FDI là một trong những nguồn quan trọng để bù đắp sự thiếu hụt về vốn ngoại tệ
của các nước nhận đầu tư, đặc biệt là đối với các nước kém phát triển.
Hầu hết các nước kém phát triển đều rơi vào cái “vòng luẩn quẩn”
đó là: Thu nhập thấp dẫn đến tiết kiệm thấp, vì vậy đầu tư thấp và rồi hậu quả thu
lại là thu nhập thấp. Tình trạng luẩn quẩn này chính là điểm nút khó khăn mà các
nước này phải vượt qua để hội nhập vào quỹ đạo ta kinh tế hiện đại. Nhiều nước
lâm vào tình trạng trì trệ của nghèo đói bởi lẽ không lựa chọn và tạo ra điểm đột
phá chính xác. Một mắt xích của “vòng luẩn quẩn” này.
14 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 1449 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với nền kinh tế của nước ta, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ảnh hưởng của đầu tư trực tiếp nước
ngoài đối với nềnkinh tế(của nước
Những ảnh hưởng tích cực của FDI
Là nguồn hỗ trợ cho phát triển
FDI là một trong những nguồn quan trọng để bù đắp sự thiếu hụt về vốn ngoại tệ
của các nước nhận đầu tư, đặc biệt là đối với các nước kém phát triển.
Hầu hết các nước kém phát triển đều rơi vào cái “vòng luẩn quẩn”
đó là: Thu nhập thấp dẫn đến tiết kiệm thấp, vì vậy đầu tư thấp và rồi hậu quả thu
lại là thu nhập thấp. Tình trạng luẩn quẩn này chính là điểm nút khó khăn mà các
nước này phải vượt qua để hội nhập vào quỹ đạo ta kinh tế hiện đại. Nhiều nước
lâm vào tình trạng trì trệ của nghèo đói bởi lẽ không lựa chọn và tạo ra điểm đột
phá chính xác. Một mắt xích của “vòng luẩn quẩn” này.
Trở ngại lớn nhất để thực hiện điều đó đối với các nước kém phát triển là vốn đầu
tư và kỹ thuật. Vốn đầu tư là cơ sở tạo ra công ăn việc làm trong nước, đổi mới
công nghệ, kỹ thuật, tăng năng suất lao động vv...Từ đó tạo tiền đề tăng thu nhập,
tăng tích lũy cho sự phát triển của xã hội.
Tuy nhiên để tạo ra vốn cho nền kinh tế chỉ trông chờ vào vốn nội bộ thì hậu quả
khó tránh khỏi là sẽ tụt hậu trong sự phát triển chung của thế giới. Do đó vốn nước
ngoài sẽ là một “cú hích” để góp ghần đột phá vào cái “vòng luẩn quẩn” đó. Đặc
biệt là FDI nguồn quan trọng để khắc phục tình trạng thiếu vốn mà không gây nợ
cho các nước nhận đầu tư. Không như vốn vay nước đầu tư chỉ nhận một phần lợi
nhuận thích đáng khi công trình đầu tư hoạt động có hiệu quả. Hơn nữa lượng vốn
này còn có lợi thế hơn nguồn vốn vay ở chỗ. Thời hạn trả nợ vốn vay thường cố
định và đôi khi quá ngắn so với một số dự án đầu tư, còn thời hạn vốn FDI thì linh
hoạt hơn.
Theo mô hình lý thuyết “hai lỗ hổng” của Cherery và Stront có hai cản trở chính
cho sự ta của một quốc gia đó là: Tiết kiệm không đủ đáp ứng cho nhu cầu đầu tư
được gọi là “lỗ hổng tiết kiệm”.Và thu nhập của hoạt động xuất khẩu không đáp
ứng nhu cầu ngoại tệ cho hoạt động nhập khẩu được gọi là “lỗ hổng thương mại”.
Hầu hết các nước kém phát triển, hai lỗ hổng trên rất lớn. Vì vậy FDI góp phần làm
tăng khả năng cạnh tranhvà mở rộng khả năng xuất khẩu của nước nhận đầu tư, thu
một phần lợi nhuận từ các công ty nước ngoài, thu ngoại tệ từ các hoạt dộng dịch
vụ cho FDI.
Chuyển giao công nghệ
Lợi ích quan trọng mà FDI mang lại đó là công nghệ khoa học hiện đại, kỹ sảo
chuyên môn, trình độ quản lý tiên tiến. Khi đầu tư vào một nước nào đó, chủ đầu
tư không chỉ vào nước đó vốn bằng tiền mà còn chuyển cả vốn hiện vật như máy
móc thiết bị, nhuyên vật liệu....(hay còn gọi là cộng cứng) trí thức khoa hoạch bí
quyết quản lý, năng lực tiếp cận thị thường ...(hay còn gọi là phần mềm.) Do vậy
đứng về lâu dài đây chính là lợi ích căn bản nhất đối với nước nhận đầu tư. FDI có
thể thúc đẩy phát triển các nghề mới, đặc biệt là những nghề đòi hỏi hàm lượng
công nghệ cao. Vì thế nó có tác dụng to lớn đối với quá trình công nghiệp hóa,
dịch chuyển cơ cấu kinh tế, ta nhanh của các nước nhận đầu tư. FDI đem lại kinh
nghiệm quản lý, kỹ năng kinh doanh và trình độ kỹ thuật cho các đối tác trong
nước nhận đầu tư, thông qua những chương trình đào tạo và quá trình vừa học vừa
làm. FDI còn mang lại cho họ những kiến thức sản xuất phức tạp trong khi tiếp
nhận công nghệ của các nước nhận đầu tư. FDI còn thúc đẩy các nước nhận đầu tư
phải cố gắng đào tạo những kỹ sư, những nhà quản lý có trình độ chuyên môn để
tham gia vào các công ty liên doanh với nước ngoài.
Thực tiễn cho thấy, hầu hết các nước thu hút FDI đã cải thiện đáng kể trình độ kỹ
thuật công nghệ của mình. Chẳng hạn như đầu những năm 60 Hàn Quốc còn kém
về lắp ráp xe hơi, nhưng nhờ chuyển nhận công nghệ Mỹ, Nhật, và các nước khác
mà năm 1993 họ đã trở thành những nước sản xuất ô tô lớn thứ 7 thế giới.
Trong điều kiện hiện nay, trên thế giới có nhiều công ty của nhiều quốc gia khác
nhau có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài và thực hiện chuyển giao công ghệ cho nước
nào tiếp nhận đầu tư. Thì đây là cơ hội cho các nước đang phát triển có thể tiếp thu
được các công nghệ thuận lợi nhất. Nhưng không phải các nước đang phát triển
được “đi xe miễn phí” mà họ phải trả một khoản “học phí” không nhỏ trong việc
tiếp nhận chuyển giao công nghệ này.
Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài, các nước đang phát triển muốn thực
hiện mục tiêu quan trọng hàng đầu là đẩy mạnh ta kinh tế. Đây cũng là điểm nút để
các nước đang phát triển khoát ra khỏi các vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo. Thực
tiễn và kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, các quốc gia nào thực hiện chiến
lược kinh tế mở của với bên ngoài, biết tranh thủ và phát huy tác dụng của các
nhân tố bên ngoài biến nó thành những nhân tố bên trong thì quốc gia đó tạo được
tốc độ tăng cao.
Mức tăng trưởng ở các nước đang phát triển thường do nhân tố tăng đầu tư, nhờ đó
các nhân tố khác như tổng số lao động được sử dụng, năng suất lao động cũng tăng
lên theo. Vì vậy có thể thông qua tỷ lệ đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với ta kinh
tế.
Rõ ràng hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần tích cực thúc đẩy ta
kinh tế ở các nước đang phát triển. Nó là tiền đề, là chỗ dựa để khai thác những
tiềm năng to lớn trong nước nhằm phát triển nền kinh tế.
Thúc đẩy quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế
Yêu cầu dịch chuyển nền kinh tế không chỉ đòi hỏi của bản thân sự phát triển nội
tại nền kinh tế, mà còn là đòi hỏi của xu hứng quốc tế hóa đời sống kinh tế đang
diễn ra mạnh mẽ hiện nay.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong bộ phận quan trọng của hoạt động kinh tế
đối ngoại. Thông qua các quốc gia sẽ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình phân
công lao động quốc tế. Để hội nhập vào nền kinh tế giữa các nước trên thế giới, đòi
hỏi mỗi quốc gia phải thay đổi cơ cấu kinh tế trong nước cho phù hợp với sự phân
công lao dộng quốc tế. Sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế của nước phù hợp với trình
độ chung trên thế giới sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư nước ngoài.
Ngược lại, chính hoạt động đầu tư lại góp phần thúc đẩy nhanh quá trình dịch
chuyển cơ cấu kinh tế. Bởi vì: Một là, thông qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài đã làm xuất hiện nhiều lĩnh vực và ngành kinh tế mới ở các nước nhận đầu
tư. Hai là, đầu tư trực tiếp nước ngoài giúp vào sự phát triển nhanh chóng trình độ
kỹ thuật công nghệ ở nhiều nghành kinh tế, góp phần thúc đẩy tăng năng suất lao
động ở một số ngành này và tăng tỷ phần của nó trong nền kinh tế. Ba là, một số
ngành được kích thích phát triển bởi đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhưng cũng có
nhiều ngành bị mai một đi, rồi đi đến chỗ bị xóa bỏ.
Một số tác động khác
Ngoài những tác động trên đây, đầư tư trực tiếp nước ngoài còn có một số tác
động sau:
Đóng góp phần đáng kể vào nguồn thu ngân sách Nhà nước thông qua việc
nộp thuế của các đơn vị đầu tư và tiền thu tư việc cho thuê đất ....
Đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng đóng góp cải thiện cán cân quốc tế cho nước
tiếp nhận đầu tư. Bởi vì hầu hết các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài là sản
xuất ra các sản phẩm hướng vào xuất khẩu phần đóng góp của tư bản nước
ngoài và việc phá triển xuất khẩu là khá lớn trong nhiều nước đang phát
triển.Ví dụ như Singapore lên72,1%, Brazin là 37,2%, Mehico là 32,1%, Đài
loan là 22,7%, Nam Hàn 24,7%, Agentina 24,9%. Cùng với việc tăng khả
năng xuất khẩu hàng hóa, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn mở rộng thị trường
cả trong nước và ngoài nước. Đa số các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đều
có phương án bao tiêu sản phẩm. Đây gọi là hiên tượng “hai chiều” đang trở
nên khá phổ biến ở nhiều nước đang phát triển hiện nay.
Về mặt xã hội, đầu tư trục tiếp nước ngoài đã tạo ra nhiều chỗ làm việc mới,
thu hút một khối lượng đáng kể người lao độngở nước nhận đầu tư vào làm
việc tại các đơn vị của đầu tư nước ngoài. Điều đó góp phần đáng kể vào việc
làm giảm bớt nạn thất nghiệp vốn là một tình trạng nan giải của nhiều quốc
gia. Đặc biệt là đối với các nước đang phát triển, nơi có lực lượng lao động rất
phong phú nhưng không có điều kiện khai thác và sử dụng được. Thì đầu tư
trực tiếp nước ngoài đước coi là chìa khóa quan trọng để giải quyết vấn đề
trên đây. Vì đầu tư trực tiếp nước ngoài tạo ra được các điều kiện về vốn và
kỹ thuật, cho phép khai thác và sử dụng các tiềm năng về lao động. Ở một số
nước đang phát triển số người làm việc trong các xí nghiệp chi nhánh nước
ngoài so với tổng người có việc làm đạt tỷ lệ tương đối cao như Singapore
54,6%, Brazin 23%, Mehico 21%. Mức trung bình ở nhiều nước khác là 10%.
Ở Việt Nam có khoảng trên100 nghìn người đang làm trong các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài. Đây là con số khá khiêm tốn.
Tuy nhiên sự đóng góp của FDI đối với việc làm trong nước nhận đầu tư thụ
thuộc rất nhiều vào chính sach và khả năng lỹ thuật của nước đó.
Những ảnh hưởng tiêu cực của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chuyển giao công nghệ
Khi nói về vấn đề chuyển giao kỹ thuật thông qua kênh đầu tư trực tiếp nước
ngoài ở phần trên,chểng ta đã đề cập đến một nguy cơ là nước tiếp nhận đầu
tư sẽ nhận nhiều kỹ thuật không thích hợp. Các công ty nước ngoài thường
chuyển giao những công nghệ kỹ thuật lạc hậu và máy móc thiết bị cũ. Điều
này cũng có thể giải thich là: Một là, dưới sự tác động của cuộc cách mạng
khoa học kỹ thuật cho nên máy móc công nghệ nhanh chóng trở thành lạc
hậu. Vì vậy họ thường chuyển giao những máy móc đã lạc hậu cho các nước
nhận đầu tư để đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm, nâng cao chát lượng
của sản phẩm của chính nước họ.Hai là, vào giai đoạn đầu của sự phát triển,
hầu hết các nước đều sử dụng công nghệ, sự dụng lao động.Tuy nhiên sau một
thời gian phát triển giá của lao động sẽ tăng, kết quả là giá thánhản phẩm cao.
Vì vậy họ muốn thay đổi công nghệ bằng những công nghệ có hàm lượng cao
để hạ giá thành sản phẩm. Do vậy việc chuyển giao công nghệ lạc hậu đã gây
thiệt hại cho các nước nhận đầu tư như là:
Rất khó tính được giá trị thực của những máy móc chuyển giao đó. Do
đó nước đầu tư thường bị thiệt hại trong việc tính tỷ lệ góp trong các
doanh nghiệp liên doanh và hậu quả là bị thiệt hại trong việc chia lợi
nhuận.
Gây tổn hại môi trường sinh thái. Do các công ty nước ngoài bị cưỡng
chế phải bảovệ môi trường theo các quy định rất chặt chẽ ở các nước
công nghiệp phát triển, thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài họ muốn
xuất khẩu môi trường sang các nước mà biện pháp cưỡng chế, luật bảo
vệ môi trường không hữu hiệu.
Chất lượng sản phẩm, chi phí sản xuất caovà do đó sản phẩm của các
nước nhận đầu tư khó có thể cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Thực tiễn cho thấy, tình hình chuyển giao công nghệ của các nước công
nghiệp sang các nước đang phát triển đang còn là vấn đề gay cấn.Ví dụ theo
báo cáo của ngân hàng phát triển Mỹ thì 70% thiệt bị của các nước Mỹ La
Tinh nhập khẩu từ các nước tư bản phát triển là công nghệ lạc hậu.Cũng
tương tự, các trường hợp chuyển giao công nghệ ASEAN lúc đầu chưa có kinh
nghiệm kiểm tra nên đã bị nhiều thiệt thòi.
Tuy nhiên, mặt trái này cũng một phần phụ thuộc vào chính sách công nghệ
của các nước nhận đầu tư. Chẳng hạn như Mehico có 1800 nhà máy lắp ráp
sản xuất của các công ty xuyên gia của Mỹ. Mội số nhà máy này được chuyển
sang Mehico để tránh những quy định chặt chẽ về môi thường ở Mỹ và lợi
dụng những khe hở của luật môi trường ở Mehico.
Phụ thuộc về kinh tế đối với các nước nhận đầu tư
Đầu tư trực tiếp nước ngoài thường đước chủ yếu do các công ty xuyên quốc
gia, đã làm nảy sinh nỗi lo rằng các công ty này sẽ tăng sự phụ thuộc của nền
kinh tế của nước nhận đầu tư vào vốn, kỹ thuật và mạng lưới tiêu thụ hàng
hóa của các công ty xuyên quóc gia. Đầu tư trực tiếp nước ngoài có đóng góp
phần vốn bổ sung quan trọng cho quá trình phát triển kinh tế và thực hiện
chuyển giao công nghệ cho các nước nhận đầu tư. Đồng thời cũng thông qua
các công ty xuyên quốc gia là những bên đối tác nươc ngoài để chúng ta có thể
tiêu thụ hàng hóa vì các công ty này nắm hầu hết các kênh tiêu thụ hàng hóa
từ nước này sang nước khác. Vậy nếu càng dựa nhiều vào đầu tuu trực tiếp
nước ngoài, thì sự phụ thuộc của nền kinh tế vào các nước công nghiệp phát
triển càng lớn . Và nếu nền kinh tế dựa nhiều vào đầu tư trực tiếp nước ngoài
thì sự phát triển của nó chỉ là một phồn vinh giả tạo. Sự phồn vinh có được
bằng cái của người khác.
Nhưng vấn đề này có xảy ra hay không còn phụ thuộc vào chính sách và khả
năng tiếp nhận kỹ thuật của từng nước. Nếu nước nào tranh thủ được vốn, kỹ
thuật và có ảnh hưởng tích cực ban đầu của đầu tư trực tiếp nước ngoài mà
nhanh chòng phát triển công nghệ nội đại, tạo nguồn tích lũy trong nước, đa
dạng hóa thị trrường tiêu thụ và tiếp nhận kỹ thuật mới cũng như đẩy mạnh
nghiên cứu và triển khai trong nước thì sẽ được rất nhiều sự phụ thuộc của
các công ty đa quốc gia.
Chi phí cho thu hểt FDI và sản xuất hàng hóa không thích hợp
Một là: Chi phí của việc thu hút FDI
Để thu hút FDI, các nước đầu tư phải áp dụng một số ưu đãi cho các nhà đầu
tư như là giảm thuế hoặc miễn thuế trong một thời gian khá dài cho phần lớn
các dự án đầu tư nước ngoài. Hoặc việc giảm tiền cho họ cho việc thuê đất,
nhà xưởng và một số các dịch vụ trong nước là rất thấp so với các nhà đầu tư
trong nước. Hay trong một số lĩnh vực họ được Nhà nước bảo hộ thuế quan....
Và như vậy đôi khi lợi ích của nhà đầu tư có thể vượt lợi ích mà nước chủ nhà
nhận được. Thế mà, các nhà đầu tư còn tính giá cao hơn mặt bằng quốc tế cho
các yếu tố đầu vào. Các nhà đầu tư thường tính giá cao cho các nguyên vật
liệu,bán thành phẩm, máy móc thiết bị mà họ nhập vào để thực hiện đầu tư.
Việc làm này mang lại nhiều lợi ích cho các nhà đầu tư chẳng hạn như trốn
được thuế, hoặc giấu được một số lợi nhuận thực tế mà họ kiếm được. Từ đó
hạn chế cạnh tranh của các nhà đầu tư khác xâm nhập vào thị trường. Ngược
lại, điều này lại gây chi phí sản xuất cao ở nước chủ nhà và nước chủ nhà phải
mua hàng hóa do các nhà đầu tư nước ngoài sản xuất với giá cao hơn.
Tuy nhiên việc tính giá cao chỉ sảy ra khi nước chủ nhà thiếu thông tin, trình
độ kiểm soát, trình độ quản lý, trình độ chuyên môn yếu, hoặc các chính sách
của nước đó còn nhiều khe hở khiến cho các nhà đầu tư có thể lợi dụng được.
Hai là: Sản xuất hàng hóa không thích hợp
Các nhà đầu tư còn bị lên án là sản xuất và bán hàng hóa không thích hợp cho
các nước kém phát triển, thậm chí đôi khi còn lại là những hàng hóa có hại
cho khỏe con người và gây ô nhiễm môi trường. Ví dụ như khuyến khích dùng
thuốclá, thuốc trừ sâu, nước ngọt có ga thay thế nước hoa quả tươi, chất tẩy
thay thế xà phòng vv...
Những mặt trái khác
Trong một số các nhà đầu tư không phải không có trường hợp hoạt động tình
báo, gây rối an ninh chính trị. Thông qua nhiều thủ đoạn khác nhau theo kiểu
“diễn biến hòa bình”. Có thể nói rằng sự tấn công của các thế lực thù địch
nhằm phá hoại ổn định về chính trị của nước nhận đầu tư luôn diễn ra dưới
mọi hình thức tinh vi và xảo quyệt. Trường hợp chính phủ Xanvado Agiende
ở Chile bị giật dây lật đổ năm 1973 là một ví dụ về sự can thiệp của các công
ty xuyên quốc gia ITT(công ty viễn thông và điện tín quóc tế) và chính phủ
Mỹ cam thiệp công việc nội bộ của Chile.
Mặt khác, mục đích của các nhà đầu tư là kiếm lời, nên họ chỉ đầu tư vào
những nơi có lợi nhất. Vì vậy khi lượng vốn nước ngoài đã làm tăng thêm sự
mất cân đối giữa các vùng,giữa nông thôn và thành thị. Sự mất cân đối này có
thể gây ra mất ổn định về chính trị. Hoặc FDI cũng có thẻ gây ảnh hưởng xấu
về mặt xã hội. Những người dân bản xứ làm thuê cho các nhà đầu tư có thể bị
mua chuộc, biến chất, thay đổi quan điểm, lối sống và nguy cơ hơn là họ có
thể phản bội Tổ Quốc. Các tệ nãnã hội cũng có thể tăng cường với FDI như
mại dâm, nghiện hút....
Những mặt trái của FDI không có nghĩa là phủ nhận những lợi thế cơ bản của
nó mà chúng ta chỉ lưu ý rằng không nên quá hy vọng vào FDI và cần phải có
những chính sách, những biện pháp kiểm soát hữu hiệu để phát huy những
mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của FDI. Bởi vì mức độ thiệt hại của
FDI gây ra cho nước chủ nhà nhiều hay ít lại phụ thuộc rất nhiều vào chính
sách, năng lực, trình độ quản lý, trình độ chuyên môn của nước nhận đầu tư.