TÓM TẮT
A.X. Griboedov, bạn thân thiết của những chiến sĩ Tháng Chạp, tác giả vở hài kịch nổi
tiếng “Khổ vì trí tuệ”, người sát cánh cùng A.X.Puskin và nhiều nhà văn tiến bộ khác đã
kiên trì đấu tranh cho sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa hiện thực trong văn học
Nga nửa đầu thế kỉ XIX. Mặc dù vậy, cuộc đời và sự nghiệp của ông vẫn chưa được nghiên
cứu nhiều ở Việt Nam. Bước đầu phác thảo chân dung con người đặc biệt ấy là nội dung
của bài viết này.
10 trang |
Chia sẻ: thanhle95 | Lượt xem: 255 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu A.X. Griboedov - Một trí tuệ vinh quang và cay đắng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
5
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 9 - Thaùng 4/2012
A.X. GRIBOEDOV - MỘT TRÍ TUỆ VINH QUANG
VÀ CAY ĐẮNG
TRẦN THANH BÌNH(*)
TÓM TẮT
A.X. Griboedov, bạn thân thiết của những chiến sĩ Tháng Chạp, tác giả vở hài kịch nổi
tiếng “Khổ vì trí tuệ”, người sát cánh cùng A.X.Puskin và nhiều nhà văn tiến bộ khác đã
kiên trì đấu tranh cho sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa hiện thực trong văn học
Nga nửa đầu thế kỉ XIX. Mặc dù vậy, cuộc đời và sự nghiệp của ông vẫn chưa được nghiên
cứu nhiều ở Việt Nam. Bước đầu phác thảo chân dung con người đặc biệt ấy là nội dung
của bài viết này.
Từ khoá: A.X.Griboedov, sự nghiệp, trí tuệ, tiến bộ, văn học Nga, chủ nghĩa hiện thực
ABSTRACT
A.X.Griboedov, the author of the famous comedy “The Misery from Intelligence”, had
a close connection with the December fighters. He worked side by side with A.X.Puskin
and the other progressive writers, who were consistently for the founding and development
of Russian realism in the Russian literature in the first half of the 19th century. However,
his life and works have not yet been studied by many researchers of Vietnam. The content
of this article is some preliminary descriptions of this unique writer.
Key words: A.X.Griboedov, career, spiritual, advanced, Russian literature, realism
Trong lịch sử văn học Nga nửa đầu thế
kỉ XIX, A.X.Griboedov là một gương mặt
có sức hấp dẫn kì lạ. Cuộc đời ngắn ngủi
của ông là sự dấn thân của một trí thức tiến
bộ, quyết liệt, hào hoa. Tuy chỉ nổi danh
với một tác phẩm duy nhất Khổ vì trí tuệ,
Griboedov vẫn xứng đáng được xếp vào số
các nhà văn đã đi tiên phong trong cuộc
đấu tranh cho sự hình thành và phát triển
của chủ nghĩa hiện thực Nga.
Aleksandr Sergheevich Griboedov sinh
ngày 4/1/1795
(1) tại Moskva trong một gia
đình dòng dõi quý tộc. Ngay từ thuở mới
bập bẹ tập nói, Griboedov đã theo học với
các gia sư nổi tiếng nhất Moskva và sớm
bộc lộ tư chất của một thiên tài. Mới 6 tuổi,
Griboedov đã thông thạo bốn ngoại ngữ
(*)
TS, Nhà xuất bản Giáo dục tại TP. Hồ Chí Minh
Pháp, Anh, La tinh, Hi Lạp và tỏ ra có
năng khiếu âm nhạc tuyệt vời. Lên 7 tuổi,
Griboedov vào học trường nội trú thuộc
ĐHTH Moskva – một trong những trường
phổ thông tốt nhất nước Nga thời đó, được
thành lập theo sáng kiến của nhà bác học vĩ
đại M. Lomonosov.
Năm 1806, khi mới 11 tuổi, Griboedov
đã trở thành sinh viên Khoa Ngữ văn,
ĐHTH Moskva. Chỉ hai năm sau, ông đã
tốt nghiệp với học vị phó tiến sĩ. Sau đó,
Griboedov chuyển sang Khoa Luật và cũng
chỉ sau hai năm, ông lại tốt nghiệp xuất sắc
với học vị phó tiến sĩ thứ hai. Không dừng
lại ở đó, Griboedov theo học Khoa Tự
nhiên, tiếp tục nghiên cứu toán – lí thêm
hai năm nữa. Như vậy, chỉ trong sáu năm
theo học ở ĐHTH Moskva, Griboedov đã
6
nhanh chóng tiếp thu được một lượng kiến
thức khổng lồ thuộc nhiều lĩnh vực khác
nhau, làm chủ thêm hai ngoại ngữ là tiếng
Đức và tiếng Ý, nổi danh là một trong
những khối óc siêu việt nhất nước Nga thời
bấy giờ.
Ngay từ những năm cuối thế kỉ XVIII,
Trường ĐHTH Moskva đã là một trung
tâm văn hoá, khoa học, giáo dục có vai trò
quan trong trong đời sống chính trị, xã hội
của nước Nga. Sang những năm đầu thế kỉ
XIX, dưới tác động mạnh mẽ của những dự
án cải cách cấp tiến do M. Speranski đề
xướng, nơi đây là chiếc nôi đào tạo ra cả
một thế hệ trí thức quý tộc tiến bộ mà rất
nhiều người trong số đó sau này đã trở
thành những chiến sĩ Tháng Chạp tiêu biểu
như V.Ph. Raevski, C.P. Trubetskoi, A.I.
Iakubovich, Aleksandr Iakusin, Nikolai
Turghenev, anh em Piot và Mikhain
Saadaev, anh em Nikita và Artamon
Muraviev, v.v. Chính trong môi trường
này, những tư tưởng chính trị tự do, cấp
tiến của Griboedov dần dần hình thành và
phát triển. Ngoài giờ lên lớp, Griboedov
say sưa tìm đọc các tác phẩm của Vonte,
Diderot, Montesquieu, A.N. Radisev, N.I.
Novikov, D.I. Fonvizin v.v, đồng thời,
tích cực tham gia vào các cuộc thảo luận
của sinh viên về những vấn đề triết học và
chính trị thời sự.
Thời kì học đại học cũng là thời kì
Griboedov đi những bước đầu tiên trên con
đường đến với văn chương, mặc dù đó mới
chỉ là những bài thơ trào phúng, châm
biếm nho nhỏ đọc cho bạn bè nghe. Sáng
tác đáng kể nhất của Griboedov thời kì này
có lẽ là vở kịch Dmitri Drianskoi – mô
phỏng theo tác phẩm Dmitri Donskoi của
nhà viết kịch nổi tiếng V.A. Ozerov.
Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại năm
1812 đã làm dang dở kế hoạch bảo vệ luận
án tiến sĩ khoa học của Griboedov. Hoà
vào dòng thác dữ dội của lớp lớp người dân
yêu nước, Griboedov xếp bút nghiên lên
đường ra trận trong đội hình của Trung
đoàn Kị binh Moskva. Mặc dù không trực
tiếp tham gia chiến đấu vì trung đoàn của
ông ngay sau đó được điều về Kazan làm
nhiệm vụ bảo vệ hậu phương nhưng khí thế
hào hùng của cuộc kháng chiến thần thánh,
lòng yêu nước và tinh thần dũng cảm hi
sinh của nhân dân Nga đã in đậm trong tâm
trí Griboedov và trở thành nguồn cảm hứng
mãnh liệt để những năm sau này, ông phác
thảo vở bi kịch lịch sử Năm 1812.
Chiến tranh kết thúc, tháng 3/1813,
Griboedov được điều về Thành phố Brest –
Litovsk làm sĩ quan tuỳ tùng cho tướng
A.X. Kologrivov – tư lệnh các lực lượng
dự bị. Thời gian này, Griboedov bắt đầu
sáng tác văn học. Những bài viết đầu tiên
của ông về đời quân ngũ đã xuất hiện trên
Tạp chí Người đưa tin châu Âu và được
bạn đọc chú ý. Tuy nhiên, bước ngoặt
trong sự nghiệp văn học của Griboedov chỉ
thật sự bắt đầu khi tại Brest – Litovsk (và
sau đó tại Peterburg năm 1814), ông kết
thân với các nhà viết kịch nổi tiếng nhất
đương thời là A.A. Sakhovski, P.A.
Katenin, A.A. Zandr, N.I. Khmenitski v.v.
Nhờ ảnh hưởng của những tên tuổi đó,
Griboedov đã quyết định dành trọn niềm
đam mê văn học của mình cho lĩnh vực sân
khấu. Trong đó, hài kịch là loại hình mà
ông rất mực quan tâm.
Tác phẩm sân khấu đầu tay của
Griboedov là vở kịch Vợ chồng trẻ. Đây
nguyên là một hài kịch Pháp mà theo gợi ý
của Sakhovski, Griboedov đã dịch và
chuyển thể thành một hài kịch thơ. Tháng
9/1815, Vợ chồng trẻ được công diễn trên
sân khấu Peterburg, đánh dấu bước khởi
đầu tốt đẹp của nhà viết kịch đầy triển
7
vọng. Tiếp đó, Griboedov viết vở Gia đình
của mình (cùng với Sakhovski và
Khmenitski), vở Chàng sinh viên (cùng với
Katenin) và cùng Zandr dịch vở hài kịch
của Pháp Sự phản bội giả vờ
Cuối năm 1815, Griboedov quyết định
làm đơn xin giải ngũ. Tháng 3/1816, đơn
của ông được chấp nhận nhưng mãi đến
tháng 6/1817, Griboedov mới trở về
Peterburg làm việc tại Bộ Ngoại giao, nơi
hai học sinh mới tốt nghiệp trường lit-xê là
A.X. Puskin và V.K. Kiukhenbeker cũng
vừa đến tòng sự.
Trong những năm từ 1815 – 1820, đời
sống văn học Nga sôi động không chỉ vì
cuộc tranh luận gay gắt, kéo dài giữa Hội
toạ đàm của những người yêu tiếng Nga –
những người bảo vệ chủ nghĩa cổ điển – với
hội Ardamat – những người bênh vực chủ
nghĩa lãng mạn – mà còn vì sự xuất hiện
của nhóm các nhà văn trẻ như Griboedov,
Katenin, Kiukhenbeker, Zandr với những
quan điểm văn học hoàn toàn mới.
Xuất hiện từ nửa sau thế kỉ XVIII, chủ
nghĩa cổ điển là một thành tựu quan trọng
trong lịch sử phát triển của văn học Nga.
Các nhà văn nổi tiếng thời đó như A.D.
Kantemir, M.V. Lomonosov, A.P.
Sumarokov, H.I. Novikov trong các tác
phẩm của mình đã cố gắng đề cao lí trí,
khoa học để chống lại sự ngu dân, thần bí,
kinh viện, hướng về truyền thống, lịch sử
dân tộc để phê phán thái độ sùng phục
nước ngoài, đề cao những kiểu mẫu chung
nhất của cái đẹp cho mọi dân tộc, mọi thời
đại, phân biệt các thể loại văn học theo
những kết cấu và phong cách chuẩn mực
Những đặc điểm đó đã đóng góp to lớn vào
sự phát triển một thời của văn học Nga.
Tuy nhiên, sang đến thế kỉ XIX, các kiểu
mẫu, chuẩn mực của chủ nghĩa cổ điển lại
trở nên gò bó, cứng nhắc, cản trở khả năng
tự do sáng tạo của người nghệ sĩ trên con
đường đưa văn học thâm nhập vào cuộc
sống của dân tộc với tất cả những mâu
thuẫn phức tạp và những biến cố lớn lao.
Những quy phạm truyền thống tưởng như
bất biến giờ đây đang rạn vỡ trước một
thực tế đã biến đổi và đang phát triển
không ngừng. Vì vậy, tiếp theo chủ nghĩa
cổ điển, sự xuất hiện chủ nghĩa tình cảm
(của N.M. Karamzin) và chủ nghĩa lãng
mạn (của V.A. Zhukovski) là một bước
phát triển tất yếu.
Những năm đầu thế kỉ XIX, Zhukovski
là một tên tuổi lẫy lừng trên thi đàn, “một
Christophe Colomb của văn học Nga,
người đã phát hiện cho nước Nga châu Mĩ
của chủ nghĩa lãng mạn trong thơ ca Nga”
(Belinski). Vốn là một học trò tài năng của
Karamzin, Zhukovski đã “lãng mạn hoá”
chủ nghĩa tình cảm, đưa vào thơ chất lãng
mạn mới mẻ, trẻ trung, trí tưởng tượng
phong phú, nồng nhiệt; đổi mới và làm giàu
thơ ca Nga bằng những biện pháp táo bạo,
những khả năng thể hiện tinh tế và diễn đạt
sâu sắc thế giới nội tâm thầm kín của con
người. Tuy nhiên, chủ nghĩa lãng mạn của
Zhukovski lại “làm cho con người hài lòng
với thực tế bằng cách tô vẽ thực tế, hoặc
khiến họ rời bỏ thực tế để chìm đắm một
cách vô ích vào cái thế giới bên trong của
mình, lôi kéo họ về với những suy tưởng,
về “những bí ẩn thiên định của cuộc đời”,
về “tình yêu, cái chết” (2).
Xuất phát từ thực tế văn học và thực tế
xã hội, nhóm Griboedov một mặt đánh giá
cao ý thức tôn trọng truyền thống dân tộc
của chủ nghĩa cổ điển (không phải ngẫu
nhiên mà nhóm Griboedov được người
đương thời mệnh danh là “những người
sùng cổ mới”), đồng thời, họ cũng kịch liệt
phê phán tính bảo thủ chính trị của hội Toạ
đàm của những người yêu tiếng Nga khi
8
các thành viên chủ chốt A.X. Siskov, D.I.
Khvostov, P.A. Sirinski- Sikhmatov
khăng khăng cho rằng tôn trọng truyền
thống và tính dân tộc độc đáo có nghĩa là
phải bảo vệ, duy trì mọi nền tảng, hệ tư
tưởng và thiết chế cũ của nước Nga thời
Piot I. Trên một bình diện khác, nhóm
Griboedov tuy thừa nhận công lao to lớn
của chủ nghĩa lãng mạn trong việc tích cực
khám phá, thể hiện thế giới nội tâm con
người và đề cao vai trò tự do sáng tạo của
người nghệ sĩ v.v. nhưng họ cũng không
tán thành với hội Ardamat khi trong sáng
tác của V.A. Zhukovski, K.N.
Bachiuskov thiếu vắng tính nhân dân, xa
lánh những vấn đề của thực tế xã hội.
Trong tiến trình lịch sử văn học Nga,
nhóm Griboedov chính là những người đầu
tiên tiếp nối và phát huy truyền thống mĩ
học tiến bộ của A.N. Radisev (1749 –
1802). Sau chiến tranh vệ quốc 1812, sự
vùng dậy của ý thức dân tộc gắn liền với
mối quan tâm sâu sắc đến lịch sử. Trong
nhận thức của “những người sùng cổ mới”,
lịch sử không chỉ là quá khứ với những cổ
tích, huyền thoại mà còn là hiện tại với
những vấn đề thời sự, liên quan không chỉ
đến các bậc vua chúa hay những vĩ nhân,
mà còn liên quan đến tất cả mọi người
trong xã hội. Vì vậy, bên cạnh tính lịch sử,
nhóm Griboedov còn tích cực đấu tranh
cho khái niệm tính nhân dân trong văn học.
Văn học chỉ có thể có tính dân tộc độc đáo
nếu nó giữ một vai trò xã hội xác định và
biểu hiện được ý thức, lợi ích, mong ước
của quảng đại quần chúng.
Đề cập đến khái niệm tính nhân dân
thời kì này, Griboedov đã phát biểu trong
bài phê bình – có lẽ là duy nhất của mình –
trên Tạp chí Người con của tổ quốc, liên
quan đến cuộc luận chiến xung quanh hai
bản balat Lutmila của Zhukovski và Onga
của Katenin. Tuy cùng được dịch từ balat
Lenora của nhà thơ Đức Biurgher nhưng
theo Griboedov, cách dịch tinh tế, âm
hưởng nhẹ nhàng và sắc thái trữ tình, lãng
mạn xa lạ với truyền thống phonklo Nga
của Zhukovski đã không thể hiện đậm nét
được tính nhân dân như cách dịch thô ráp,
bình dị, sống động của Katenin. Cần phải
nói thêm là năm 1833, Puskin đã trở lại
cuộc luận chiến này trong bài Những sáng
tác và dịch thuật của Paven Katenin và
hoàn toàn tán thành quan niệm của
Griboedov. Ông viết: “Bản dịch Lenora
của Biurgher là tác phẩm xuất sắc đầu tiên
của Katenin. Chúng ta đã biết đến tác phẩm
của Biurgher qua bản dịch tuyệt mĩ nhưng
rất xa nguyên tác của Zhukovski. Có thể
nói, Zhukovski dịch Lenora cũng giống
như Byron dịch Faust vậy : không hề chú ý
đến nội dung và tinh thần của nguyên tác.
Cảm nhận được chỗ bất cập này, Katenin
muốn giới thiệu cho chúng ta một Lenora
trong vẻ đẹp nội tại mạnh mẽ của nó, và
ông viết Onga. Tuy nhiên, khi thay những
bức tranh quê thơ mộng, những đêm trăng
hè huyền ảo bằng cái giá treo cổ khủng
khiếp, người đọc không thể không có
những cảm giác hụt hẫng, những phản ứng
khó chịu. Nhà thơ Gnedich đã tổng kết
những cảm giác, phản ứng đó trong một
bài báo mà tính không chính xác của nó đã
được Griboedov chỉ ra”(3).
Như vậy, nếu Puskin là người đặt nền
móng, mở đầu cho quá trình phát triển của
chủ nghĩa hiện thực để văn học Nga từ đó
đi vào thực tại, lấy cuộc sống và thời đại
làm đối tượng khám phá, sáng tạo thì
“cùng chung những tìm tòi và cùng đi đến
chủ nghĩa hiện thực với Puskin là trường
hợp Griboedov. Không hẹn mà nên, quá
trình phát triển của hai người cùng dẫn tới
chủ nghĩa hiện thực là có tính quy luật. Hai
9
người đã góp phần mở ra triển vọng cho
văn học Nga trên cơ sở tính nhân dân và
chủ nghĩa hiện thực”(4).
Giữa lúc hoạt động văn học của
Griboedov ở Peterburg đang sôi nổi trên cả
hai phương diện sáng tác và lí luận thì một
sự kiện bất ngờ đã làm thay đổi đường đời
của ông. Nguyên là thời gian này, do quan
tâm sâu sắc đến lĩnh vực sân khấu,
Griboedov quen biết rất rộng với giới đạo
diễn, diễn viên, trong đó nổi bật là nữ nghệ
sĩ ba lê A.I. Istomina – người vinh dự được
Puskin nhắc đến trong tiểu thuyết thơ
Epgheni Onegin nổi tiếng :
Trên sân khấu, Istomina kiêu hãnh
Đang đứng giữa một bầy tiên có cánh
Và lắng nghe những nốt nhạc thần kì
Nhẹ tưởng chừng như có thể bay đi
Vì một sự hiểu lầm tai hại, V.N.
Seremetev – người yêu của Istomina – đã
thách đấu với A.P. Zavadovski – bạn của
Griboedov. Khi Griboedov đứng ra can
thiệp và thanh minh cho Zavadovski thì
A.I. Iakubovski – bạn của Seremetev – lại
thách đấu với Griboedov. Cuộc đấu súng
kép vô tiền khoáng hậu này xảy ra ngày
12/4/1817. Cặp Seremetev – Zavadovski
đấu trước, và Zavadovski đã bắn tử thương
đối thủ của mình. Trận đấu giữa
Iakubovski và Griboedov do vậy phải dừng
lại. Sau đó, Iakubovski bị bắt và phải chịu
đi đày ở Kavkaz. Griboedov cũng bị gọi
lên thẩm vấn và mấy tháng sau nhận lệnh
dẫn đầu phái bộ ngoại giao Nga đi đàm
phán ở Ba Tư (tức Iran ngày nay).
Cuối tháng 8/1818, Griboedov rời
Peterburg. Những ngày rong ruổi vượt qua
Kavkaz, ông đều đặn ghi nhật kí, kể lại
cuộc hành trình của mình. Ở chặng thứ
nhất, ông viết: “Một ngày tươi sáng.
Những ngọn núi quanh năm tuyết phủ ẩn
hiện qua sương mờ, màu mây xám thấp
thoáng đan xen với màu xanh da trời. Sông
Terech cuộn chảy”(5). Ở chặng thứ sáu, ông
viết: “Kobi hiểm trở – gió, tuyết vây
quanh, dốc cao và vực thẳm. Chúng tôi đi
men theo sườn núi, con đường hẹp và trơn
như đổ mỡ, ngay bên cạnh là sông Terech;
mọi người bị trượt ngã liên tục, chẳng còn
biết đâu là đá, đâu là tuyết, đâu là ánh nắng
mặt trời. Càng lên cao, chúng tôi càng hay
phải băng qua những dòng nước xiết, mệt
tưởng đứt hơi. Chẳng có xóm ấp gì cả,
ngoại trừ mấy túp lều tồi tàn. Chúng tôi
trèo mãi, trèo mãi, cuối cùng cũng lên đến
đỉnh Thập tự ().
Dưới kia là sông Aragva và những bụi
rậm, cánh đồng, những đàn gia súc, những
ngôi nhà đủ kiểu dáng, những pháo đài đổ
nát, những nhà nguyện, nhà thờ Sông
Aragva chảy xiết và dữ dội như sông
Terech. Con đường len lỏi giữa những vườn
lê, vườn táo, vườn nho.
Trời đã tối mịt, bóng đen của tu viện in
đậm trên nền tuyết. Trong đêm tối, đôi lúc
chúng tôi cảm thấy mình như đang vượt
qua những cây cầu. Những ghềnh đá gợi
nhớ về quá khứ”(6).
Vậy là những hình ảnh của thiên nhiên
Kavkaz bí hiểm và hùng vĩ đã được
Griboedov miêu tả rất sinh động hai năm
trước khi Puskin viết trường ca Người tù
Kavkaz (1820) và hai mươi năm trước khi
Lermontov viết tiểu thuyết Nhân vật của
thời đại chúng ta (1841). Có thể cho rằng
với nhật kí đi đường của mình, Griboedov
chính là người đã phác thảo những nét đầu
tiên về thiên nhiên Kavkaz trong văn học
Nga, là một trong những quý tộc Nga đầu
tiên cảm nhận sự gian truân của con đường
hành phương Nam – nơi chỉ ít lâu sau sẽ
trở thành con đường đày ải đối với những
người Tháng Chạp.
Ngày 21/10/1818, phái bộ ngoại giao
10
Nga đến Tiphlis (nay là Tbilisi, thủ đô
Grudia). Tại đây, Griboedov chạm trán với
Iakubovski, và cuộc đấu súng bị hoãn lại
gần một năm trước đó nay mới có điều
kiện thực hiện. Trong trận đấu, Iakubovski
đã bắn trúng tay trái Griboedov. Vết
thương tuy không nghiêm trọng nhưng sau
này cũng để lại trên tay Griboedov một vết
sẹo lớn.
Cuối tháng 2/1819, phái bộ ngoại giao
Nga do Griboedov dẫn đầu đã đến Ba Tư
với nhiệm vụ chủ yếu là đàm phán để đưa
trở về Nga những tù binh bị Ba Tư bắt giữ
trong các cuộc xung đột trước đó. Đây là
một nhiệm vụ cực kì phức tạp vì không
những phía Ba Tư không muốn trao trả tù
binh mà ngay các tù binh Nga cũng không
muốn trở về quê hương vì sợ bị Nga hoàng
trừng phạt. Bằng tài ngoại giao khéo léo,
bằng lòng nhân ái và cả tinh thần quả cảm,
Griboedov đã kiên trì thuyết phục triều
đình Ba Tư và lấy danh dự của mình đứng
ra bảo đảm tính mạng cho tất cả những ai
tình nguyện trở về. Nhờ vậy, cho đến ngày
kết thúc nhiệm kì công tác, Griboedov đã
tổ chức đưa được hàng nghìn tù binh về
Nga và góp phần đáng kể vào việc cải thiện
quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Cùng
với việc tranh thủ nghiên cứu và nắm vững
các ngôn ngữ phương Đông như tiếng Ba
Tư, tiếng Ả Rập, tiếng Phạn, thời gian ở Ba
Tư cũng là thời gian Griboedov sáng tác
trường ca Kẻ lãng du và phác thảo tác
phẩm lớn nhất của đời mình: hài kịch Khổ
vì trí tuệ.
Cuối năm 1821, phái bộ ngoại giao
Nga về đến Tiphlis. Tại đây, Griboedov đã
gặp và kết thân với tướng A.P. Ermolov, tư
lệnh quân đoàn độc lập Kavkaz, người có
quyền lực vô song trên khắp vùng Ngoại
Kavkaz bao la. Là học trò của thống soái
lừng danh Xuvorov (1729 – 1800), là anh
hùng của cuộc chiến tranh vệ quốc 1812,
đồng thời lại là tướng chỉ huy mặt trận
nóng bỏng nhất và là tổng trấn vùng đất
phức tạp nhất, Ermolov có vị trí và uy tín
đặc biệt to lớn với cả giới chính trị và quân
sự đương thời. Cảm phục trước trí tuệ và
khả năng ngoại giao của Griboedov, mặc
dù đã có Kiukhenbeker cũng vừa đến từ Bộ
Ngoại giao, Ermolov vẫn thảo công văn
gửi về Peterburg đề nghị được giữ
Griboedov làm trợ lí đối ngoại trong tổng
hành dinh của mình.
Hơn một năm rưỡi ở Tiphlis, Griboedov
miệt mài sáng tạo nghệ thuật. Ngoài các
trường ca và nhiều bài thơ mang đậm hơi
thở, nhịp sống phương Đông, Griboedov đã
hoàn chỉnh đề cương hài kịch Khổ vì trí tuệ
và kịp viết xong hai hồi đầu. Tháng 3/1823,
Griboedov rời Tiphlis về Moskva trong một
chuyến nghỉ phép dài hạn.
Những ngày ở Moskva, Griboedov
hoàn thành hài kịch Khổ vì trí tuệ tại trang
trại của người bạn chí thân X.N. Beghichev
và cùng với P.A. Viazemski sáng tác hài
kịch Ai là anh, ai là chị.
Tháng 6/1824, Griboedov đi Peterburg
để xúc tiến việc in và dàn dựng hài kịch
Khổ vì trí tuệ. Thế nhưng đau khổ thay,
mặc dù có quan hệ cá nhân với cả đại công
tước Nikolai Pavlovich (người sau này là
Nga hoàng Nikolai I), với tổng trấn
Peterburg Milodarovich, bộ trưởng Lanski
và nhiều quan chức cấp cao khác,
Griboedov cũng không thể nào đưa Khổ vì
trí tuệ lọt qua được sự kiểm duyệt khét
tiếng khắc nghiệt của chính quyền chuyên
chế đương thời. Thậm chí khi học sinh
trường sân khấu Peterburg (nơi Sakhovski
lúc đó đang tham gia giảng dạy) muốn
dựng một số trích đoạn trong vở hài kịch
để làm tài liệu học tập,