Tìm hiểu về các học thuyết kinh tế

Adam Smith là nhà kinh tế chính trị cổ điển nổi tiếng ở Anh và trên thế giới, là tiền bối lớn nhất của Mác. Ông có nhiều lý luận rất có giá trị trong đó chúng ta phải nhắc đến lý thuyết “bàn tay vô hình” của ông. Học thuyết “bàn tay vô hình” nghiên cứu cơ chế hoạt động của một cơ chế thị trường cạnh tranh và nó cũng phản ánh quan điểm chung của các nhà kinh tế học cổ điển. Theo ông, một chế độ kinh tế bình thường phải dựa trên cơ sở sản xuất và trao đổi hàng hóa và một nền kinh tế hàng hóa bình thường phải dựa trên cơ sở tự do cạnh tranh. Ngược lại thì chỉ là sản phẩm của ngẫu nhiên, độc đoán và ngu dốt của con người.

doc25 trang | Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 1986 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tìm hiểu về các học thuyết kinh tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a/ Phân tích lý thuyết “bàn tay vô hình” của Adam Smith. Đưa ra nhận xét về lý thuyết này. b/ Phân tích nội dung “quy luật lợi thế so sánh” của David Ricardo. Ý nghĩa rút ra của quy luật này trong việc xây dựng cơ chế kinh tế mở ở nước ta. a/ Lý thuyết “bàn tay vô hình” của Adam Smith: Adam Smith là nhà kinh tế chính trị cổ điển nổi tiếng ở Anh và trên thế giới, là tiền bối lớn nhất của Mác. Ông có nhiều lý luận rất có giá trị trong đó chúng ta phải nhắc đến lý thuyết “bàn tay vô hình” của ông. Học thuyết “bàn tay vô hình” nghiên cứu cơ chế hoạt động của một cơ chế thị trường cạnh tranh và nó cũng phản ánh quan điểm chung của các nhà kinh tế học cổ điển. Theo ông, một chế độ kinh tế bình thường phải dựa trên cơ sở sản xuất và trao đổi hàng hóa và một nền kinh tế hàng hóa bình thường phải dựa trên cơ sở tự do cạnh tranh. Ngược lại thì chỉ là sản phẩm của ngẫu nhiên, độc đoán và ngu dốt của con người. Liên minh trao đổi là đặc tính vốn có của con người. Nó tồn tại vĩnh viễn với loài người. Ông cho rằng mỗi người trong quá trình trao đổi sản phẩm không ai xuất phát từ lợi ích công mà xuất phát từ lợi ích cá nhân của mình. Lợi thế cá nhân chính là mục đích, là động lực xuất phát. Khi chạy theo lợi ích cá nhân thì lợi ích công cộng cũng được hình thành bởi một bàn tay vô hình dẫn dắt mọi người phục vụ cho lợi ích công, phục vụ cho lợi ích xã hội. Bàn tay vô hình đó không nằm trong ý muốn ban đầu của con người. Bàn tay vô hình đó chính là các quy luật kinh tế khách quan chi phối hành động của con người. Adam Smith gọi hệ thống các quy luật khách quan đó là một trật tự thiên định. Ông chỉ ra các điều kiện cần thiết để cho các quy luật hoạt động là: phải có sự tồn tại và phát triển sản xuất trao đổi hàng hóa, nền kinh tế phải phát triển trên cơ sở tự do kinh tế, tự do mậu dịch. Quá trình ấy được thực hiện bởi chính quá trình cạnh tranh giữa các lợi ích cá nhân. Không ai cần kế hoạch, không ai cần mệnh lệnh, thị trường sẽ tự động giải quyết tất cả. Theo ông quan hệ giữa người và người là quan hệ phụ thuộc về kinh tế chỉ có CNTB mới là XH bình thường, nó được xây dựng trên cơ sở các quy luật tự nhiên. Ông cho rằng các chế độ XH trước đó là không bình thường. Từ đó ông cho rằng nhà nước không nên can thiệp vào kinh tế, nhà nước chỉ có chức năng bảo vệ quyền sở hữu tư bản, đấu tranh chống kẻ thù bên ngoài, chống tội phạm trong nước. Nhà nước chỉ nên can thiệp vào các chức năng kinh tế khi nó vượt ra ngoài khả năng của các chủ doanh nghiệp. Ông cho rằng chính sách kinh tế tốt nhất của nhà nước là tự do kinh tế. Nhận xét: Quan điểm kinh tế của ông phản ánh phù hợp với điều kiện kinh tế XH của CNTB vào thời kỳ đó. Vào thời kỳ đó, trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp thì tự do cạnh tranh là đặc trưng chủ yếu và phổ biến vì lúc đó quy mô các doanh nghiệp còn nhỏ, số lượng các doanh nghiệp còn ít. Sự lựa chọn của mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp là có hiệu quả nhất và thích hợp nhất. Lý thuyết bàn tay vô hình là lý thuyết kinh tế vĩ mô trong điều kiện tự do cạnh tranh. Trong một nền kinh tế cạnh tranh không hoàn toàn thì lý thuyết này vẫn là cơ sở của lý thuyết kinh tế vĩ mô hiện đại. Phương pháp lý luận của ông có tính rõ rệt khoa học và tầm thường: Khoa học: quan sát các mối liên hệ bên trong, các phạm trù kinh tế hoặc cơ cấu bị che lấp của hệ thống kinh tế tư sản. Tầm thường: lý luận của ông còn nhiều mâu thuẫn, ông đặt các mối quan hệ trên như mối liên hệ bề ngoài của hiện tượng cạnh tranh. Ý nghĩa: Tôn trọng quy luật kinh tế khách quan. Tôn trọng tư tưởng tự do kinh tế (tự do kinh doanh, tự do sản xuất, tự do cạnh tranh, thọ trường tự do…) Nhà nước đôi khi cũng có chức năng kinh tế. b. Quy luật lợi thế so sánh của David Ricardo: Trong thời đại D. Ricardo ngoại thương đóng vai trò quan trọng. Học thuyết lợi thế so sánh của ông nghiên cứu sự trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia, dựa trên nền móng là học thuyết về giá trị lao động. Các chi phí để sản xuất sản phẩm được quy về hao phí lao động, và chuyên môn hóa trong việc sản xuất các loại hàng hóa. Vì vậy, theo ông phải tính được lợi thế của sự so sánh. Theo nguyên tắc này mỗi nước chỉ nên tập trung vào sản xuất một loại hàng hóa nào dựa trên thế mạnh của mình. Lý thuyết LTSS của R cho rằng ngoại thương có lợi cho mọi quốc gia miễn là xác định đúng lợi thế so sánh, tức là tạo ra phân công lao động giữa các nước. LTSS xuất hiện khi đối chiếu so sánh hao phí lao động cho mỗi đơn vị sản phẩm ít nhất 2 quốc gia. Muốn xác định LTSS ta phải xác lập lợi thế tuyệt đối. Lợi thế tuyệt đối là khi tách ra xem xét một mặt hàng sản phẩm nào đó giữa vùng này với vùng khác, nước này với nước khác. Lợi thế tuyệt đối xuất hiện khi mặt hàng này nước này sản xuất được mà trước kia không sản xuất được hoặc sản xuất được nhưng với chi phí cao hơn nhiều. Điều này xảy ra là do điều kiện tự nhiên giữa các quốc gia khác nhau, trình độ khác nhau, hàng từ nơi có lợi thế sang nơi không có lợi thế như là một yếu tố khách quan là cơ sở sâu xa trong quan hệ ngoại thương. Xác lập lợi thế tuyệt đối có nghĩa là hình thành tỷ lệ so sánh về hao phí lao động cho mỗi loại sản phẩm giữa các nước, so sánh các tỷ lệ được thiết lập. Các mặt hàng có tỷ lệ càng nhỏ thì được xem là có lợi thế và ngược lại. Các mặt hàng có lợi thế thì tăng cường sản xuất, các mặt hàng không có lợi thế nên hạn chế sản xuất mà nên nhập khẩu. Trong quan hệ kinh tế quốc tế, mỗi nước đều ra sức sử dụng các lợi thế tuyệt đối của mình để chế ngự lợi thế tuyệt đối của đối phương, tìm ra sự công bằng chung. Vấn đề đặt ra là nếu một nước hoàn toàn có lợi thế tuyệt đối và nước kia thì không. Có nên thiết lập quan hệ thương mại giữa hai nước trên không? D. Ricardo cho rằng ngay cả trong những trường hợp như vậy thì ngoại thương vẫn có lợi cho cả hai bên miễn là phải dựa trên cơ sở lợi thế so sánh, nghĩa là mọi quốc gia phải xác định được sử dụng lợi thế so sánh của mình. LTSS xã hội được xác lập khi đặt tất cả các sản phẩm để so sánh lẫn nhau về chi phí sản xuất tương đối. Chi phí sản xuất tương đối chính là tỷ số so sánh hao phí lao động của mỗi mặt hàng giữa hai nước. VD: Chi phí lao động cho hai mặt hàng: quần áo và thực phẩm ở Mỹ và Châu Âu được cho bởi bảng sau: Mặt hàng Mỹ Châu Âu Thực phẩm 1 3 Quần áo 2 4 Lợi thế so sánh của Châu Âu Lợi thế tuyệt đối: Thực phẩm: 3/1>1 Quần áo: 4/2 = 2/1>1 cả hai mặt hàng thì Châu Âu đều không có lợi htế tuyệt đối Lợi thế so sánh : 3/1 (thực phẩm) > 2/1 (quần áo) Theo nguyên tắc so sánh thì Châu Âu có lợi thế so sánh ở sản phẩm quần áo (cái yếu ít nhất trong các cái yếu) Nếu có hoạt động giữa Mỹ và Châu Âu: Châu Âu sẽ sản xuất và xuất khẩu quần áo cho Mỹ và nhập khẩu thực phẩm từ Mỹ. Giá một đơn vị quần áo ở Châu Âu là 4, xuất khẩu sang Mỹ với giá bằng 6 thì Châu âu sẽ lời -2 Khi nhập thực phẩm, bán 2. Nhập khẩu số lượng thực phẩm đổi được 2:1 = 2 đơn vị sản phẩm. Để có 2 đơn vị sp Châu Âu phải tốn 2x3=6. Qua hoạt động nhập khẩu thực phẩm Châu Âu lời -2+6=4 Chung quy lại họat động ngoại thương Châu Âu lời -2+4 = 2 (vẫn lời mặc dù không lợi thế tuyệt đối cả hai mặt hàng quần áo và thực phẩm) Giả sử tổng đơn vị hao phí lao động mỗi nước là 600. Phân công lao động: Mỹ: Thực phẩm Châu Âu: quần áo Khi chưa có ngoại thương: Mỹ: Nhịn ăn để mặc áo quần: 600/2 = 300 Nhịn mặc để ăn: thực phẩm: 600/1 = 600 Châu Âu: Nhịn ăn để mặc áo quần: 600/4 = 150 Nhịn mặc để ăn thực phẩm: 600/3 = 200 Qua hoạt động ngoại thương: Thực phẩm Châu Âu: (150 x 2)/1 = 300 (>200 ban đầu) Số quần áo Mỹ: (600 x 3)/4 = 450 (>300 ban đầu) Ý nghĩa trong việc xây dựng cơ chế kinh tế mở đối với Việt Nam: Phân công lao động quốc tế có hoạt động ngoại thương đã đem lại lợi ích cho tất cả các quốc gia nghĩa là với năng lực sản xuất không đổi nó làm cho tổng sản phẩm tăng lên, thu nhập thực tế của xã hội nói chung, của mỗi thành viên nói riêng cũng tăng lên. Tự do thương mại quốc tế là tốt và có lợi. Trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay thì hoạt động ngoại thương không thể thiếu. Mở cửa làm ăn buôn bán với các nước có ý nghĩa thiết thực, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Chúng ta phải xác định rõ đâu là mặt hàng có lợi thế của mình để mà tăng cường sản xuất, xuất khẩu, lấy tiền mang về những thứ mà chúng ta chưa có khả năng sản xuất hay không có lợi thế. Tránh xuất khẩu những mặt hàng mà chúng ta đang thiếu và nhập về những thứ mà chúng ta không cần thiết. Xuất nhập khẩu phải rõ ràng, có chọn lọc. Huấn luyện nhân sự, đào tạo những cán bộ giỏi trong lĩnh vực ngoại thương có trình độ quốc tế. Hợp đồng ngoại thương cần phải rõ ràng, chính xác để sau này tranh chấp xảy ra thì có chứng cớ mà giải quyết, hoạt động ngoại thương hướng vào tất cả các quốc gia có chế độ chính trị khác nhau, không phân biệt với mục đích chính là phát triển kinh tế. a/ Phân tích những luận điểm kinh tế cơ bản của CN trọng nông. b/ Đưa ra những nhận xét về lý luận kinh tế của CN trọng nông. c/ Ý nghĩa rút ra từ việc nghiên cứu? a/ Phân tích những luận điểm kinh tế cơ bản của CN trọng nông. CN trọng nông là một trong những trường phái của kinh tế chính trị học tư sản và CN trọng nông có những luận điểm kinh tế cơ bản như sau: Lý thuyết sản phẩm thuần túy (sản phẩm ròng): Lý thuyết sản phẩm thuần túy là lý thuyết trung tâm của CN trọng nông. Theo đó sản phẩm thuần túy là số chênh lệch giữa tổng sản phẩm và chi phí sản xuất. Nó là phần dôi ra ngoài các chi phí sản xuất nông nghiệp và chỉ có nông nghiệp mới cho sản phẩm thuần túy mà thôi. Lý luận này đã đặt cơ sở cho việc nghiên cứu vấn đề sản phẩm thặng dư. Giải thích nguồn gốc của sản phẩm thuần túy. CN trọng nông cho rằng: vì nông nghiệp đã được hưởng sự trợ giúp của tự nhiên, như độ màu mỡ của đất đai, của thời tiết, khí hậu, nước… do vậy, sản xuất nông nghiệp có sự tăng thêm về chất. Theo F. Quesnay có hai nguyên tắc hình thành giá trị tương ứng với hai lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp. Nguyên tắc chung của trao đổi là phải ngang giá. Mục đích của trao đổi chỉ là giá trị sử dụng. Tiền tệ chỉ là phương tiện của trao đổi. Giá trị trao đổi không phải được mang đến trong lưu thông mà được đem đến trong quá trình sản xuất. Ông cho rằng sản xuất công nghiệp cũng tạo ra giá trị trao đổi nhưng giá trị trao đổi ấy chỉ để nuôi sống những người lao động trong lĩnh vực này. Đó là tiền lương cho nhà tư bản và tiền lương cho công nhân. Trong sản xuất công nghiệp giá trị trao đổi tương ứng với các chi phí sản xuất và do các yếu tố sản xuất chi phối quyết định. Sản xuất công nghiệp trong điều kiện bình thường không tạo ra sản phẩm thuần túy, không tạo ra lợi nhuận. Họ giải thích nguyên nhân là do trong công nghiệp quá trình tạo ra sản phẩm mới chỉ là quá trình kết hợp giản đơn những chất cũ mà không tăng thêm về chất nên không tạo ra sản phẩm thuần túy. CN trọng nông cho rằng nông nghiệp là ngành duy nhất tạo ra sản phẩm thuần túy cho xã hội. Lý luận này biểu hiện cho sự quan sát giản đơn ở hiện tượng để đưa ra kết luận. Lý thuyết lao động sản xuất và lao động không sản xuất: Từ lý thuyết sản phẩm thuần túy trên, F. Quesnay đã xây dựng nên lý thuyết lao động sản xuất và lao động không sinh lời. Nghĩa là căn cứ vào kết quả để phân biệt các dạng lao động. Theo đó, chỉ có lao động nào mà làm ra được sản phẩm thuần túy mới được coi là lao động sản xuất hay lao động sinh lời và ngược lại những lao động nào không tạo ra sản phẩm thuần túy thì không được coi là lao động sản xuất hay còn được gọi là lao động không sinh lời. Lý thuyết giai cấp: Theo F. Quesnay, căn cứ vào lý thuyết sản phẩm thuần túy thì chỉ có lao động trong khu vực nông nghiệp mới được coi là sản xuất, còn các lao động trong lĩnh vực khác đề không được coi là lao động sản xuất. F. Quesnay chia xã hội thành những giai cấp sau: Giai cấp những người sở hữu, đó là những người chiếm lĩnh ruộng đất, phú nông… giai cấp này sống bằng thu nhập hay sản phẩm thuần túy trong nông nghiệp mà hằng năm giai cấp sản xuất phải nộp cho họ. Giai cấp sản xuất bao gồm công nhân nông nghiệp, chủ trang trại, chủ đồn điền. Giai cấp không sản xuất gồm công nhân công nghiệp, thương nghiệp, tư bản công nghiệp. CN trọng nông đã dựa vào kết cấu kinh tế để phân chia giai cấp. Cách phân chia này còn đơn giản chỉ dựa vào tính chất ngành hoạt động sản xuất mà chưa dựa vào quan hệ, chủ yếu là quan hệ giữa các tập đoàn người với tư liệu sản xuất. Lý thuyết về tiền lương và lợi nhuận: CN trọng nông đã chuyển đối tượng nghiên cứu từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất, tức là đã đi tìm nguồn gốc của của cải, vật chất là trong sản xuất chứ không phải trong trao đổi. Lý thuyết sản phẩm thuần túy đã đặt cơ sở cho việc nghiên cứu giá trị thặng dư. CN trọng nông bước đầu nghiên cứu các bộ phận cấu thành của tư bản và đặc biệt đặt vấn đề phân tích có cơ sở khoa học về tái sản xuất tư bản xã hội. Đã xác định được mức độ tối thiểu của tiền lương. CN trọng nông đã đưa ra đề nghị trong các chính sách kinh tế của chính phủ: phải ủng hộ phát triển nông nghiệp theo kiểu đồn điền TBCN. Ủng hộ tự do cạnh tranh trong sản xuất, trao đổi và tự do cá nhân nói chung. b/ Nhận xét: Mặt hạn chế: CN trọng nông mới dừng việc nghiên cứu ở giới hạn xem xét, mô tả hiện tượng bên ngoài mà chưa đi sâu phân tích để phát triển bản chất của các quá trình kinh tế. Quan niệm về sản xuất còn hẹp hòi do đó đã đi đến kết luận sai lầm rằng giá trị thặng dư tức là cái mà CN trọng nông gọi là sản phẩm thuần túy là tặng phẩm của tự nhiên. CN trọng nông đề cao đến mức tuyệt đối hóa sản xuất nông nghiệp, phủ nhận vai trò của lưu thông, chưa hiểu được mối quan hệ giữa sản xuất và lưu thông, không thấy được vai trò của ngoại thương đối với sự phát triển kinh tế. Về mặt lý luận, CN trọng nông chưa xây dựng được các phạm trù khái niệm đúng đắn như hàng hóa, tiền tệ, giá trị lợi nhuận… c/ Ý nghĩa nghiên cứu: Chính sách của CN trọng nông là đánh thuế mạnh nông nghiệp để lấy tiền phát triển công nghiệp làm cho nông nghiệp kiệt quệ, nạn đói xảy ra khắp nơi. Từ đó thấy rằng, ta phải phát triển nông nghiệp một cách đúng mức. Nông nghiệp thật sự quan trọng đối với mỗi quốc gia nhưng cũng không nên tuyệt đối hóa sản xuất nông nghiệp mà phải thấy được vai trò quan trọng của các ngành khác như: công nghiệp, ngoại thương đối với sự phát triển kinh tế. Phân biệt rõ ràng, xây dựng được các phạm trù và khái niệm đúng đắn như: hàng hóa, tiền tệ, giá trị, lợi nhuận. a/ Hoàn cảnh và phân tích những luận điểm kinh tế cơ bản của CN trọng thương. b/ Đưa ra những nhận xét về lý luận kinh tế của CN trọng thương. c/ Ý nghĩa rút ra từ việc nghiên cứu? 1. Hoàn cảnh ra đời: CN trọng thương là hệ thống tư tưởng kinh tế đầu tiên của giai cấp tư sản, hình thành và phát triển ở Tây Âu vào giữa thế kỷ XV và tồn tại trong khoảng 3 thế kỷ. Trong thời kỳ này chế độ phong kiến ở Châu Âu bắt đầu tan rã và là thời kỳ tích lũy ban đầu cho CN tư bản, quan hệ sản xuất TBCN bắt đầu xuất hiện. Sự xuất hiện chủ nghĩa trọng thương gắn liền với những tiền đề lịch sử sau: Kinh tế: Vào thời điểm này hàng hóa ở Châu Âu phát triển mạnh. Thị trường dân tộc trong nước mở rộng xuất hiện các hoạt động giao thông quốc tế. Tiền tệ không chỉ được sử dụng làm phương tiện trung gian trong trao đổi hàng hóa mà tiền tệ còn sử dụng làm tư bản để sinh lợi 1 cách phổ biến. Chính trị - xã hội: Giai cấp phong kiến bắt đầu suy tàn, phân hóa rõ rệt. Trong xã hội vị thế của tầng lớp thương nhân tăng lên và sự phân hóa giàu nghèo trở nên sâu sắc. Xuất hiện khối liên minh của nhà nước phong kiến trung ương và tư bản thương nhân dựa vào nhau để tồn tại. Văn hóa tư tưởng: Phát triển của khoa học đặc biệt là khoa học tự nhiên. Xuất hiện phong trào phục hưng (do giai cấp tư sản khởi xướng nhằm chống lại tư tưởng đen tối của phong kiến thời trung cổ, đề cao tư tưởng tự do nhân quyền, bình đẳng). Sự chuyển biến tâm lý và lối sống của người dân. Đặc biệt trong tôn giáo đã có sự cải cách đáng kể. Về quan điểm chính trị: Có 2 ý niệm cơ bản. Củng cố nền độc lập và chủ quyền của từng quốc gia. Xem con người là một thực thể hay một công dân của quốc gia, đề cao cá tính và vai trò cá nhân. Kết luận: Sự kiện trên làm thay đổi nhanh chóng bộ mặt phong kiến trung cổ, nền sản xuất phong kiến bắt đầu nhường chỗ cho chế độ tư bản thương mại => CN trọng thương xuất hiện. 2. Những luận điểm kinh tế cơ bản của CN trọng thương: Luận điểm về tiền tệ: CN trọng thương đánh giá cao vai trò của tiền, tiền được coi là tiêu chuẩn căn bản của của cải, do đó mục đích chính trong chính sách kinh tế của mỗi nước là phải làm gia tăng khối lượng tiền tệ. Mỗi quốc gia càng có nhiều tiền (vàng) thì càng giàu có, còn hàng hóa chỉ là phương tiện để tăng thêm khối lượng tiền tệ. Luận điểm về ngoại thương: CN trọng thương đánh giá cao vai trò của thương mại đặc biệt là ngoại thương. CN trọng thương xuất phát từ chỗ cho rằng tiền tệ (vàng bạc) chỉ có thể gia tăng qua các hoạt động thương nghiệp, cụ thể là ngoại thương. Ngoại thương đóng vai trò sinh tử đối với phát triển kinh tế của một quốc gia. CN trọng thương cho rằng: Nội thương là hệ thống ống dẫn, ngoại thương là ống bơm. Muốn tăng của cải phải có ngoại thương nhập dẫn của cải qua nội thương. Khối lượng tiền tệ chỉ có thể tăng lên bằng con đường ngoại thương và ngoại thương phải thực hiện chính sách xuất siêu bằng cách hạn chế nhập khẩu và tăng cường xuất khẩu. Sự phồn thịnh của một quốc gia chính là nhờ thương nghiệp đặc biệt là ngoại thương chứ không phải do sản xuất (trừ việc khai thác vàng). Trong quan điểm ngoại thương, tính dân tộc thể hiện rất rõ. Các đại biểu của CN trọng thương đều đòi hỏi nhà nước phải có các biện pháp nhằm bảo vệ thị trường nội địa tránh sự xâm nhập, cạnh tranh của hàng hóa nước ngoài; chủ trương tìm mọi cách để bảo vệ vàng bạc nước mình không chảy ra nước ngoài. Luận điểm về chính sách ngoại thương: Xuất phát từ chỗ coi nguồn gốc của của cải được sinh ra trong lưu thông và luận điểm về ngoại thương phải thực hiện xuất siêu của mình, CN trọng thương chủ trương xuất siêu với các mức độ khác nhau giữa các khuynh hướng của quốc gia trong những thời kỳ khác nhau. Để thực hiện xuất siêu thì phải phát triển công nghiệp. Nhập khẩu có thể giảm nếu từ bỏ việc tiêu dùng quá mức hàng nước ngoài. Chỉ nên nhập khẩu những hàng hóa mà trong nước không sản xuất được hay sản xuất được nhưng có chi phí quá lớn so với hàng ngoại cùng kiểu cách, chất lượng. Xuất khẩu phải chú ý đến những mặt hàng dư thừa trong nước và nhu cầu của nước quan hệ trong hoạt động ngoại thương. CN trọng thương ủng hộ chính sách thuế quan, chính sách bảo hộ mậu dịch có lợi cho những hoạt động ngoại thương. Luận điểm về cơ chế kinh tế: Một nền kinh tế chỉ có thể phát triển tốt đẹp nếu như có sự điều chỉnh và quản lý của nhà nước, khuyến khích sự độc quyền trong ngoại thương. Vai trò của nhà nước thông qua các chính sách kinh tế được CN trọng thương đề cao và cho rằng: Một nền kinh tế chỉ có thể phát triển có hiệu quả nếu chịu sự chi phối, quản lý của nhà nước. Thương nhân cần dựa vào nhà nước và nhà nước phối hợp bảo vệ thương nhân. Luận điểm về lợi nhuận: CN trọng thương cho rằng lợi nhuận là kết quả của sự tro đổi không ngang giá do lĩnh vực lưu thông mua bán, trao đổi sinh ra. Nó là kết quả việc mua ít bán nhiều, mua rẻ bán đắt. Họ coi thương nghiệp như là một sự lường gạt, cái được của người này là cái mất của người kia và tương tự như vậy là quan hệ thương mại giữa các quốc gia. 3. Nhận xét về lý luận kinh tế của CN trọng thương: Mặt tích cực: CN trọng thương đả phá mạnh mẽ hệ tư tưởng kinh tế phong kiến. Lần đầu tiên trong lịch sử, CN trọng thương giúp mọi người thoát khỏi cách giải quyết các vấn đề kinh tế bằng các giáo lý đạo đức, các lý thuyết tôn giáo thần học. CN trọng thương đưa ra được cương lĩnh của giai cấp tư sản Châu Âu trong thời kỳ tích lũy ban đầu. CN trọng thương đã đưa ra tuyên ngôn hướng vào việc phát triển hệ thống công trường thủ công và lần đầu tiên trong lịch sử thế giới đã cố gắng nhận thức CNTB, giải thích các quá trình kinh tế dưới góc độ lý luận dựa trên cơ sở các thành tựu khoa học. Mặt hạn chế: Những thành tựu lý luận còn nhỏ bé, những vấn đề
Tài liệu liên quan