Xu hướng vận động của đầu tư quốc tế

Cho đến nay, đầu tư không phải là một khái niệm mới đối với nhiều người, nhất là đối với những người hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, thuật ngữ này lại được hiểu rất khác nhau. Có người cho rằng đầu tư tức là phải bỏ ra một cái gì đó vào một việc nhất định để thu lại lợi ích trong tương lai. Nhưng cũng có người quan niệm rằng đầu tư là hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi nhuận. Thậm chí thuật ngữ này còn được sử dụng rộng rãi, như câu nói cửa miệng để nói lên sự chi phí về thời gian, sức lực và tiền bạc vào mọi hoạt động của con người trong cuộc sống.

doc13 trang | Chia sẻ: haohao89 | Lượt xem: 3436 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xu hướng vận động của đầu tư quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
4.1. Khái niệm, đặc điểm và xu hướng vận động của đầu tư quốc tế hiện nay           4.1.1. Khái niệm đầu tư quốc tế a. Khái niệm Cho đến nay, đầu tư không phải là một khái niệm mới đối với nhiều người, nhất là đối với những người hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, thuật ngữ này lại được hiểu rất khác nhau. Có người cho rằng đầu tư tức là phải bỏ ra một cái gì đó vào một việc nhất định để thu lại lợi ích trong tương lai. Nhưng cũng có người quan niệm rằng đầu tư là hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi nhuận. Thậm chí thuật ngữ này còn được sử dụng rộng rãi, như câu nói cửa miệng để nói lên sự chi phí về thời gian, sức lực và tiền bạc vào mọi hoạt động của con người trong cuộc sống. Vậy đầu tư là gì? Những đặc trưng nào quyết định một hoạt động được gọi là đầu tư? Mặc dù vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này, nhưng có thể đưa ra một khái niệm cơ bản về đầu tư được nhiều người thừa nhận là "Đầu tư là việc sử dụng một lượng tài sản nhất định như vốn, công nghệ, đất đai… vào một hoạt động kinh tế cụ thể nhằm tạo ra một hoặc nhiều sản phẩm cho xã hội để thu lợi nhuận". Người bỏ ra một lượng tài sản được gọi là nhà đầu tư hoặc chủ đầu tư. Đối tượng được bỏ tài sản vào đầu tư thuộc quyền sở hữu của nhà đầu tư hoặc chủ đầu tư. Chủ đầu tư có thể là các tổ chức, cá nhân và cũng có thể là nhà nước. Có hai đặc trưng quan trọng để phân biệt một hoạt động được gọi là đầu tư hay không, đó là: (i) tính sinh lãi, (ii) rủi ro của công cuộc đầu tư. Thực vậy, người ta không thể bỏ ra một lượng tài sản vào một việc mà lại không dự tính thu được giá trị cao hơn giá trị ban đầu. Tuy nhiên, nếu hoạt động đầu tư nào cũng sinh lãi thì trong xã hội ai cũng muốn trở thành nhà đầu tư. Chính hai thuộc tính này đã sàng lọc các nhà đầu tư và thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển. Chủ đầu tư tiến hành công cuộc đầu tư dưới nhiều hình thức khác nhau. Có thể bỏ ra một lượng tài sản đủ lớn để lập ra cơ sở sản xuất mới hoặc mua lại các cơ sở sản xuất hiện có và trực tiếp quản lý các tài sản đó. Hình thức này được gọi là đầu tư trực tiếp hay đầu tư phát triển. Thời gian đầu tư thường là trung và dài hạn. Trái lại, nếu chủ đầu tư bỏ ra tài sản (chủ yếu dưới dạng vốn) để mua các chứng chỉ có giá như cổ phiếu, trái khoán… nhằm hưởng lợi tức, mà không trực tiếp quản lý tài sản của mình thì gọi là đầu tư gián tiếp hay đầu tư tài chính. Thời gian đầu tư thường là ngắn hạn. Sự phân biệt giữa hai hình thức đầu tư nói trên có tính tương đối. Bởi vì, ngày nay do sự phát triển của thị trường tài chính nên tài sản của nhiều doanh nghiệp không phải chỉ thuộc sở hữu của một người mà thuộc về nhiều người. Vì thế, nếu người nào có giá trị cổ phiếu nhưng lại có tỷ phần cao hơn nhiều so với các cổ đông khác thì người đó có quyền được tham gia quản lý trực tiếp doanh nghiệp. Khi đó, họ từ những người đầu tư gián tiếp chuyển sang đầu tư trực tiếp. Ngược lại, những người đang trực tiếp quản lý tài sản của mình tại doanh nghiệp, nhưng khi bị người khác mua lại để mở rộng đầu tư với số vốn áp đảo làm cho giá trị tài sản của họ không đủ tỷ phần tham gia quản lý trực tiếp thì khi đó họ lại trở thành người đầu tư gián tiếp. Thực tế cho thấy, các hình thức đầu tư này luôn chuyển hóa, đan xen lẫn nhau và trong nhiều trường hợp rất khó phân biệt một cách rạch ròi giữa chúng. Trên cơ sở hiểu được khái niệm cơ bản về đầu tư và hình thức biểu hiện của nó, chúng ta tiếp tục xem xét thế nào là đầu tư quốc tế, và những đặc điểm riêng của nó. Cho đến nay, mặc dù có không ít khái niệm khác nhau về đầu tư quốc tế, nhưng khái niệm được nhiều người thừa nhận đó là " Đầu tư quốc tế là sự di chuyển tài sản như vốn, công nghệ, kỹ năng quản lý… từ nước này sang nước khác để kinh doanh nhằm mục đích thu lợi nhuận cao trên phạm vi toàn cầu". Nước nhận đầu tư được gọi là nước chủ nhà, nước đầu tư gọi là nước đầu tư. Như vậy, qua định nghĩa cho thấy bản chất của đầu tư quốc tế là đầu tư, tức là hoạt động tìm kiếm lợi nhuận bằng con đường kinh doanh của chủ đầu tư. Bởi thế đầu tư quốc tế mang đầy đủ những đặc trưng của đầu tư nói chung. Tuy nhiên, nó có thêm một số đặc điểm riêng quan trọng khác so với đầu tư nội đia: - Chủ sở hữu đầu tư là người nước ngoài. Đặc điểm này có liên quan đến các khía cạnh về quốc tịch, luật pháp, ngôn ngữ, phong tục tập quán…Nói chung, đây là yếu tố làm tăng thêm tính rủi ro và chi phí đầu tư của các chủ đầu tư ở nước ngoài. - Các yếu tố đầu tư di chuyển ra khỏi biên giới. Đặc điểm này có liên quan chủ yếu đến các khía cạnh chính sách, pháp luật, hải quan và cước phí vận chuyển. - Vốn đầu tư được tính bằng ngoại tệ. Đặc điểm này có liên quan đến vấn đề tỷ giá hối đoái và các chính sách tài chính - tiền tệ của các nước tham gia đầu tư. Khi quyết định đầu tư ra nước ngoài, các chủ đầu tư phải xem xét rất kỹ các đặc điểm nói trên và chính từ các đặc điểm khác biệt này thường làm nảy sinh nhiều vấn đề cho các nhà đầu tư khi tiến hành đầu tư ở nước ngoài. b. Đầu tư quốc tế và các nguồn vốn nước ngoài khác Cùng với đầu tư quốc tế, còn có một số dòng lưu chuyển vốn khác giữa các nước như viện trợ phát triển chính thức (ODA), tín dụng thương mại, vay nợ, dịch vụ…Các nguồn vốn này ngày càng phát triển và đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế thế giới, của các nước và đặc biệt là đối với việc thực hiện công nghiệp hóa ở các nước đang phát triển. Viện trợ phát triển chính thức là tất cả các khoản trợ giúp không hoàn lại và có hoàn lại với lãi suất ưu đãi thấp, thời gian trả nợ dài của chính phủ, các tổ chức của Liên hiệp quốc, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức tài chính quốc tế dành cho chính phủ và nhân dân các nước nhận viện trợ. Mặc dù nguồn vốn viện trợ có mục đích giúp đỡ, không thu lợi nhuận như đầu tư quốc tế, nhưng nó thường đi kèm theo một số điều kiện nhất định đối với những nước nhận viện trợ và có thể gây ra những gánh nặng nợ nần cho các nước này. Tuy nhiên, nguồn vốn này lại có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của các nước nhận viện trợ. Thông thường, nguồn vốn ODA được sử dụng như những biện pháp cần thiết hỗ trơ thúc đẩy đầu tư quốc tế ở các nước nhận viện trợ thông qua các hoạt động xây dựng cơ sở hạ tầng, xúc tiến đầu tư và các trợ giúp kỹ thuật khác. Mặ khác, chiến lược đầu tư của các nước phát triển vào các nước đang phát triển là cơ sở quan trọng thúc đẩy các nhà tài trợ cung cấp viện trợ cho nước đang phát triển. Bởi thế, giữa nguồn vốn ODA và đầu tư quốc tế có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau và nguồn vốn này có vai trò to lớn trong thúc đẩy đầu tư quốc tế vào các nước đang phát triển. Tín dụng thương mại là các khoản tiền vay với lãi suất mềm từ các nước phát triển, các tổ chức tài chính quốc tế để trợ giúp các hoạt động xuất nhập khẩu của các nước đang phát triển và các bạn hàng của các nước này. Nguồn vốn này thường tác động trực tiếp đến thúc đẩy thương mại. Tuy nhiên, các hoạt động đầu tư thường đi kèm với các hoạt động thương mại, nên nguồn vốn này cũng tác động hỗ trợ và thúc đẩy các hoạt động đầu tư quốc tế. Các khoản tiền vay giữa các nước, trong đó nhất là nợ tư nhân cũng là nguồn lưu chuyển vốn quốc tế quan trọng. Thông qua hệ thống ngân hàng, các chính phủ và công ty ở các nước vay tiền lẫn nhau để bù đắp thiếu hụt cán cân thanh toán, trả lãi suất vay đến kỳ hạn thanh toán, mở rộng quy mô sản xuất… Nguồn vốn này không những thúc đẩy đầu tư quốc tế, mà còn gián tiếp góp phần quan trọng làm ổn định tình hình kinh tế vĩ mô ở nước nhận đầu tư có mức thâm hụt cán cân, nhờ đó, góp phần tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. c. Đầu tư quốc tế và các quan hệ kinh tế quốc tế Nền kinh tế thế giới được hình thành và phát triển thông qua các quan hệ kinh tế quốc tế, trong đó trước hết là thương mại quốc tế. Chính nhờ thương mại quốc tế mà các yếu tố sản xuất có tính lợi thế so sánh giữa các nước được khai thác có hiệu quả hơn. Tuy nhiên, hình thức quan  hệ kinh tế quốc tế này cũng có những hạn chế của nó, trong đó nhất là chưa khai thác một cách trực tiếp tiềm năng về lợi thế của các yếu tố đầu tư ở các nước. Hơn nữa, thương mại quốc tế còn bị ngáng trở bởi hàng rào thuế quan ở nhiều quốc gia, nhất là ở các nước đang phát triển. Bởi vậy, hình thức đầu tư quốc tế đã ra đời từ nhu cầu vượt qua những hạn chế và ngáng trở này. Đầu tư và thương mại là các khâu của quá trình tái sản xuất. Thương mại hoạt động trong khâu lưu thông, còn đầu tư hoạt động trong khâu sản xuất. Chúng là các khâu nối tiếp nhau trong một quá trình tái sản xuất. Ở phạm vi ngoài quốc gia, các hoạt động này có mối quan hệ bổ sung hơn là thay thế lẫn nhau. Bởi thế, khi xem xét các hoạt động đầu tư quốc tế thì không thể không đặt trong mối quan hệ với thương mại quốc tế. Đặc điểm này càng được biểu hiện rõ khi xem xét tăng trưởng xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI ở các nước đang phát triển. Trong điều kiện phát triển của nền kinh tế thế giới hiện nay, rất khó tách bạch giữa chức năng của các nhà đầu tư và nhà xuất nhập khẩu. Thông thường, các nhà đầu tư đồng thời cũng là các nhà xuất nhập khẩu và phần lớn các nhà xuất nhập khẩu đều có liên quan trực tiếp đến các hoạt động đầu tư thông qua các mô hình công ty thương mại tổng hợp. Do đó, việc tách đầu tư ra khỏi thương mại để nghiên cứu có ý nghĩa ở trạng thái tĩnh với mục đích làm rõ bản chất của đầu tư. Còn trong thế giới hiện thực, ở trạng thái động, muốn hiểu rõ được các hoạt động đầu tư thì cần phải xem xét trong mối quan hệ với thương mại và các hoạt động kinh tế quốc tế khác. Cũng như quan hệ với thương mại quốc tế, các hoạt động đầu tư không thể tách rời với các định chế tài chính và thị trường vốn quốc tế. Mỗi sự thay đổi định chế về quản lý ngoại  hối, lãi suất… của các nước. đặc biệt ở các nước đang phát triển, sẽ ảnh hưởng đến động thái dòng vốn đầu tư quốc tế. Chẳng hạn, cuối thập kỷ 80, Nhật Bản và các nước phát triển tăng giá đồng bản tệ và nới lỏng các chính sách quản lý thị trường vốn của họ đã thúc đẩy mạnh đầu tư ra nước ngoài của các nước này. Mặt khác, thông qua thị trường tài chính quốc tế mà các chủ đầu tư huy động được vốn đầu tư và nhận biết được tín hiệu của thị trường để quyết định đầu tư. Đặc điểm này được biểu hiện rất rõ trước tác động của các cuộc khủng hoảng tài chính khu vực. Đầu tư quốc tế có mối quan hệ mật thiết với các hoạt động dịch vụ quốc tế thu ngoại tệ. Cũng giống như thương mại quốc tế, các hoạt động đầu tư luôn đòi hỏi phải có các dịch vụ hỗ trỡ, trong đó nổi bật nhất là các dịch vụ về ngân hàng, vận tải, bảo hiểm, viễn thông, điện nước, cung ứng lao động.. Nhờ có sự phát triển của các dịch vụ này mà quá trình đầu tư được tiến hành thông suốt. Ngược lại, đầu tư quốc tế luôn tạo cầu cho sự ra đời và phát triển của các hoạt động dịch vụ. Chất lượng dịch vụ là yếu tố rất quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với thúc đẩy phát triển của đầu tư quốc tế. Điều này được phản ánh rất rõ tại sao đầu tư quốc tế chỉ hình thành và phát triển khi lực lượng sản xuất của nền kinh tế thế giới phải phát triển đến một trình độ phát triển nhất định và nó hình thành muộn hơn thương mại quốc tế. Đầu tư quốc tế là xuất khẩu trực tiếp các yếu tố sản xuất, trong khi thương mại quốc tế chỉ xuất khẩu gián tiếp các yếu tố này. Bởi vậy sự phát triển đầu tư quốc tế phụ thuộc rất nhiều vào số lượng và chất lượng dịch vụ đi kèm. Như vậy, trên đây chúng ta có thể nhận thấy được một cách rõ ràng là đầu tư quốc tế có mối quan hệ rất chặt chẽ với các hình thức quan hệ kinh tế quốc tế khác và mối quan hệ giữa chúng có tính chất bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau.           4.1.2. Đặc điểm của đầu tư quốc tế           4.1.3. Các xu hướng vận động của đầu tư quốc tế hiện nay a. Nguồn gốc và lịch sử phát triển của đầu tư quốc tế * Động thái dòng đầu tư FDI Từ cuối thế kỷ XIX đến cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất, Anh và một số nước tư bản phát triển khác mở rộng hệ thống thuộc địa của họ ở các nước đang phát triển. Các chính sách khai thác thuộc địa của các nước này đã thúc đẩy các công ty của họ mở rộng đầu tư vào các nước thuộc địa. Từ thời gian này, hình thức FDI được hình thành chủ yếu nhằm khai thác nguồn nguyên liệu tự nhiên dồi dào và giá nhân công rẻ ở các nước thuộc địa. Có thể nói rằng, mặc dù sự hình thành FDI không có quan hệ trực tiếp đến việc mở rộng hệ thống thuộc địa của các nước, nhưng cho đến chiến tranh thế giới thứ nhất, sự phát triển của FDI luôn gắn liền với các chính sách khai thác thuộc địa của các nước. Trong giữa hai cuộc chiến tranh thế giới, nguồn gốc của đầu tư quốc tế không còn tập trung từ các nước tư bản Châu Âu, mà bắt đầu có sự tham gia đáng kể của mỹ và Nhật Bản. Trong giai đoạn này, dòng vốn đầu tư quốc tế chủ yếu dưới hình thức FDI và bị tác động mạnh mẽ bởi cuộc phân chia thuộc địa giữa các nước đế quốc. Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến cuối thập kỷ 50, chương trình phục hồi kinh tế  Châu Âu và Nhật Bản của Mỹ đã thúc đẩy mạnh đầu tư ra nước ngoài của nước này. Đến cuối thập kỷ 60, dòng vốn đầu tư quốc tế vẫn chủ yếu lưu chuyển giữa các nước tư bản phát triển, dưới hình thức FDI và tập trung vào khu vực chế tạo. Từ cuối thập kỷ 70 đến giữa những năm 80, dòng vốn FDI có sự biến động không ổn định và ở mức bình quân khoảng 50 tỷ USD. Tuy nhiên, từ giữa thập kỷ 80 đến đầu thập kỷ 90, dòng vốn này tăng mạnh trong các nước phát triển và đang phát triển. Tổng dòng vốn FDI trên thế giới đạt khoảng 400 tỷ USD vào năm 1997. Tuy nhiên, tỷ trọng FDI trong tổng dòng lưu chuyển này vào các nước đang phát triển đã tăng dần lên và chiếm khoảng 30% trong những năm gần đây. Trong các nước phát triển, dòng vốn FDI tập trung chủ yếu vào khu vực Tây Âu và Bắc Mỹ. Các nước đang phát triển trong khu vực Đông Nam Á và Châu mỹ latinh chiếm phần lớn tổng dòng vốn FDI vào các nước đang phát triển, trong đó, đặc biệt là các nước NICs Châu Á.. Cũng từ giữa thập kỷ 80 lại đây, một đặc điểm nổi bật trong dòng lưu chuyển FDI trên thế giới là xuất hiện ngày càng tăng dòng vốn đầu tư ra nước ngoài của các nước đang phát triển, trong đó nổi bật là từ các nước mới công nghiệp hóa NICs. Theo báo cáo đầu tư quốc tế năm 1998 cho thấy, nếu trong các năm 1986 - 1991 FDI ra nước ngoài của các nước đang phát triển chỉ ở mức bình quân 11.131 triệu USD thì đến những năm đầu thập kỷ 90 dòng vốn này đã tăng nhanh chóng đạt tới mức 61.138 triệu USD vào năm 1997. Như vậy, qua các số liệu thống kê cho thấy động thái FDI tuy có biến động không ổn định nhưng có xu hướng gia tăng nhanh, đặc biệt là từ cuối thập kỷ 80. Hiện tượng này phản ánh rõ tác động tích cực của những sự thay đổi trong môi trường đầu tư quốc tế trong từ thời gian này. * Động thái của dòng đầu tư PFI Có thể nói, đầu tư quốc tế bắt đầu được hình thành từ nước Anh vào khoảng cuối thế kỷ XIX. Do nhu cầu vốn lớn của cuộc cách mạng công nghiệp, nước Anh đã phát hành các trái phiếu chính phủ để huy động vốn từ các nước phát triển Tây Âu. Bởi thế, hình thức đầu tư nước ngoài gián tiếp xuất hiện đầu tiên trong lịch sử phát triển của đầu tư quốc tế. Mặc dù có lịch sử hình thành sớm hơn hình thức FDI, nhưng hình thức đầu tư nước ngoài gián tiếp chỉ thực sự phát triển từ đầu thập kỷ 90 và tập trung vào các thị trường mới nổi. Nếu năm 1986 dòng vốn đầu tư gián tiếp vào các nước này khoảng 706 triệu USD thì đến năm 1990 đạt 3.390 triệu USD và năm 1995 lên đến 34.537 triệu USD, tính bình quân giai đoạn 1986 - 1995, dòng vốn này vào các nước có thị trường mới nổi khoảng 15.253 triệu USD/năm. Dòng vốn đầu tư gián tiếp tập trung nhiều vào hai khu vực là Châu Á và Châu Mỹ latinh. Giữa các năm 1992 - 1993, dòng vốn này đã tăng 560% vào Châu Á và 230% vào Châu Mỹ latinh. Nhưng sau đó, động thái của nó biến động thất thường, giảm 2% vào năm 1994 và tăng 4% năm 1995 ở Châu Á, trong khi đó dòng vốn này liên tục giảm khoảng 50% ở Châu Mỹ latinh vào các năm tương ứng. Dòng vốn đầu tư gián tiếp vào Châu Phi không đáng kể. b. Các xu hướng đầu tư quốc tế ngày nay Cho tới nay, đầu tư quốc tế đã trải qua nhiều xu hướng phát triển: đầu tư truyền thống (các nước phát triển đầu tư vào các nước đang phát triển hoặc đầu tư có tính một chiều); đầu tư lẫn nhau giữa các nước phát triển và đầu tư vào các nước đang phát triển của các nước phát triển. Xu hướng đầu tư quốc tế ngày nay là sự đan xen giữa các xu hướng này. Tuy nhiên, xu hướng đầu tư lẫn nhau giữa các nước đang phát triển ngày càng gia tăng. Hiện tượng này phản ánh tốc độ hòa nhập nhanh chóng của các nước đang phát triển vào quá trình toàn cầu hóa. Một đặc điểm nổi bật khác là xu hướng tự do hóa đầu tư ngày càng mạnh giữa các nước, khu vực và thế giới. Hơn một thập kỷ qua, các qui chế về FDI của các nước có sự thay đổi nhanh chóng, từ bảo hộ đến giới hạn hoặc kiểm soát và gần đây chuyển sang thúc đẩy theo chiều hướng tự do hóa FDI ở phạm vi khu vực và từng nhóm nước. Xu hướng đầu tư theo hình thức M&A tăng mạnh trong những năm gần đây. Theo báo cáo đầu tư quốc tế năm 1998, tổng giá trị các vụ mua lại và sáp nhập giữa các nước này lên tới 342 tỷ USD, chiếm 70% tổng giá trị các vụ mua lại và sáp nhập giữa các TNCs của các nước trên thế giới. Hình thức M&A diễn ra phổ biến trong các TNCs lớn ở các ngành công nghiệp ôtô, dược phẩm, viễn thông và tài chính. 600 4.2. Các lý thuyết về đầu tư quốc tế Tại sao xuất hiện dòng đầu tư quốc tế? Theo Ủy ban thương mại  và phát triển của Liên hiệp quốc UNCTAD, căn cứ vào mục đích của đầu tư, chia đầu tư quốc tế thành các hình thức sau: 1. Đầu tư tìm kiếm nguồn tài nguyên Đây là hình thức đầu tư nguyên thủy của các công ty xuyên quốc gia vào các nước đang phát triển. Hình thức này có tác dụng thúc đẩy thương mại thông qua nhập khẩu tư liệu sản xuất  từ nước đầu tư đến nước nhận đầu tư và xuất khẩu thành phẩm/bán thành phẩm từ nước nhận đầu tư ra nước ngoài. 2. Đầu tư tìm kiếm thị trường Là hình thức đầu tư sản xuất cùng loại sản phẩm với nước đầu tư và tiêu thụ sản phẩm tại nước nhận đầu tư, được gọi là đầu tư theo chiều ngang. Hình thức này là động cơ chính đối với hoạt động đầu tư vào lĩnh vực sản xuất của các nước đang phát triển trong các thập kỷ 60 – 70 của thế kỷ XX. Đây là thời kỳ thịnh vượng của công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu ở các nền kinh tế mới công nghiệp hóa. Hình thức này xuất hiện do các các rào cản thương mại và chi phí vận chuyển cao. 3. Đầu tư tìm kiếm hiệu quả Là hình thức trong đó nhà đầu tư phân bổ một số công đoạn sản xuất ở nước ngoài để tận dụng chi phí thấp nhằm tối ưu hóa quá trình sản xuất. Hình thức này được gọi là đầu tư theo chiều dọc, chủ yếu áp dụng cho các ngành công nghiệp hướng vào xuất khẩu. Hình thức cổ điển nhất của nó là đầu tư sang các nước đang phát triển nhằm tìm kiếm các nguồn lao động chi phí thấp. 4. Đầu tư tìm kiếm tài sản chiến lược Là hình thức xuất hiện ở giai đoạn cao của toàn cầu hóa sản xuất, khi các công ty đầu tư ra nước ngoài để tìm kiếm khả năng hợp tác nghiên cứu và triển khai (R&D) 4.2.1. Lý thuyết vĩ mô -  Mô hình MacDougall – Kemp Trên cơ sở mô hình lý thuyết thương mại quốc tế H – O, Richard S Eckaus đã loại bỏ giả định không có sự di chuyển các yếu tố sản xuất (vốn, công nghệ...) giữa các nước để mở rộng phân tích nguyên nhân hình thành đầu tư quốc tế. Theo tác giả, mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận ở phạm vi toàn cầu nhờ vào sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư là nguyên nhân chủ yếu làm xuất hiện dòng di chuyển vốn đầu tư quốc tế. Richard cho rằng, nước đầu tư thường có hiệu quả sử dụng vốn thấp (thừa vốn), trong khi nước nhận đầu tư lại có hiệu quả sử dụng vốn cao hơn (thiếu vốn). Vì vậy, chênh lệch hiệu quả sử dụng vốn giữa các nước đã làm xuất hiện lưu chuyển dòng vốn đầu tư giữa các nước. Cùng với quan điểm trên, A MacDougall đã giải thích hiện tương đầu tư quốc tế từ phân tích so sánh giữa chi phí và lợi ích của việc di chuyển vốn quốc tế. Tác giả cho rằng, chênh lệch về năng suất cận biên của vốn giữa các nước là nguyên nhân dẫn đến lưu chuyển vốn quốc tế. Quan điểm này được M Kemp phát triển thành mô hình MacDougall – Kemp. Theo đó, những nước phát triển (dư thừa vốn) có năng suất cận biên của vốn thấp (Marginal productivity of capital) hơn năng suất cận biên của vốn ở các nước đang phát triển. Vì thế xuất h
Tài liệu liên quan