vào phân tích tác phẩm văn chương là một hướng đi triển vọng. Để xu hướng này trở nên phổ biến, cần phải có thời gian và sự hưởng ứng từ cả người tiếp nhận lẫn nhà nghiên cứu. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đào Thản (1998), Từ ngôn ngữ chung đến ngôn ngữ nghệ thuật. Nxb Khoa học xã hội. Hà Nội 2. G.N. Poxpelop chủ biên (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân, Lê Ngọc Trà dịch. Nxb Giáo dục. Hà Nội. 3. Nguyễn Phan Cảnh (1987), Ngôn ngữ thơ. Nxb Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp. Hà Nội. 4. Nguyễn Lai (1996), Tìm sự chuyển hoá từ mã ngữ nghĩa sang mã hình tượng. Tạp chí Ngôn ngữ (3). 5. Phan Huy Dũng (1999), Kết cấu thơ trữ tình nhìn từ góc độ loại hình. Luận án tiến sĩ Ngữ văn. ĐH Sư phạm Hà Nội 6. Phan Ngọc (1995), Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ học. Nxb Trẻ. Thành phố Hồ Chí Minh. 7. Thuỵ Khuê (1996), Cấu trúc thơ. Nxb Văn nghệ, California. Hoa Kì. 8. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học. Nxb Giáo dục. Hà Nội. 9. Trần Văn Tích, Tứ thơ. Văn học. Số 124. 10. Xuân Diệu (1984), Công việc làm thơ. Nxb Văn học. Hà Nội.
Tài liệu liên quan