90% doanh nghiệp cho rằng làm PR là "chạy" cho được một số 
tin, bài trên báo chí; trong khi cũng có đến 90% các nhà báo cho 
rằng tin, bài PR là "tô vẽ, đánh bóng" cho doanh nghiệp.
Kỷ nguyên công nghệ đang từng ngày, từng giờ khiến thế giới 
truyền thông thay đổi chóng mặt. Trong một thế giới biến động 
không ngừng, làm thế nào để những người làm công tác quan hệ 
công chúng (PR) và marketing tại doanh nghiệp có thể tiếp cận 
khách hàng theo cách hiệu quả nhất thông qua các hoạt động truyền thông?
                
              
                                            
                                
            
                       
            
                 10 trang
10 trang | 
Chia sẻ: maiphuongtt | Lượt xem: 1838 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu 90% tin bài PR là "tô vẽ, đánh bóng" cho doanh nghiệp?, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
90% tin bài PR là "tô vẽ, đánh 
bóng" cho doanh nghiệp? 
90% doanh nghiệp cho rằng làm PR là "chạy" cho được một số 
tin, bài trên báo chí; trong khi cũng có đến 90% các nhà báo cho 
rằng tin, bài PR là "tô vẽ, đánh bóng" cho doanh nghiệp. 
Kỷ nguyên công nghệ đang từng ngày, từng giờ khiến thế giới 
truyền thông thay đổi chóng mặt. Trong một thế giới biến động 
không ngừng, làm thế nào để những người làm công tác quan hệ 
công chúng (PR) và marketing tại doanh nghiệp có thể tiếp cận 
khách hàng theo cách hiệu quả nhất thông qua các hoạt động 
truyền thông? 
Đó là câu hỏi chủ điểm được đặt ra tại hội thảo "Xu hướng truyền 
thông mới", do Thời báo Kinh tế Việt Nam tổ chức tại Hội An, 
ngày 26/9, với sự tham gia của đông đảo đại diện doanh nghiệp 
và các chuyên gia trong lĩnh vực marketing và truyền thông. Câu 
hỏi này lần lượt đã được các diễn giả phân tích, giải đáp dưới 
các góc độ khác nhau. 
Ad hay Ed? 
90% doanh nghiệp cho rằng làm PR là "chạy" cho được một số 
tin, bài trên báo chí. 90% các nhà báo cho rằng tin, bài PR là "tô 
vẽ, đánh bóng" cho doanh nghiệp. Nêu lên những con số tự ước 
tính nói trên trong phần tham luận của mình, nhà báo kỳ cựu Lê 
Quốc Vinh, người hiện là Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng 
giám đốc tập đoàn Le Group, đã đề cập đến một vấn đề khá hóc 
búa hiện nay: làm sao lấp đầy khoảng cách giữa mong muốn, 
nhu cầu truyền thông của doanh nghiệp và sự khách quan, đáng 
tin cậy của thông tin trên báo chí? 
Ông Vinh bắt đầu dẫn giải từ việc phân loại phương thức truyền 
thông của doanh nghiệp hiện nay thành hai dạng chính: bài viết 
quảng cáo (advertorial) và bài viết PR (edtorial). Theo đó, 
advertorial là quảng cáo được viết dưới dạng một bài báo, tuy 
nhiên có chú dẫn thông báo là bài viết quảng cáo và thường 
không có tên tác giả. Advertorial cũng thường được trình bày như 
một phần riêng biệt trong ấn phẩm, và có nội dung do doanh 
nghiệp (hoặc công ty PR) thực hiện và phê duyệt. Trong khi đó, 
editoral là bài viết mang tính độc lập của nhà báo, cung cấp các 
nội dung có mục đích, thông tin xác thực và có xu hướng đáng tin 
cậy đối với người đọc, nhằm biến thông tin PR trở thành thông tin 
có giá trị thực sự. 
Ưu, nhược điểm của từng loại hình được ông Vinh phân tích cặn 
kẽ. Mặc dù advertorial khá hữu dụng trong trường hợp doanh 
nghiệp muốn đặt nặng thông tin về đặc điểm của sản phẩm, khi 
cần hướng dẫn chi tiết về tính chất hay cách sử dụng sản phẩm, 
hoặc khi đơn giản là không có một "câu chuyện hay" nào để kể, 
song dạng bài viết này thường quá chú tâm đến "tô son điểm 
phấn" cho thương hiệu, tự làm lộ rõ tính chất quảng cáo, đồng 
thời nội dung thường "nông", hời hợt, thiếu tính hấp dẫn của báo 
chí, không phù hợp với tiêu chí, đặc điểm của tờ báo. Đó là chưa 
kể vị trí đặt bài thường không phù hợp, và cách trình bày nhiều 
khi lạc lõng, không giống phong cách chung của tờ báo. 
Những nhược điểm của advertorial lại là ưu điểm của edtorial, khi 
bài viết do tờ báo phát triển và thực hiện, không bị doanh nghiệp 
chi phối về nội dung và hình thức, có tính khách quan, chân thực 
cao và do đó tạo được niềm tin nhất định đối với độc giả. Năm 
bước cụ thể tạo ra một bài viết edtorial được ông Vinh liệt kê: tìm 
được một câu chuyện hấp dẫn - câu chuyện đó phù hợp với đặc 
điểm riêng của tờ báo - câu chuyện đó có nội dung hữu ích cho 
người đọc - tìm ra những phương thức thể hiện khác nhau - tạo 
ra những "góc cạnh" khác nhau cho mỗi chủ đề. 
"Cả hai phương thức này chúng ta đều sẽ có lúc cần đến. 
Advertorial đem đến những thông tin mà doanh nghiệp muốn 
truyền tải một cách trực tiếp và nhanh nhất đến với tâm trí độc 
giả. Tuy nhiên, edtorial lại để lại ấn tượng sâu sắc và niềm tin 
chân thực đối với công chúng. Vì thế, chỉ khi nào doanh nghiệp 
không thể sử dụng hình thức edtorial thì hãy dùng đến 
advertorial. Biết kết hợp cả hai hình thức này thì doanh nghiệp sẽ 
có được lợi ích lớn nhất từ một nguồn kinh phí nhất định dành 
cho công tác truyền thông, mà độc giả thì cũng sẽ có cái nhìn đa 
chiều hơn về thương hiệu", ông Vinh nói. 
Thời của mạng xã hội 
Việt Nam hiện có khoảng 24 triệu người sử dụng Internet (gần 
30% dân số), lọt vào top 20 quốc gia và vùng lãnh thổ có số 
người dùng Internet nhiều nhất thế giới, theo một kết quả điều tra 
mới công bố gần đây. Lượng người dùng Internet tại Việt Nam 
cũng là cao nhất trong khu vực Đông Nam Á. Trong mối tương 
quan với thực tế này, các mạng xã hội ngày càng có sức lan tỏa 
lớn, trong khi điều thú vị là các phương tiện truyền thông đại 
chúng trong nước dường như cũng ngày càng mang tính "đối 
thoại" nhiều hơn. 
Nêu ra những điểm trên, TS. Nguyễn Thanh Sơn, Tổng giám đốc 
Công ty T&A Ogilvy, lập luận: đã đến lúc các nhà sản xuất/cung 
cấp sản phẩm, dịch vụ phải nghiên cứu cộng đồng mạng tại Việt 
Nam, lắng nghe khách hàng nói gì, quan tâm gì..., để từ đó, xây 
dựng những chương trình tiếp thị khả thi tới khách hàng. 
Các mạng xã hội ngày càng có sức lan tỏa lớn, trong khi điều thú 
vị là các phương tiện truyền thông đại chúng trong nước dường 
như cũng ngày càng mang tính "đối thoại" nhiều hơn. 
Ông dẫn chứng, theo điều tra, có tới 40% người tiêu dùng châu Á 
khi mua sản phẩm đều có tham khảo những thông tin qua các 
mạng xã hội. Nhiều hãng đã xây dựng những trang web mang 
tính tương tác cao với khách hàng. Các mạng Facebook, 
Youtube, Twitter... đã được nhiều nhà sản xuất khai thác tối đa 
thế mạnh trong việc quảng bá hình ảnh sản phẩm, kết nối người 
tiêu dùng và sử dụng dịch vụ. 
Xu hướng truyền thông "truyền miệng" trên phạm vi toàn cầu, bao 
gồm cả hai kênh online và offline, được TS. Sơn đặc biệt lưu ý 
với các đại diện doanh nghiệp. Ông "hiến kế", xu hướng này có 
thể được doanh nghiệp chủ động tạo ra bằng cách tìm kiếm và 
xác định những nhân vật có tầm ảnh hưởng nhất định, hoặc thiết 
lập những nhóm hoạt động nhằm mục đích chia sẻ thông tin và 
khuyến khích sử dụng sản phẩm, dịch vụ. Tiếp theo là tạo ra 
những hoạt động gây tiếng vang và ảnh hưởng trong cộng đồng 
nhằm tăng độ nhận biết của thương hiệu, gây dựng lòng tin và sự 
trung thành với thương hiệu. 
Quản lý khủng hoảng trong kỷ nguyên kết nối 
Nhìn nhận nhu cầu truyền thông của doanh nghiệp dưới một góc 
độ khác là quản lý khủng hoảng, ông Yap Boh Tiong, Chủ tịch 
Tập đoàn Truyền thông Mileage, dẫn chứng một loạt vụ việc thực 
tiễn từng xảy ra thời gian gần đây trên thế giới: vụ đánh bom 
Khách sạn Ritz Carlton tại Jakarta (Indonesia), vụ sập đường cao 
tốc Nicoll tại Singapore năm 2004, vụ đắm tàu chở hàng Hyundai 
105, khiến hơn 4.000 ôtô mắc cạn tại đảo Sentosa, cũng trong 
năm 2004... 
Đi từ bản chất, ông Yap Boh Tiong cho rằng khủng hoảng truyền 
thông của doanh nghiệp thường có tính đột ngột, có tác động 
mạnh và khẩn cấp, bắt nguồn từ những sự cố lớn. Khủng hoảng 
thường để lại nhiều hệ quả tiêu cực, có khi kéo dài. Tin tức "ăn 
theo" khủng hoảng sẽ lan xa hơn khi nó ảnh hưởng trực tiếp đến 
người dân, công ty có danh tiếng, dẫn đến thương vong, ô nhiễm 
môi trường, hoặc có khi đơn giản vì rơi vào đúng thời điểm báo 
chí... ít tin tức. Ngày nay, khủng hoảng một khi xảy ra càng khó 
kiểm soát vì tin tức có thể lan truyền ngay lập tức, độc giả có trình 
độ cao hơn cũng đồng nghĩa sẽ đòi hỏi nhiều thông tin hơn, cũng 
như các cộng đồng thông tin ngày càng đông đảo hơn. 
 Khủng hoảng truyền thông của doanh nghiệp thường có tính đột 
ngột, có tác động mạnh và khẩn cấp 
Hành động có trách nhiệm và hành động tức thì là hai điểm được 
vị diễn giả này nhấn mạnh khi đề cập đến vấn đề quản lý khủng 
hoảng tại doanh nghiệp, nhằm mục tiêu bảo vệ thương hiệu và 
kiểm soát thiệt hại, đặc biệt khi thương hiệu chính là tài sản quý 
giá nhất của doanh nghiệp và không thể thay thế. 
Đặc biệt, việc tận dụng thế mạnh truyền thông trên nền tảng 
mạng xã hội là yếu tố mà doanh nghiệp rất nên cân nhắc, do có 
thể theo dõi, đo lường và chính xác mức độ ủng hộ/phản đối, có 
thể thiết lập nhanh chóng các đơn thỉnh cầu hay kiến nghị, cũng 
như giúp tạo ra con đường ngắn nhất để doanh nghiệp tiếp cận 
và trực tiếp giải thích với công chúng.