10 kiệt tác quân sự của người Việt
Trong hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, các thế hệ người Việt đã sáng tạo ra nhiều loại vũ khí, công trình quân sự có một không hai khiến thế giới đầy ngưỡng mộ.
Bạn đang xem nội dung tài liệu 10 kiệt tác quân sự của người Việt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
10 kiệt tác quân sự của
người Việt
Trong hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, các thế hệ
người Việt đã sáng tạo ra nhiều loại vũ khí, công trình quân
sự có một không hai khiến thế giới đầy ngưỡng mộ.
Được xây dựng vào thế kỷ thứ 3 TCN, Cổ Loa là tòa thành
cổ có cấu trúc thuộc loại độc đáo nhất trong lịch sử xây dựng
thành lũy của người Việt. Thành được xây dựng theo hình
trôn ốc 9 vòng, chu vi lên tới 9 dặm. Ngoài mỗi vòng thành
đều có hào nước thông với sông Hoàng Giang, trở thành hào
nước tự nhiên rất lợi hại. Tướng Triệu Đà của phương Bắc đã
nhiều lần đánh Cổ Loa nhưng đều thất bại. Cuối cùng đã sụp
đổ vì kế phản gián thâm độc của Triệu Đà.
Vào thời Âu Lạc, tướng quân Cao Lỗ đã sáng chế ra một loại
vũ khí cực kỳ lợi hại là nỏ Liên Châu, loại nỏ có khả năng
bắn ra nhiều mũi tên liên tiếp. Loại nỏ này đã được thần
thánh hóa với truyền thuyết thần Kim Quy đưa cho An
Dương Vương một chiếc móng của mình để làm lẫy nỏ. Bởi
vậy, dân gian thường gọi đây là nỏ thần. Khi xâm lược Âu
Lạc, quân Triệu Đà đã hứng chịu thiệt hại nặng nề bởi các
trận "mưa tên" từ nỏ Liên Châu và phải lui binh.
Gắn với các chiến thắng huyền thoại trên sông Bạch Đằng,
các bãi cọc gỗ đã trở thành thứ vũ khí huyền thoại của người
Việt. Lần đầu tiên, những chiếc cọc gỗ chôn vùi quân xâm
lược là vào năm 938, khi vua Nam Hán phải thủy quân tràn
vào nước ta qua ngả sông Bạch Đằng. Lần thứ 2 là vào năm
1288, khi danh tướng Trần Hưng Đạo áp dụng trận địa cọc
ngầm của Ngô Quyền 350 năm trước để đại phá đạo thủy
binh hùng mạnh của quân Nguyên.
Trong cuộc chiến chống Tống (thế kỷ 11), Lý Thường Kiệt
đã biến sông Như Nguyệt (sông cầu ngày nay) thành một
phòng tuyến quân sự trọng yếu. Chiến lũy của phòng tuyến
được xây bằng đất có đóng cọc tre dày nhiều tầng làm phên
dậu. Dưới bãi sông bố trí hố chông ngầm. Quân Lý đóng trại
trên suốt chiến tuyến, có thêm thủy binh phối hợp tạo nên
một tuyến phòng thủ rất vững chắc. Sau hai đợt công phá
không thành, quân Tống đã bị quân nhà Lý phản công và
thảm bại trước phòng tuyến Như Nguyệt.
Thần cơ sang pháo là phát minh lớn về vũ khí của thời nhà
Hồ, cũng như của toàn lịch sử dân tộc. Đây là thành quả sáng
tạo của nhà sáng chế lỗi lạc Hồ Nguyên Trừng. Đây được coi
là kiểu đại bác đầu tiên ở nước ta, sử dụng đạn đúc bằng chì,
gang hoặc đá, có sức công phá rất cao. Sau khi nhà Hồ thua
trận trước quân Minh, vua nhà Minh đã bắt Hồ Nguyên
Trừng về dạy cách chế súng thần cơ để trang bị cho quân đội
của mình.
Bên cạnh thần cơ sang pháo, Hồ Nguyên Trừng cũng chế tạo
ra thuyền Cổ lâu - một loại thuyền chiến lớn đóng đinh sắt,
có hai tầng boong với hàng chục tay chéo và hai người điều
khiển một mái chèo. Đáy thuyền được làm thêm một "đáy"
nữa, chia bụng thuyền làm hai phần: phần dưới để lính chèo
thuyền, phần trên giấu lính chiến đấu. Cổ lâu thuyền vừa
được dùng để tải lương, vừa sẵn sàng chiến đấu khi được
trang bị súng Thần cơ đầy uy lực.
Người Việt sử dụng voi trong các cuộc chiến từ rất sớm,
nhưng phải đến thời Tây Sơn, thứ vũ khí đặc biệt này mới đạt
đến đỉnh cao. Vua Quang Trung - Nguyễn Huệ đã biến voi
thành lực lượng hỏa lực cơ động, mang theo đại bác và hỏa
pháo trên lưng, thực hiện nhiệm vụ của một phương tiện đột
kích đáng sợ. Lực lượng này đã góp công lớn trong trận Ngọc
Hồi - Đống Đa đánh bại quân Thanh năm 1789.
Trước sự đe dọa của chiến thuyền phương Tây, vua Quang
Trung - Nguyễn Huệ đã cho đóng những chiến hạm Định
Quốc có sức mạnh tương đương dựa trên sự kết hợp kỹ thuật
phương Tây và tay nghề của thợ đóng thuyền Đàng Trong.
Đây thực sự là những pháo đài di động trên biển với khả
năng chở voi chiến và trang bị 50 - 60 khẩu đại bác hạng
nặng. Vào thời điểm cao trào, thủy quân Tây Sơn có gần 20
"pháo đài" như vậy.
Đường Trường Sơn hay đường mòn Hồ Chí Minh là mạng
lưới giao thông quân sự chiến lược chạy từ Bắc vào Nam của
lực lượng Giải phóng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.
Quân Mỹ - Sài gòn đã đánh phá bằng nhiều chiến dịch bộ
binh, không quân và rải chất độc màu da cam để làm trụi lá
cây, dùng chiến tranh hóa học tạo mưa và bùn để phá đường,
nhưng không thể nào cắt đứt huyết mạch giao thông này.
Tuyến đường huyền thoại đã góp một vai trò rất quan trọng
cho thắng lợi của nhân dân Việt Nam.
Địa đạo Củ Chi là một hệ thống phòng thủ trong lòng đất,
được các chiến sĩ giải phóng xây dựng lại điểm cuối Đường
mòn Hồ Chí Minh. Toàn hệ thống địa đạo có chiều dài
200km với 3 tầng sâu khác nhau, chiều sâu từ 3m đến 12m,
gồm nhiều phòng chức năng để đảm bảo mọi hoạt động sống
trong lòng đất. Bên trên địa đạo là rất nhiều ụ chiến đấu, bãi
mìn, hố đinh, hầm chông... Quân đội Mỹ - Sài Gòn đã liên
tục tấn công vào hệ thống địa đạo, nhưng không đạt được bất
cứ thành công nào.